Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.

Gánh nặng nguyên liệu đầu vào với các làng nghề thủ công Hà Nội

Là một địa phương có các làng nghề gốm sứ nổi tiếng như Kim Lan, Bát Tràng. Ngành gốm sứ không chỉ mang lại giá trị văn hóa lịch sử mà còn đóng góp vào kinh tế, việc làm, du lịch cho các làng nghề Hà Nội.

Thị trường xuất khẩu mở rộng, điều này đồng nghĩa với nhu cầu nguồn nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao, giá hợp lý ngày càng cao. Ông Đào Việt Bình, Chủ tịch Hiệp hội gốm sứ Kim Lan, cho hay, nhu cầu hàng năm tại Hà Nội ước tính đất sét, cao lanh khoảng 80.000 - 100.000 tấn; tràng thạch, thạch anh khoảng 10.000 tấn; men, phụ gia khoảng 2.000 - 3.000 tấn. Tuy nhiên, phần lớn nguyên liệu phải mua từ các tỉnh ngoài Hà Nội như là Phú Thọ, Quảng Ninh, Lào Cai và một phần nhập khẩu.

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ
Nghệ nhân gốm Kim Lan hoàn thiện tác phẩm

Mặt khác, chuỗi cung ứng nguyên liệu hiện còn nhiều bất cập. Theo đó, nguồn cung phụ thuộc vào thương lái trung gian; khó tiếp cận các mỏ đất chất lượng vì các mỏ đó sau khi khai thác đã được bán cho các doanh nghiệp nước ngoài với giá thành cao so với doanh nghiệp trong nước; giá nguyên liệu biến động mạnh; chưa có hệ thống logistics chuyên biệt và chất lượng nguyên liệu không đồng đều. Đặc biệt, một số nguyên liệu đặc biệt như men màu zircon, oxit kim loại tinh chế vẫn phải nhập khẩu với giá cao, làm tăng đáng kể chi phí sản xuất.

Với kỹ thuật cắt, mài, gắn tỉ mỉ từng mảnh vỏ trai, vỏ ốc lên bề mặt gỗ, khảm trai đã trở thành một nét đặc sắc trong kho tàng thủ công mỹ nghệ của Hà Nội. Thế nhưng, giữa guồng quay phát triển của kinh tế thị trường, nghề truyền thống này đang đối mặt với không ít khó khăn, đặc biệt là về nguồn nguyên liệu.

Ông Nguyễn Vinh Quang, Chủ tịch Hiệp hội Khảm trai Phú Xuyên (Hà Nội) cho hay, nguyên liệu chính của nghề khảm trai là vỏ trai, vỏ ốc và vỏ điệp, đây đều là những loại nguyên liệu tự nhiên ngày càng khan hiếm. Trước đây, các loại vỏ này có thể thu mua dễ dàng với giá hợp lý. Tuy nhiên, việc khai thác quá mức trong nhiều năm, cộng với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và các quy định nghiêm ngặt về bảo tồn sinh học đã khiến nguồn cung trở nên thiếu ổn định.

Tình trạng khan hiếm không chỉ đẩy giá nguyên liệu tăng cao, trong đó, có loại vỏ trai quý hiếm hiện nay có thể lên tới hàng trăm nghìn đồng mỗi kg, mà còn gây áp lực lớn đến chi phí sản xuất. Trong khi đó, chất lượng nguyên liệu lại không đồng đều, khiến nghệ nhân phải tốn nhiều thời gian lựa chọn, xử lý, thậm chí có khi phải loại bỏ hoàn toàn nếu không đạt yêu cầu kỹ thuật. Sự lãng phí này càng làm gia tăng chi phí đầu vào.

Theo số liệu khảo sát mới nhất của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội, trung bình một năm các làng nghề mây tre đan của Hà Nội tiêu thụ khoảng 6.800 tấn nguyên liệu các loại. Trong đó, trung bình một doanh nghiệp tiêu thụ khoảng 50 tấn nguyên liệu một tháng; các làng nghề gốm sứ tiêu thụ khoảng 620.000 tấn nguyên liệu, chủ yếu là đất sét và cao lanh; các làng nghề sơn mài khoảng 4.000 tấn, làng nghề gỗ khoảng 1 triệu m3 gỗ. Tuy nhiên, nguồn cung nguyên liệu chưa ổn định là một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Hà Nội vẫn còn thiếu sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Áp lực từ chính vùng nguyên liệu

Không chỉ các làng nghề chịu tác động, ngay cả những địa phương có thế mạnh về nguyên liệu cũng đang đối mặt với tình trạng suy giảm tài nguyên và thiếu liên kết chuỗi.

Tại Phú Thọ, ông Hoàng Xuân Tiến, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp, cho biết, địa phương hiện sở hữu ba nhóm nguyên liệu chính: nguyên liệu tại chỗ (tre, nứa, lá nón, gỗ rừng trồng, cây làm hương), nguyên liệu nhập từ tỉnh ngoài và nguyên liệu công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, việc thiếu quy hoạch và bảo tồn khiến nhiều vùng nguyên liệu ngày càng thu hẹp. Tre, nứa bị khai thác không bền vững; một số giống quý gần như biến mất. Gỗ rừng trồng tuy nhiều nhưng chất lượng thấp, không đáp ứng yêu cầu sản xuất tinh xảo; cây làm hương như bời lời, dẻn cũng dần mai một.

Nguồn nguyên liệu tre, luồng
Nguồn nguyên liệu tre, luồng

Trong khi đó, nguyên liệu cao cấp như sơn mài, gỗ quý, sợi dệt, kim loại vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn nhập ngoài, đẩy chi phí đầu vào tăng cao. Một số hộ sản xuất sử dụng nguyên liệu trôi nổi để tiết giảm chi phí, làm giảm chất lượng và uy tín sản phẩm.

Điểm yếu lớn nhất là thiếu liên kết bền vững giữa vùng nguyên liệu và các cơ sở sản xuất. Hầu hết nguyên liệu được thu mua qua thương lái nhỏ lẻ, không có hợp đồng ổn định, dẫn đến chất lượng khó kiểm soát và giá cả bấp bênh. Một số hợp tác xã đã tổ chức vùng nguyên liệu riêng nhưng quy mô còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất lớn. Ngoài ra, khâu sơ chế nguyên liệu tại chỗ còn hạn chế: tre nứa chưa xử lý chống mối mọt, gỗ chưa được sấy tẩm đúng kỹ thuật, lá nón chưa đạt tiêu chuẩn – ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và khả năng xuất khẩu.

Trong khi đó, Nghệ An lại đang nổi lên là vùng nguyên liệu lâm sản tiềm năng, đặc biệt là với luồng và nứa – hai loại nguyên liệu lý tưởng cho ngành đan lát thủ công. Theo ông Hoàng Minh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ và Tư vấn Phát triển Công Thương Nghệ An, luồng Nghệ An nổi bật với đặc điểm lóng dài, thẳng, rất phù hợp cho các sản phẩm mây tre đan xuất khẩu.

Ngoài lợi thế nguyên liệu tại chỗ, Nghệ An còn có khả năng kết nối với vùng biên giới Lào để hình thành các trạm thu mua, trung chuyển nguyên liệu về cho các làng nghề trong nước. Với 82 km bờ biển và lực lượng lao động dồi dào, tỉnh cũng có tiềm năng phát triển vùng nguyên liệu vỏ trai, vỏ ốc cho ngành khảm trai.

Tuy vậy, ông Tuấn cũng cho biết việc thiếu đầu mối cung ứng gỗ ổn định như gỗ sưa, gỗ nhãn đang là điểm nghẽn, khiến nhiều doanh nghiệp không dám nhận đơn hàng lớn. Quy hoạch vùng nguyên liệu hiện còn phân tán, thiếu phân tầng, gây khó khăn cho việc quản lý và phát triển lâu dài.

“Chúng tôi sẵn sàng đồng hành cùng các bộ, ngành và doanh nghiệp để hình thành chuỗi cung ứng nguyên liệu bài bản, từ khai thác, sơ chế đến phân phối”, ông Tuấn khẳng định.

Cần thiết lập chuỗi cung ứng chuyên nghiệp

Để giải quyết bài toán nguyên liệu cho ngành thủ công mỹ nghệ một cách bền vững, cần thiết phải thúc đẩy liên kết hợp tác toàn diện giữa các bên trong chuỗi giá trị, từ tạo vùng nguyên liệu, sơ chế, chế biến đến phân phối. Ông Lê Bá Ngọc, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam cho rằng, bên cạnh đẩy mạnh liên kết về xây dựng vùng nguyên liệu, liên kết trong khâu chế biến nguyên liệu thì cần đẩy mạnh mô hình hợp tác công – tư – cộng đồng.

“Khác với mô hình PPP (đối tác công – tư), trong bối cảnh hiện nay, các chuỗi cung ứng quốc tế ngày càng yêu cầu minh bạch, có khả năng truy xuất nguồn gốc đến từng hộ sản xuất. Do đó, cần thiết mở rộng hợp tác theo hướng “công – tư – cộng đồng”, trong đó có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người dân/hộ sản xuất”, ông Ngọc chia sẻ và cho rằng, Sở Công Thương các địa phương cần nghiên cứu đề xuất cơ chế ưu tiên, hỗ trợ các doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia vào các mô hình liên kết này.

Ông Hoàng Xuân Tiến cho rằng, ngành thủ công mỹ nghệ Phú Thọ cần một chiến lược tái cấu trúc chuỗi cung ứng nguyên liệu một cách tổng thể. Trước mắt, cần thiết lập lại hệ thống vùng nguyên liệu với địa chỉ hành chính rõ ràng, từ đó xây dựng chuỗi liên kết giữa người trồng, cơ sở sơ chế, nhà sản xuất và thị trường tiêu thụ.

Đồng thời, cần khảo sát, đánh giá tiềm năng nguyên liệu bản địa, lựa chọn cây trồng đặc trưng để bảo tồn, nhân giống và phát triển theo hướng hàng hóa chất lượng cao. Các công đoạn sơ chế như xử lý, sấy khô, phân loại nguyên liệu cũng cần được đầu tư để tăng giá trị gia tăng và giảm phụ thuộc nguồn ngoài.

“Các địa phương, đặc biệt là Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, hỗ trợ kết nối giao thương, tạo điều kiện cho Phú Thọ hợp tác cung ứng nguyên liệu, tiêu thụ bán thành phẩm và sản phẩm thủ công mỹ nghệ”, ông Tiến đề xuất.

Nguyên liệu đầu vào chính là yếu tố quyết định chất lượng, giá thành và năng lực cạnh tranh của sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Giải quyết bài toán nguyên liệu chính là bước khởi đầu để các làng nghề tiếp tục phát triển bền vững, gìn giữ giá trị truyền thống và vươn ra thị trường quốc tế.

Nguyễn Hạnh/congthuong.vn

Tin liên quan

Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Viết Thạnh gìn giữ và phát triển nghề thủ công mỹ nghệ

Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Viết Thạnh gìn giữ và phát triển nghề thủ công mỹ nghệ

LNV - Chúng tôi đến thăm làng nghề thủ công mỹ nghệ Sơn Đồng, Hà Nội ngay sau khi cả nước vận hành hoạt động bộ máy chính quyền địa phương hai cấp. Không khí tưng bừng cờ hoa khẩu hiệu, thi đua chào mừng Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025- 2030 trên các trục đường giao thông, nơi trụ sở làm việc của xã mới càng làm cho khung cảnh làng nghề nơi đây thêm tươi đẹp, sinh động.
Giữ lửa làng nghề đúc đồng Lộng Thượng

Giữ lửa làng nghề đúc đồng Lộng Thượng

LNV - Làng Lộng Thượng, xã Đại Đồng (làng Rồng) nổi tiếng là cái nôi của nghề đúc đồng ở tỉnh Hưng Yên. Trải qua hàng trăm năm hình thành và phát triển, làng nghề vẫn bền bỉ tồn tại, chắt chiu tinh hoa từ bàn tay người thợ thổi hồn vào từng sản phẩm thủ công mỹ nghệ, góp phần khẳng định thương hiệu đồ đồng Lộng Thượng trên bản đồ làng nghề Việt.
Bắc Ninh:  Phát triển các sản phẩm công nghiệp  nông thôn tiêu biểu

Bắc Ninh: Phát triển các sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu

LNV - Các hoạt động khuyến công được các đơn vị tại Bắc Ninh tổ chức nhiều năm qua. Thông qua việc bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, nhằm tôn vinh các sản phẩm chất lượng, giá trị sử dụng cao, có tiềm năng phát triển.

Tin mới hơn

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.

Tin khác

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.
Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Thương hiệu của quê hương

Thương hiệu của quê hương

LNV - Khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, thời gian đầu, không riêng chuyện giữ lại tên làng, xã, huyện… những người gắn bó ở làng nghề truyền thống cũng không khỏi suy tư về tên gọi đã làm nên thương hiệu của quê hương.
Hà Nội trao 118.035 suất quà tặng người có công dịp Quốc khánh

Hà Nội trao 118.035 suất quà tặng người có công dịp Quốc khánh

LNV - UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành Kế hoạch số 212/KH-UBND về việc tặng quà tới các đối tượng hưởng chính sách người có công nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025).
Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Tiến Thắng lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030: Vững bước trên hành trình phát triển toàn diện

Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Tiến Thắng lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030: Vững bước trên hành trình phát triển toàn diện

LNV - Với nền móng xây dựng Đảng vững mạnh, hệ thống chính trị hiệu quả, kinh tế - xã hội phát triển đồng bộ của nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Tiến Thắng (Hà Nội) bước vào nhiệm kỳ mới với khát vọng phát triển bền vững, toàn diện
Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Phúc Lộc lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030: Hướng tới trung tâm nông nghiệp sinh thái kiểu mẫu của Thủ đô

Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Phúc Lộc lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030: Hướng tới trung tâm nông nghiệp sinh thái kiểu mẫu của Thủ đô

LNV - Hôm nay (4-8), xã Phúc Lộc (Hà Nội) tổ chức phiên trù bị Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Là xã đặc thù nằm ven sông Hồng, đất đai phù sa màu mỡ, rất phù hợp phát triển nông nghiệp, người dân đã phát triển nhiều mô hình kin
Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Phú Xuyên lần thứ Nhất (nhiệm kỳ 2025 - 2030)

Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Phú Xuyên lần thứ Nhất (nhiệm kỳ 2025 - 2030)

LNV - Trong 02 ngày 01-02/8/2025, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Phú Xuyên lần thứ Nhất (nhiệm kỳ 2025-2030) long trọng được tổ chức với chủ đề: “Chủ động, đổi mới sáng tạo; chung sức xây dựng xã Phú Xuyên phát triển nhanh, bền vững, văn hiến, văn minh, hiện
Giao diện di động