Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam
Trong hoạt động kinh tế của người Khơ Mú thủ công nghiệp đóng vai trò hỗ trợ cho trồng trọt nương rẫy, chăn nuôi, san bắn và hái lượm. Chính vì thế từ xưa tới nay thủ công chủ yếu là hoạt động kinh tế phụ trong các gia đình, chưa thấy xuất hiện làng nghề, thợ thủ công hoạt động có tính chuyên nghiệp. Tuy nhiên, các hoat động thủ công cũng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của họ.
![]() |
Trong đó đáng chú ý nhất là nghề đan lát mây tre. Nghề đan lát của người Khơ Mú cung cấp công cụ, đồ dung cho các hoạt động kinh tế trong sinh hoạt hàng ngày, để bán đổi lấy lương thực, vải, quần áo, đồ rèn, trang sức. Đồ đan của người Khơ Mú rất bền và đẹp nổi tiếng, là nguồn lợi lớn của họ, được các đân tộc quanh vùng ưa dùng.
Nghề đan
Đan lát là nghề thủ công truyền thống lâu đời của người Khơ Mú. Trong tình trạng một nền kinh tế tự túc, tự cấp, trong gia đình thì việc đan lát tự tạo ra mọi đồ dùng là vô cùng quan trọng. Đối với người Khơ Mú, tất cả các phương thức vận chuyển, đồ dùng gia đình (đựng lương thực, thực phẩm, quần áo) quà tặng cho khách, đồ sính lễ trong đám cưới. Đều là sản phẩm đan lát và vì thế đan lát là một nhu cầu cần thiết trong đời sống cũng như hoạt động kinh tế, văn hóa của người Khơ Mú.
Nguyên liệu dùng để đan:
Người Khơ Mú cư trú trên các sườn núi có rừng bao phủ dọc biên giới Việt - Lào thuộc các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Nghệ An và một số ở Văn Chấn, Nghĩa Lộ, địa hình mà đồng bào Khơ Mú cư trú rất giàu nguyên liệu cho nghề đan lát. Người Khơ Mú rất giỏi phân biệt lựa chọn các loại mây, tre cho nghề đan dùng để đan các loại sản phẩm khác nhau.
Tre: là loại tre nhỏ có tiết diện ngang thân với đường kính khoảng 3- 4cm loại tre này thân đặc, gióng dài, mềm và dai không hay gãy thường được dùng để đan lát các đồ dùng đòi hỏi có kỹ thuật cao tinh sảo …(Ép Mah, Tuốc Đen).
![]() |
Tuốc là loại tre to được dùng nhiều trong đan lát, loại tre này có độ dẻo, cứng vừa phải dùng để đan phần lớn các đồ dùng trong nhà (Phun, Gùi, EEng, Ép). Loại tre này dễ khai thác, dễ chế biến thành nan (Khar) với trữ lượng lớn.
R’hang là loại tre này to hơn cả, độ dầy thân tre mỏng lên hay được dùng để đan các tấm phơi, tấm tre mưa nắng hoặc đập dập làm sàn nhà.
Choi là loại tre thường có thân to bằng cổ tay người lớn, có thân rắn chắc, có độ dẻo kém nên được dùng để đan các đồ đựng lớn (Thôi, Khóe)
Mây (Ploang) là một trong những loại nguyên liệu quý dùng để đan những đồ dùng như mặt mâm (Phươn) là chính… So với các loại tre đồ mây ngày nay hiếm dần.
Ngoài loại mây tre trên đây họ còn dùng một số loại như (May Qua, Tà Nà, May Hay).
Với kinh nghiệm cổ truyền của người Khơ Mú thường khai thác nguyên liệu vào tháng 9 cho đến hết năm âm lịch, như vậy nguyên liệu ít bị mọt, tre mang về được pha thành nan từ lúc còn tươi dẻo để đỡ bị gãy.
Công cụ chế biến nan chủ yếu dùng là dao (Veo) đây là loại dao có bản, sắc và nặng, có chiều dài thân dao khoảng 60cm. Người Khơ Mú gọi là dao nan (Veo Khar). Đây là sản phẩm do người Hơ Mông rèn ra. Nghề đan lát là nghề truyền thống dành cho người đàn ông Khơ Mú. Nan dùng để đan tấm trải sàn nhà (Tưng Ai Sắt). Nan loại này lấy từ cật tre với kỹ thuật đan nối trồng nan lên nhau, dấu đầu mối rất khéo, nan còn dùng để đan các đồ đựng đồ đạc như quần áo, lương thực, khi đan họ tạo ra những màu sắc tùy ý bằng nan nhuộm màu, hun khói, các nan còn dùng để đan có màu vàng, nâu trông rất đẹp lại chống mọt, những bộ phận nhỏ của sản phẩm như quai, tay xách, cạp thì được dùng mây dẻo để đan.
![]() |
Trong gia đình người Khơ Mú, mọi người đều biết đến các sản phẩm đan lát. |
Kỹ thuật đan:
So với các dân khác trong vùng người Khơ Mú có kỹ thuật đan vượt xa và khá đặc sắc theo kiểu lóng mốt, lóng đôi có nhiều cách đan mà chỉ có riêng của người Khơ Mú như kiểu đan (Ta Leo Hô) dùng để đan mặt mâm, hay đan đáy mặt nắp của các loại (Ép, Bung, Gùi), tạo hoa văn hình xương cá chạy quanh thân của các đồ đan này .
Kiểu đan lóng ba hay được dùng để đan phần tiếp giáp giữa thân và đáy của các loại (Ép), như (Ép Mah) nhằm tạo ra hoa văn hình xương cá nằm ngang, lớn hơn hoa văn trên thân Ép.
Kiểu đan (Lay Ăm) giống như kiểu đan nong, nia của người việt tạo ra những sản phẩm để phơi thóc, lúa , ngô, và các sản phẩm dùng trong sinh hoạt gia đình hàng ngày.
Các loại sản phẩm đan:
Sản phẩm đan dùng trong việc vận chuyển như Gùi (Eng), là loại công cụ chính trong vận chuyển của người Khơ Mú đây là loại Gùi có đáy vuông, phần dáy được đan kiểu lóng mốt, phần thân Gùi đan kiểu lóng đôi hình quả tram, chạy quanh thân Gùi. Gùi là loại sản phẩm đan lát đặc biệt của người Khơ Mú về kỹ thuật chế tác, kiểu đan. Cùng với chiếc mâm bằng mây cũng là sản phẩm đặc trưng. Trong gia đình mỗi thành viên có một cái Gùi là vật dụng không được đem bán hoặc đổi.
![]() |
Những người con trai Khơ Mú ở bản sinh ra đã có năng khiếu đan lát. |
(MBung) là đồ dùng để đựng ngô, lúa, rau, quả khi đi làm nương, loại nhỏ thường cho phụ nữ dùng, đeo bên hông khi đi chợ, loại Ép này có hình dáng đẹ, loại Ép nhỏ thường được dùng làm quà tặng của người đàn ông Khơ Mú cho bạn gái, loại này được đan rất đẹp theo kiểu cổ truyền.
Loại (Ep Mah) là loại dùng để đựng cơm xôi khi đi nương gọi là (Côn Khẩu)
(Tur Đen) là chiếc hộp nhỏ xinh được đan bằng tre dùng để đựng kim chỉ của các bà các cô, người Khơ Mú coi (Tur Đen) là vật quý dùng làm quà tặng cho người bạn đời, là quà tặng không được bán và người được tặng phải giữ suốt đời.
Một sản phẩm đan khá phổ biến của người Khơ Mú là Phên Phơi (Miên) dùng để phơi lúa , ngô, Phên Phơi này được đan kỳ công, các tấm trải, Phên này được đan bằng loại nan cật tre mềm và dẻo đan theo kiểu lóng đôi.
Trong nhà người Khơ Mú thường có các loại bồ (Khơ Rẹ) để đựng thóc ngô..., giỏ đựng đồ vật như kim chỉ, lược, thuốc men thường được đan rất tinh xảo.
Trong gia đình người Khơ Mú có một loại quạt được làm bằng tre, nứa để quạt thóc, quạt bếp do người con dâu làm để tặng mẹ chồng, loạt quạt này được đan theo kiểu lóng một, mỏng, nhẹ, hoặc đan các loại rá để đựng thức ăn Cái quạt, chiếc rá là sản phẩm duy nhất do người phụ nữ Khơ Mú làm ra
Mâm mây (Phươn Đơn Plong) đây là sản phẩm đặc trưng nhất của người Khơ Múđược các dân tộc khác trong vùng ưa dùng như người Thái, người Kháng, người Dao, Xinh Mun thường mua mâm mây của người Khơ Mú để dùng. Mâm được đan bằng tre và mây gồm 2 bộ phận chính là mặt mâm và thân mâm. Mặt mâm hình tròn có đường kính 60- 70 cm đan bằng tre theo kiểu (Ta Le Ho) khoảng 10cm. vành ngoài cùng của mâm được đan bằng các sợi mây theo hình sóng (hình sin). Thân mâm là một vòng tròn hình trụ cao khoảng 15- 20cm. Thân mâm được đan bằng tre, đan hình mắt cáo, thưa, thoáng và tạo hoa văn mềm mại. Vành đáy thân mây thường làm bằng tre vót nhẵn, hoặc cây song uốn tròn lại.
Mâm là sản phẩm thể hiện rõ nhất về kỹ thuật cao trong đan lát truyền thống của người Khơ Mú. Mặt mâm được đan theo một cách duy nhất và khó nhất, người Khơ Mú gọi là (TE LA HO) thường chỉ các cụ già giàu kinh nghiệm mới đan được. Mâm mây là sản phẩm có giá đắt nhất của người Khơ Mú.
![]() |
Nghề đan lát truyền thống của đồng bào Khơ Mú có từ rất lâu đời, được truyền theo phương thức “cha truyền con nối” là chủ yếu.“cha truyền con nối” là chủ yếu |
Đồ để ngồi trong gia đình Khơ Mú là chiếc ghế mây (Xinh Đơn Phong). Ghế mây này có kiểu dáng gần giống với mâm mây, nhưng mặt ghế lại nhỏ hơn chân ghế, ghế mây nhìn như hình chóp cụt cao khoảng 10 – 15cm mà mặt ghế là mặt cắt nhỏ phía trên của chóp cụt. Mặt ghế được đan bằng mây, được căng trên một chiếc cạp hình tròn bằng tre cứng hoặc song uốn lại. Mặt ghế được căng trên một chiếc cạp hình tròn.
Trong nghề thủ công truyền thống có sự tổ chức và phân công lao động đặc biệt. Nếu may vá và bếp núc, nuôi con là việc của ngừơi phụ nữ thì đan lát là việc của người đàn ông. Người đan ông Khơ Mú càng cao tuổi càng có nhiều kinh nghiệm trong việc đan lát. Người Khơ Mú coi việc đan lát để đánh giá năng lực tài giỏi khéo léo của người đàn ông tuy nghề đan lát chỉ là nghề phụ trong hoạt động kinh tế của họ. Việc truyền nghề hoàn toàn tự nhiên từ khi người con trai Khơ Mú ở độ tuổi 10 – 15.
Ngoài đan lát người Khơ Mú còn nhiều nghề thủ công khác như dệt và làm mộc. Tuy vậy các nghề này không phát triển nhiều mà chỉ là những hoạt động có tính chất phục vụ cho bản thân hoặc gia đình. Sống gần người Thái người phụ nữ Khơ Mú có học được ít nhiều về việc dệt vải, trồng bông, chế biến sợi bông. Khung dệt vải của họ khá đơn sơ, vải dệt song được nhuộm bằng lá chàm (Chala Chàm).
Tuy đơn giản nhưng nghề mộc cũng có một vai trò nhất định trong việc chế tác các đồ gỗ trong gia đình như là ghế gỗ, mâm gỗ, cối gỗ để giã các loại hạt.
Có nơi người ta có thể làm được ngôi nhà sàn nhỏ bằng gỗ, khi làm nhà to thì họ phải thuê người Thái làm hoặc thuê thợ ở dưới xuôi lên
Nhìn môt cách tổng quát nghề đan lát và một số nghề thủ công đơn giản được tồn tại một cách bền bỉ trong đời sống của người Khơ Mú nó thể hiện những nét đẹp về bản sắc văn hóa của người Khơ Mú, tính nhân văn sâu sắc như các sản phẩm của người đàn ông Khơ Mú tặng bạn gái, hay cái quạt, cái rá mà các cô dâu thường làm để tặng mẹ chồng.
Ngày nay tại các bản làng Khơ Mú, những tập quán đẹp đó vẫn tồn tại cùng sự trường tồn của bản sắc văn hóa Khơ Mú.
Tin liên quan

Những làng dệt thổ cẩm ở Tây Bắc
09:38 | 09/05/2025 Làng nghề, nghệ nhân

10 làng nghề lâu đời nổi tiếng ở Bắc Giang
14:36 | 24/04/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Chè Shan Tuyết Tà Xùa: Hương vị cao nguyên tinh túy
11:02 | 05/03/2025 OCOP
Tin mới hơn

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam
09:49 | 25/06/2025 Nghiên cứu trao đổi
Tin khác

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa
10:50 | 23/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề
09:39 | 09/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề
09:18 | 30/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”
14:25 | 23/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam
09:15 | 13/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng
09:40 | 09/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại
09:08 | 15/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Những yếu tố sống còn của làng nghề
14:31 | 10/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Sức sống ở làng nghề Yên Bái
09:31 | 04/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống
11:34 | 02/04/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng
10:03 | 21/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống
09:45 | 13/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam
15:44 | 06/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị
11:40 | 01/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề
21:08 | 20/02/2025 Nghiên cứu trao đổi

Xúc tiến thương mại OCOP Góp phần cùng chủ thể phát triển, nông thôn mới bền vững
15:29 OCOP

Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới tại Bắc Kạn: Tăng cường tiếp cận khách du lịch
15:29 Nông thôn mới

Một thập kỷ nông thôn mới Bắc Kạn Từ gian khó đến diện mạo khởi sắc
15:28 Nông thôn mới

Bắc Kạn xây dựng nông thôn mới ở vùng đất khó
15:28 Nông thôn mới

Bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững: Tìm hướng đi mới của các làng nghề
15:11 Môi trường