Cần một chiến lược tổng thể để ngành thủ công mỹ nghệ tỉnh Phú Thọ phát triển sau sáp nhập
![]() |
Công tác quy hoạch vùng nguyên liệu gặp nhiều khó khăn
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, việc sáp nhập cũng đặt ra không ít thách thức cho ngành TCMN, đặc biệt là trong việc quản lý, khai thác và phát triển nguồn nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Trước khi sáp nhập, tỉnh Phú Thọ vốn có một hệ thống làng nghề thủ công truyền thống khá phong phú với các nhóm nghề chính như: mây tre đan (ở huyện Thanh Ba, Hạ Hòa), chế tác gỗ mỹ nghệ (Phù Ninh, Lâm Thao), dệt thổ cẩm (Tân Sơn, Yên Lập), làm nón lá, làm hương (Tam Nông, Cẩm Khê)... Các làng nghề này phần lớn dựa vào nguồn nguyên vật liệu tại chỗ hoặc thu mua từ các địa phương lân cận. Tuy nhiên, tình trạng khai thác nguyên liệu mang tính tự phát, nhỏ lẻ và thiếu quy hoạch đã gây ra nhiều hệ lụy, trong đó có việc chất lượng nguyên liệu không ổn định, nguồn cung thiếu bền vững, gây ảnh hưởng đến tính đồng bộ và khả năng phát triển quy mô sản xuất.
Sau sáp nhập, nhiều xã có làng nghề bị giải thể tư cách pháp lý, hoặc bị sát nhập với các xã không có nghề truyền thống, dẫn đến việc thiếu địa chỉ hành chính rõ ràng cho công tác quy hoạch vùng nguyên liệu và hỗ trợ chính sách phát triển nghề. Một số vùng nguyên liệu truyền thống bị chia cắt hoặc thiếu định hướng bảo tồn sau sáp nhập, gây khó khăn trong việc khôi phục và mở rộng sản xuất nguyên liệu đầu vào.
Nguồn nguyên vật liệu phục vụ ngành TCMN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay bao gồm ba nhóm chính: nguyên liệu có sẵn tại địa phương, nguyên liệu nhập từ tỉnh ngoài, và nguyên liệu công nghiệp phụ trợ. Trong đó, nguyên liệu tại chỗ vẫn chiếm tỷ lệ cao trong một số nhóm nghề như tre, nứa phục vụ mây tre đan ở Thanh Ba, Cẩm Khê; gỗ rừng trồng (keo, bạch đàn) cho đồ gỗ mỹ nghệ ở Tam Nông, Hạ Hòa; lá cọ, lá nón tại Thanh Sơn, Thanh Thủy; và một số cây thuốc, thảo dược dùng để làm hương ở Yên Lập. Tuy nhiên, do tình trạng khai thác không đồng bộ, thiếu cơ chế bảo tồn, nhiều vùng nguyên liệu đang có nguy cơ cạn kiệt.
Diện tích rừng tre nứa tự nhiên ngày càng bị thu hẹp do nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất và chặt phá tùy tiện. Một số giống tre mây bản địa quý hiếm gần như biến mất do không được bảo tồn và nhân giống.
Nguồn gỗ rừng trồng tuy dồi dào nhưng chất lượng gỗ chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của các sản phẩm mỹ nghệ tinh xảo.
Cây cọ và cây nguyên liệu làm hương như cây dẻ, bời lời, hoắc hương... cũng đang bị thu hẹp về diện tích do giá trị kinh tế thấp, nông dân không mặn mà giữ nghề.Bên cạnh đó, nguyên liệu nhập từ ngoài tỉnh như sơn mài, gỗ quý, phụ kiện kim loại, sợi dệt, phẩm màu... chiếm tỷ lệ không nhỏ, nhất là trong các sản phẩm hướng đến thị trường cao cấp hoặc xuất khẩu.
Việc phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu ngoài tỉnh khiến cho giá thành sản xuất tăng cao, dễ bị ảnh hưởng bởi biến động thị trường, đặc biệt trong bối cảnh hậu đại dịch và bất ổn chuỗi cung ứng toàn cầu. Một số hộ, hợp tác xã vì tiết kiệm chi phí đã sử dụng nguyên liệu không rõ nguồn gốc, không bảo đảm chất lượng, dẫn đến suy giảm uy tín sản phẩm TCMN của tỉnh trên thị trường. Nguyên liệu tin công nghiệp phụ trợ như chất kết dính, vecni, sơn PU... cũng thiếu tiêu chuẩn đồng bộ, làm giảm độ bền và tính thân thiện môi trường của sản phẩm.
Việc thiếu liên kết giữa các cơ sở sản xuất với vùng nguyên liệu là một điểm yếu lớn. Phần lớn các cơ sở sản xuất và hộ làm nghề vẫn hoạt động độc lập, mua nguyên liệu thông qua thương lái nhỏ lẻ, không có hợp đồng dài hạn, không kiểm soát được chất lượng nguyên liệu đầu vào. Một số hợp tác xã có cố gắng tổ chức vùng nguyên liệu riêng (như trồng tre lấy nguyên liệu đan lát, trồng cây nguyên liệu làm hương) nhưng quy mô nhỏ, chưa đủ đáp ứng cho sản xuất. Tình trạng này khiến giá nguyên liệu đầu vào thiếu ổn định, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm thủ công mỹ nghệ trên thị trường.
Việc tổ chức lại đơn vị hành chính sau sáp nhập đặt ra yêu cầu mới về vùng nguyên liệu gắn với vùng sản xuất. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu sau sáp nhập, quy hoạch hệ thống quy hoạch còn chưa đồng bộ; nhiều địa phương chưa cập nhật lại bản đồ vùng nguyên liệu TCMN; chưa xây dựng kế hoạch bảo tồn và phát triển nguyên liệu phù hợp với điều kiện mới.
Chính sách hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu còn hạn chế
Các chính sách hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu theo chương trình khuyến công, nông thôn mới, OCOP... chưa được triển khai rộng khắp hoặc còn chậm tiếp cận đến các địa bàn vùng sâu, vùng xa – nơi tập trung nhiều nghề truyền thống và tiềm năng nguyên liệu quý. Thêm vào đó, năng lực chế biến sơ cấp nguyên liệu còn rất hạn chế: tre nứa chưa được xử lý chống mối mọt đúng kỹ thuật; lá nón chưa được phân loại, ép phẳng đồng đều; gỗ rừng trồng chưa được sấy, tẩm bảo quản kỹ càng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, mà còn làm mất cơ hội gia tăng giá trị tại chỗ cho nguyên liệu địa phương.
Một điểm đáng chú ý là sau sáp nhập, việc quản lý nhà nước đối với ngành nghề TCMN và chuỗi cung ứng nguyên liệu có xu hướng phân tán hơn. Trước kia, nhiều xã có làng nghề truyền thống được công nhận, có tổ chức hội nghề nghiệp, có Ban quản lý làng nghề... đóng vai trò kết nối giữa người dân, cơ sở sản xuất với các cơ quan quản lý. Sau sáp nhập, việc xác định vai trò chủ thể đại diện cho làng nghề, vùng nghề trở nên khó khăn. Một số làng nghề bị giải thể về mặt hành chính, dẫn đến việc thiếu tư cách pháp nhân để tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ về vùng nguyên liệu. Trong khi đó, nhiều địa phương mới chưa nắm bắt rõ lịch sử hình thành và đặc điểm vùng nguyên liệu truyền thống, gây đứt gãy trong chuỗi chính sách.
Quy hoạch, bảo tồn và phát triển nguồn nguyên liệu đóng vai trò cốt lõi
Từ thực trạng trên, có thể thấy rằng việc phát triển ngành thủ công mỹ nghệ tỉnh Phú Thọ sau sáp nhập đòi hỏi một chiến lược tổng thể, trong đó việc quy hoạch, bảo tồn và phát triển nguồn nguyên liệu đóng vai trò cốt lõi. Cần thiết xây dựng lại hệ thống vùng nguyên liệu gắn với địa chỉ hành chính cụ thể, xác lập chuỗi liên kết giữa người trồng nguyên liệu – cơ sở chế biến – đơn vị sản xuất – thị trường tiêu thụ. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá tiềm năng nguyên liệu hiện có, lựa chọn một số nguyên liệu bản địa đặc trưng để bảo tồn và phát triển theo hướng hàng hóa, có chất lượng cao và phù hợp với xu hướng sản xuất thủ công mỹ nghệ hiện đại (thân thiện môi trường, dễ tái chế, dễ bảo quản). Ngoài ra, việc khuyến khích đầu tư vào khâu chế biến nguyên liệu sơ cấp cũng cần được coi trọng, nhằm nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng ngay tại địa phương.
Tóm lại, trong bối cảnh sau sáp nhập năm 2025, ngành TCMN tỉnh Phú Thọ đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải tái cấu trúc chuỗi cung ứng nguyên vật liệu. Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững ngành nghề truyền thống, vừa giữ gìn bản sắc văn hóa, vừa tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế địa phương trong giai đoạn mới.
Lãnh đạo Trung tâm Khuyến công và Tư vấn Phát triển Công nghiệp Phú Thọ cũng đã đề xuất Trung tâm Khuyến công và Tư vấn PTCN Hà Nội và các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất hàng TCNM tỉnh Phú Thọ được giao thương trong quá trình kết nối, hợp tác với các đơn vị thuộc các tỉnh, nhằm cung cấp nguyên liệu và hợp tác tiêu thụ bán thành phẩm, sản phẩm TCMN./.
Tin liên quan

OCOP tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn Phú Thọ
10:25 | 30/09/2025 OCOP

Khuyến công Phú Thọ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thương hiệu
09:14 | 22/09/2025 Khuyến công

Ngắm nhìn Rạp xiếc và Biểu diễn Đa năng Phú Thọ ngày khánh thành
09:11 | 21/08/2025 Văn hóa - Xã hội
Tin mới hơn

Cần một chiến lược tổng thể để ngành thủ công mỹ nghệ tỉnh Phú Thọ phát triển sau sáp nhập
08:43 | 17/10/2025 Nghiên cứu trao đổi
Tin khác

Phong tặng các Danh hiệu Làng nghề Việt Nam: Tôn vinh tinh hoa nghề truyền thống, khuyến khích lao động sáng tạo
10:40 | 10/10/2025 Nghiên cứu trao đổi

Phát huy tiềm năng, thế mạnh ngành thủ công mỹ nghệ trong phát triển du lịch Hà Nội
08:59 | 26/09/2025 Nghiên cứu trao đổi

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị thẩm mỹ, sáng tạo
10:16 | 21/09/2025 Nghiên cứu trao đổi

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ
09:43 | 12/09/2025 Nghiên cứu trao đổi

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống
15:36 | 27/08/2025 Nghiên cứu trao đổi

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội
11:15 | 26/08/2025 Nghiên cứu trao đổi

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ
09:24 | 15/08/2025 Nghiên cứu trao đổi

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ
09:53 | 04/08/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch
10:21 | 31/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương
10:21 | 31/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội
09:39 | 25/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh
08:47 | 18/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch
11:56 | 11/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam
09:49 | 25/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa
10:50 | 23/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Hội nghị Khuyến công các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc lần thứ XIX – năm 2025.
13:22 Tin tức

Làng chiếu cói trăm năm và những trải nghiệm văn hóa ven sông Thu Bồn
09:39 Làng nghề, nghệ nhân

UNESCO giới thiệu văn hóa trà Việt Nam tại Lễ hội Văn hóa Thế giới Hà Nội
09:39 Tin tức

Người phụ nữ giữ lửa nghề đan lát Tân Thọ
09:37 Làng nghề, nghệ nhân

Bức tranh sơn mài "Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập" được trao Kỷ lục Guinness
09:37 Tin tức