Hà Nội: 19°C Hà Nội
Đà Nẵng: 20°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 27°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 19°C Thừa Thiên Huế

Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN) Việt Nam đang đứng trước rất nhiều cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức đặt ra. Trong những thách thức là vấn đề mẫu sản phẩm TCMN sao có được vẻ đẹp hấp dẫn, được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng… thu hút thị trường, tạo ra giá trị kinh tế lớn và giá trị mỹ thuật, văn hóa… đây là vấn đề quan trọng quyết định chất lượng sản phẩm TCMN.

Việc các tổ chức cùng nhau có những trao đổi và có hướng đi cho tiếp tục thúc đẩy hàng TCMN Việt Nam phát triển, hoạch định được điểm mạnh và những mặt hàng mới để trọng tâm cho giai đoạn sắp tới là sự cần thiết. Với vai trò Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, là tổ chức đứng đầu của Nhà nước đối với việc tổ chức các hoạt động làng nghề Việt Nam, với đa ngành nghề; ở góc độ riêng của ngành TCMN việc cần có định hướng về thiết kế mẫu mã sản phẩm hàng TCMN là rất cần thiết đối với định hướng chung về sự phát triển của TCMN Việt Nam.

Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ

1. Khái quát về ngành nghề Thủ công mỹ nghệ

“Thủ công mỹ nghệ là một ngành nghề thuộc vào lĩnh vực nghệ thuật thiết kế, được tạo ra theo cách rất đặc biệt và vô cùng tỉ mỉ từ bàn tay của những người nghệ nhân. Hàng thủ công mỹ nghệ luôn nhận được sự đánh giá cao về tính thẩm mỹ, tính nghệ thuật cũng như công dụng mà hàng thủ công mang lại. Các nghệ nhân và người lao động tạo ra hàng thủ công mỹ nghệ được đánh giá như là những người nghệ sĩ tài hoa với đôi bàn tay mềm mại vẽ lên các họa tiết được ví như vàng như ngọc.”

Thủ công mỹ nghệ có gốc rễ của nó là trong hàng thủ công từ nông thôn bao gồm các nhu yếu phẩm, vật liệu và hàng hóa của các nền văn minh cổ đại. Một số hàng thủ công đã tồn tại trong nhiều thế kỷ, trong khi một số khác lại là các phát minh hiện đại, là sự phát triển đại trà của hàng thủ công mà ban đầu được sản xuất chỉ trong một khu vực địa lý hạn chế... Cũng có thể hiểu thủ công mỹ nghệ là đồ thủ công (hand crafted). “Ngành thủ công mỹ nghệ: là một lĩnh vực nghệ thuật tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm bằng tay, sử dụng các kỹ thuật và công cụ truyền thống. Thủ công mỹ nghệ bao gồm nhiều loại hình thủ công khác nhau như điêu khắc, làm hoa giấy, trang trí gốm sứ, thêu thùa, may vá, đan móc và nhiều hình thức khác.”

Ngành thủ công mỹ nghệ không chỉ giữ gìn và phát triển các kỹ thuật truyền thống, mà còn thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo trong thiết kế và sản xuất. Nó còn mang lại những lợi ích tinh thần như giảm căng thẳng, tăng cường sự tập trung và thúc đẩy sự thư giãn và sự hài lòng. Nhiều nghệ nhân làm hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng vật liệu tự nhiên, thậm chí hoàn toàn bản địa, trong khi những người khác có thể dùng vật liệu phi truyền thống hiện đại, và thậm chí tái sử dụng các vật liệu công nghiệp. Tay nghề thủ công cá nhân của một mặt hàng thủ công mỹ nghệ là tiêu chí tối quan trọng…

2. Thực trạng thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam

Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ

- Tình hình chung hàng TCMN Việt Nam ngoài nước

Theo thông tin tổng quan về Xuất khẩu ngành Thủ công mỹ nghệ Việt Nam:

TCMN liên tục thuộc top 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong những năm gần đây. Kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này mang lại nhiều giá trị cho nền kinh tế và dự sẽ là ngành mũi nhọn để đẩy mạnh và mở rộng xuất khẩu trong vài năm tới. Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN đạt 2,35 tỷ đô la Mỹ. Bất chấp ảnh hưởng của đại dịch, ngành thủ công mỹ nghệ vẫn giữ vững mức tăng trưởng ổn định. Những năm gần đây mức độ tăng trưởng xuất khẩu của TCMN bình quân khoảng 10%/năm. Đây là một con số có mức tăng trưởng khá cao. Nó có đóng góp không nhỏ vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Thực tế qua những con số thống kê cho tình hình của hoạt động ngành TCMN dù sau bối cảnh đại dịch Covid-19, Các sản phẩm thủ công của Việt Nam đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng khá, mức thu nhập của người lao động cao hơn so với người lao động thuần nông. Theo Cục Xúc tiến thương mại, kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN trong những năm qua luôn trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nhưng đây cũng cũng là một thời điểm để những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất… cần nhìn lại việc thị trường cần gì? và sự đáp ứng cho thị trường cần như thế nào? Làm cách nào để tháo gỡ những khó khăn thực hiện những mục tiêu đặt ra để thực sự phát triển bền vững mọi mặt; trong đó việc nâng cao mẫu mã cho sản phẩm luôn vẫn là một vấn đề cần quan tâm của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất… hàng TCMN.

Như vậy, tình hình sản phẩm TCMN trên thế giới của Việt Nam khá nhiều tiềm năng và cho thấy hướng phát triển là rất khả quan.

- Thị trường sản phẩm TCMN trong nước

Ngành TCMN với sự góp phần đa dạng hóa nền kinh tế nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hóa, đóng góp to lớn vào việc bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm qua luôn nằm trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và ngành thủ công mỹ nghệ có vai trò quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, là ngành nghề thu hút nhiều lao động tham gia làm hàng xuất khẩu, góp phần cải thiện đời sống người lao động ở nông thôn.

Từ xa xưa, truyền thống của TCMN là hình thức sản phẩm và kỹ thuật chế tác sản phẩm thủ công mỹ nghệ được truyền từ đời này qua đời khác tại các làng nghề, từng gia đình thợ, hoàn thiện dần, trở thành sản phẩm đặc trưng riêng của từng làng nghề, thậm chí có những nghề là bí quyết của từng dòng họ, người được truyền lại nghề trong dòng họ mới nắm những bí quyết nghề... Sự cầu kỳ và tinh tế trong sử dụng nguyên liệu, cùng với hình thức trang trí đặc sắc đã khiến cho nhiều sản phẩm trở thành tác phẩm nghệ thuật. Điều này được thấy rõ qua các cổ vật, từ đồ đồng, gốm đến đồ sơn son thếp vàng, khảm trai, chạm bạc…

Cùng với tiến trình mở cửa kinh tế và giao lưu toàn cầu, khách hàng từ các nước ngoài tới làng nghề, tiếp xúc với nghệ nhân và sẵn sàng mua sản phẩm đặc sắc với giá cao. Tính sáng tạo trong làng nghề được phát huy, mẫu mã sản phẩm lại đa dạng, phong phú hơn, chất lượng và thẩm mỹ của sản phẩm ngày càng được nâng cao, sáng tạo độc đáo và tinh xảo của các nghệ nhân có cơ hội phát triển.

Tuy có hướng phát triển tốt, nhưng bên cạnh đó vẫn còn những vấn đề như khi phát triển công nghệ hiện đại, mọi sản phẩm của cuộc sống con người được sản xuất ra nhiều, nhanh, đẹp, thuận tiện… như vậy sản phẩm TCMN sẽ có chỗ đứng trong cuộc sống con người nhu cầu giảm đi, “thế mạnh độc tôn của sản phẩm thủ công mỹ nghệ là có thể tạo nên những nét đặc trưng văn hóa trên sản phẩm để người tiêu dùng chiêm ngưỡng và thưởng thức trong khi sử dụng sẽ giảm đi số lượng lớn. Chính vì vậy, khâu thiết kế mẫu sản phẩm được đánh giá là quan trọng nhất.”

Những năm qua, nhân lực trong các làng nghề TCMN tuy có nhiều phát triển về tay nghề, sự trưởng thành, số lượng… nhưng do phát triển công nghiệp hóa mạnh mẽ ở nước ta thu hút lượng lớn người lao động ở nông thôn. Nhân lực sản xuất trong các làng nghề thủ công truyền thống suy giảm dần là điều khó tránh khỏi. Còn lại những người vô cùng yêu nghề truyền thống và có tay nghề giỏi, nhưng tuổi của lớp người này cũng cao dần… bên cạnh đã có đội ngũ trẻ gìn giữ nghề cha ông, phát huy rất tốt tay nghề và sự sáng tạo, đặc biệt nhanh nhạy với sự thích ứng của thương trường để ứng dụng trong sản xuất sản phẩm TCMN.

- Thực trạng đội ngũ thiết kế sản phẩm TCMN

Đội ngũ sáng tác thiết kế sản phẩm tại các làng nghề, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm TCMN là yếu tố quyết định lớn cho sự phát triển. Phần lớn là tự phát tại làng nghề, những thiết kế của họ đi cùng sự sản xuất cầu của doanh nghiệp và các xưởng tại các làng nghề, mẫu mã đều xuất phát đa phần từ yêu cầu của các chủ doanh nghiệp. Các thiết kế thực sự cũng là quá trình nghiên cứu thị trường để đúng xu hướng của từng địa bàn người tiêu dùng cả trong và ngoài nước. Nhiều mẫu mã sau khi chào hàng qua các hình thức hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước, giới thiệu qua các trang thông tin… được các khách hàng thị trường nước ngoài ký hợp đồng với doanh nghiệp sản xuất TCMN với số lượng hàng lớn ở nhiều chủng loại mẫu mã. Hoặc có thể ký đặt mẫu chào nhưng có chỉnh sửa theo yêu cầu của phía khách hàng.

Đối với đội ngũ nhà thiết kế chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản về năng lực thiết kế, có thể ra những mẫu thiết kế đạt về thẩm mỹ kết hợp tính công năng để có sản phẩm hoàn thiện. Nhưng cũng nhiều nhược điểm, bởi sự tiếp cận thị trường để có mẫu xã hội đang cần, do tính thực hành trong quá trình đào tạo không được tiếp cận nhiều nên nhiều khi yếu tố thiết kế sản phẩm còn những yếu điểm chưa phải là những thiết kế đáp ứng nhu cầu xã hội, hoặc thiết kế có tính khả thi trong quá trình chế tác sản xuất để sản phẩn có thể sản xuất số lượng lớn.

Chính những thực tại của đội ngũ thiết kế cũng còn những khập khiễng và những yếu điểm của từng đối tượng người thiết kế như vậy, nên sản sản xuất chưa thật sự đúng với nhu cầu khách hàng. Hoặc các thiết kế chỉ làm theo đơn hàng từ khách hoặc sao chép mẫu mã có sẵn trên thị trường, những mẫu thiết kế còn thiếu tính thương mại nên rất khó để xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Dẫn đến việc khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn không cao so với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới.

3. Những tồn tại

Đặc điểm của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam chính là dựa trên các yếu tố sản xuất bền vững trên toàn bộ chuỗi giá trị sản phẩm hàng thủ công, về chất lượng cũng như yếu tố giá thành.

Bất cập lớn nhất của ngành hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay vẫn là thiết kế mẫu mã sản phẩm. Vì thế, việc tìm chỗ đứng trên thị trường trong và ngoài nước đối với mặt hàng này vẫn còn khá chật vật. Hiện có tới 90% sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam dựa trên thiết kế của khách hàng nước ngoài và sử dụng nhãn mác của khách hàng, lý do chính là vì thiếu sáng tạo trong mẫu mã sản phẩm…

Từ việc các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam chưa coi trọng đầu tư khâu thiết kế mẫu mã sản phẩm nên dẫn đến tồn tại là quá lệ thuộc vào truyền thống, cầu kỳ, chưa chú trọng đến công năng.... bên cạnh đó, nhiều làng nghề còn bắt chước, sao chép mẫu mã trên thị trường làm mất đi tính đa dạng và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đây là nguyên nhân chính gây nên việc khó cạnh tranh với hàng nước ngoài.

Tồn tại về mẫu của hàng TCMN do một số nguyên nhân sau:

- Mẫu mã còn đơn điệu, nhàm chán không phù hợp với lối sống sôi động của các nước phát triển trong khi chính các nước lại là đối tượng chính tiêu thụ sản phẩm của ta. nhàm chán không phù hợp với lối sống sôi động của các nước phát triển trong khi chính các nước lại là đối tượng chính tiêu thụ sản phẩm của ta. mẫu mã còn đơn điệu.

- Sản phẩm còn bị nhược điểm nữa là chất lượng kém và không đồng đều, bên cạnh đó khi có sự thay đổi về thời tiết thì một số sản phẩm có thẻ bị ẩm mốc.

- Thiếu thợ lành nghề đã qua đào tạo cơ bản

- Thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu.

- Quy mô sản xuất nhỏ, khó có khả năng trang bị được những thiết bị công nghệ hiện đại, phụ trợ cho việc thiết kế, sản xuất nâng cao cả về chất lượng và số lượng, làm giảm sức cạnh tranh qua giá của hàng TCMN Việt Nam sang thị trường lớn trêm thế giới.

4. Giải pháp nâng cao năng lực thiết kế mẫu sản phẩm TCMN

Để có những giải pháp nhằm nâng cao thiết kế năng lực sản phẩm TCMN, việc tăng cường cần phải mọi mặt, mọi góc độ để nhằm tăng cao mọi mặt của sản phẩm. Đầu tiên mọi mặt hàng sản phẩm đều có cơ chế là hành lang pháp lý làm môi trường sống. Những giải pháp hiệu quả từ Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ đã có những cơ chế, văn bản ban hành với nhiều chính sách hỗ trợ đối với ngành nghề nông thôn, trong đó có ngành thủ công mỹ nghệ. Những chính sách hỗ trợ của Nhà nước liên quan đến sản xuất và xuất khẩu sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ hiện hành được quy định chủ yếu tại Nghị định 152/2018/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn (sau đây gọi là Nghị định 152), Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quyết định 100/QĐ-TTg năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc và một số thông tư hướng dẫn thi hành. Cho thấy các chủ thể trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngành nghề nông thôn đều được Nhà nước bảo đảm hành lang pháp lý để phát triển.

Những chính sách liên quan trực tiếp tới hoạt động ngành nghề nông thôn nói chung, hoạt động sản xuất, xuất khẩu sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng. Về mặt bằng sản xuất: Trước thực trạng chung của hoạt động ngành nghề nông thôn đa phần là nhỏ lẻ, phân tán, với quy mô hộ gia đình là chính, mặt bằng sản xuất thiếu nên đã hạn chế khả năng phát triển mở rộng và bảo đảm yêu cầu về môi trường, Về xúc tiến thương mại đối với ngành nghề nông thôn nước ta là vấn đề mới, xuất hiện khi Nhà nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó, Nghị định 152 đã quy định cụ thể một số chính sách hỗ trợ ngành nghề nông thôn tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các cơ sở ngành nghề nông thôn hoạt động xúc tiến thương mại theo quy định hiện hành của Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.

Về khoa học công nghệ: vấn đề đưa khoa học công nghệ vào sản xuất để khắc phục những mặt hạn chế là rất cần thiết nhằm tăng tính cạnh tranh tại thị trường trong nước và nước ngoài nhất là khi Việt Nam là thành viên của nhiều Hiệp định thương mại thế hệ mới. Về đạo tạo nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển của ngành nghề nông thôn; người làm nghề truyền thống, người làm nghề tại làng nghề, làng nghề truyền thống và người làm việc tại các cơ sở ngành nghề nông thôn, được hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp theo quy định hiện hành. Các nghệ nhân trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn được Nhà nước hỗ trợ kinh phí tổ chức đào tạo nghiệp vụ sư phạm nghề nghiệp, kỹ năng dạy học; Được thù lao theo quy định khi tham gia đào tạo nghề nghiệp cho lao động nông thôn. Nhà nước có chương trình: Bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống; Phát triển làng nghề gắn với du lịch và xây dựng nông thôn mới; Phát triển làng nghề mới. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới hỗ trợ các dự án, đề án, kế hoạch, mô hình thuộc Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề nói trên.

Bên cạnh đó cũng cần lưu ý về các vấn đề: Khách hàng đang rất quan tâm về sản xuất bền vững nên đây sẽ là xu hướng của thị trường thủ công mỹ nghệ. Cần tập trung sản xuất những sản phẩm chất lượng tốt và phải có giá trị sử dụng cao trong cuộc sống hằng ngày, không nên sản xuất đại trà vì sẽ vấp phải sự cạnh tranh của các sản phẩm đến từ Trung Quốc. Trong kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ khách hàng càng ngày càng muốn cắt tối đa khâu trung gian, trực tiếp với các cơ sở sản xuất và đây cũng là cơ hội để trực tiếp cơ hội tiếp cận tốt hơn với các thị trường lớn nhất là thị trường nước ngoài.

Kết luận

Ngành TCMN phát triển góp phần đa đạng hóa kinh tế nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hóa, đóng góp to lớn vào việc bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có vai trò quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, là ngành nghề thu hút nhiều lao động tham gia làm hàng xuất khẩu, góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn.

Muốn phát triển toàn diện phát triển ngành TCMN Việt Nam, một trong những điểm trọng yếu là thiết kế mẫu sản phẩm TCMN có hướng tương tác, nắm bắt được nhu cầu thị trường không chỉ đem lại giá trị kinh tế, mà cả yếu tố văn hóa được chứa đựng nhằm góp phần đưa ngành TCMN Việt Nam có những tiềm năng phát triển.

Hy vọng việc chú trọng phát triển ngành nghề nông thôn nói chung và nghề thủ công mỹ nghệ nói riêng với quy mô, trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến cùng với gắn sản xuất làng nghề với các hoạt động du lịch, văn hóa, lễ hội truyền thống của tỉnh qua đó sẽ góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân tại địa phương.

PGS.TS Đặng Mai Anh

Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp

PV

Tin liên quan

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Hà Nội: Hội Làng nghề mộc truyền thống Thượng Mạo tổ chức Đại hội III, nhiệm kỳ 2024 - 2029

Hà Nội: Hội Làng nghề mộc truyền thống Thượng Mạo tổ chức Đại hội III, nhiệm kỳ 2024 - 2029

LNV - Sáng ngày 17/11, tại Làng nghề mộc truyền thống Thượng Mạo (Phú Lương - Hà Đông). Hội Làng nghề mộc truyền thống Thượng Mạo tổ chức Đại hội III, nhiệm kỳ 2024 - 2029.

Tin mới hơn

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

LNV - Dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngành thủ công, mỹ nghệ Việt Nam vẫn có thể vươn lên khi thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ đô la vào năm 2025 và 6 tỉ đô la vào năm 2030 theo Quyết định đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

LNV - Nghề thủ công truyền thống của các tộc người là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc, qua việc nghiên cứu cũng chính là sự bảo lưu và phát triển bản sắc văn hóa của họ trong cuộc sống hiện đại, đồng thời cũng là sự thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất những giá trị nhân văn cùng những tinh hoa của văn hóa tộc người, đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong đó có các nghề thủ công truyền thống của người Mường Tân Lạc - Hòa Bình.
Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

LNV - Ngay từ năm 1958, sản phẩm thủ công của các làng nghề đã được chọn làm mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Trong suốt thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, thị trường xuất khẩu của sản phẩm thủ công chỉ bó hẹp trong các nước Xã hội chủ nghĩa. Đến thời kỳ đổi mới và gỡ bỏ cấm vận, các sản phẩm thủ công mới có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận với các nước Âu, Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công tăng lên nhanh chóng, và nhiều chủng loại mặt hàng mới cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có hơn 5.000 làng nghề và làng có nghề, thu hút gần 10 triệu lao động, mang lại giá trị xuất khẩu hơn 1,7 tỷ USD/năm. Những con số trên cho thấy sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đã mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng đất nước, an sinh xã hội và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.
Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.

Tin khác

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

LNV - Ðại hội XIII của Ðảng xác định rõ: Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

LNV - Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm (Hà Nội) có hai nghề truyền thống là dát vàng bạc quì và may đồ da đã có từ lâu đời. Làm vàng bạc quì là một nghề truyền thống, chế biến vàng thật, bạc thật thành bột vàng, bạc (gọi là quì) bằng phương pháp sản xuất thủ công lâu đời, độc đáo.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Lễ hội mua sắm nông sản, quảng bá văn hóa gắn kết du lịch tại Sóc Sơn

Lễ hội mua sắm nông sản, quảng bá văn hóa gắn kết du lịch tại Sóc Sơn

LNV - Tối 20/12, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại, Du lịch TP. Hà Nội (HPA) chủ trì, phối hợp với UBND huyện Sóc Sơn và các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức Lễ hội mua sắm năm 2024, với chủ đề Lễ hội mua sắm nông sản, quảng bá văn hóa gắn kết du lịc
Khai mạc chương trình Kết nối sản phẩm OCOP thường kỳ tại TP. HCM

Khai mạc chương trình Kết nối sản phẩm OCOP thường kỳ tại TP. HCM

OVN - Sáng ngày 20/12, tại trụ sở Văn phòng Liên cơ quan Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã diễn ra lễ khai mạc chương trình “Kết nối sản phẩm OCOP thường kỳ tại TP. HCM” với chủ đề “Lễ Hội Nông Sản”.
Tạp chí Làng nghề Việt Nam kỷ niệm 13 năm Ngày xuất bản số đầu tiên

Tạp chí Làng nghề Việt Nam kỷ niệm 13 năm Ngày xuất bản số đầu tiên

LNV - Ngày 20/12/2024, tại Hà Nội, Tạp chí Làng nghề Việt Nam – Cơ quan của Trung ương Hiệp Hội Làng nghề Việt Nam tổ chức kỉ niệm 13 năm Ngày xuất bản số báo đầu tiên (22/12/2011 – 22/12/2024). Tổng kết công tác năm 2024 – Triển khai công tác năm 2025.
Hoài Đức (Hà Nội): La Phù nâng cấp hạ tầng đáp ứng kịp thời phát triển kinh tế

Hoài Đức (Hà Nội): La Phù nâng cấp hạ tầng đáp ứng kịp thời phát triển kinh tế

LNV - La Phù ngày nay, làng nghề dệt kim đã mai một. Thay vào đó, dịch vụ thương mại đang phát triển và đóng góp đáng kể vào xây dựng địa phương. La Phù có thu nhập bình quân đầu người cao nhất huyện Hoài Đức với 105 triệu đồng/người/năm. Do vậy, La Phù c
Nông nghiệp xanh gắn với bảo vệ môi trường ở Đồng bằng sông Cửu Long

Nông nghiệp xanh gắn với bảo vệ môi trường ở Đồng bằng sông Cửu Long

LNV - Nông nghiệp xanh là định hướng phát triển bền vững của vùng Đồng bằng sông Cửu Long khi giúp nâng cao chất lượng, bảo vệ môi trường, đồng thời tạo sinh kế ổn định cho người dân. Để làm được điều này, chuyên gia cho rằng việc bảo vệ môi trường phải được tích hợp chặt chẽ với các chương trình nâng cao chuỗi giá trị.
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động