Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Sống ở vùng rẻo giữa và rẻo cao thuộc vùng núi, người Khơ Mú chuyên sống bằng trồng trọt. Trong đó có trồng trọt trên nương là chính. Do kết quả của công tác định canh, định cư những năm qua ở nhiều nơi, ngày nay họ còn khai thác đất dốc làm ruộng bậc thang để trồng lúa nước, tuy diện tích sản lượng không đáng kể.

Trong hoạt động kinh tế của người Khơ Mú thủ công nghiệp đóng vai trò hỗ trợ cho trồng trọt nương rẫy, chăn nuôi, san bắn và hái lượm. Chính vì thế từ xưa tới nay thủ công chủ yếu là hoạt động kinh tế phụ trong các gia đình, chưa thấy xuất hiện làng nghề, thợ thủ công hoạt động có tính chuyên nghiệp. Tuy nhiên, các hoat động thủ công cũng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của họ.

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Trong đó đáng chú ý nhất là nghề đan lát mây tre. Nghề đan lát của người Khơ Mú cung cấp công cụ, đồ dung cho các hoạt động kinh tế trong sinh hoạt hàng ngày, để bán đổi lấy lương thực, vải, quần áo, đồ rèn, trang sức. Đồ đan của người Khơ Mú rất bền và đẹp nổi tiếng, là nguồn lợi lớn của họ, được các đân tộc quanh vùng ưa dùng.

Nghề đan

Đan lát là nghề thủ công truyền thống lâu đời của người Khơ Mú. Trong tình trạng một nền kinh tế tự túc, tự cấp, trong gia đình thì việc đan lát tự tạo ra mọi đồ dùng là vô cùng quan trọng. Đối với người Khơ Mú, tất cả các phương thức vận chuyển, đồ dùng gia đình (đựng lương thực, thực phẩm, quần áo) quà tặng cho khách, đồ sính lễ trong đám cưới. Đều là sản phẩm đan lát và vì thế đan lát là một nhu cầu cần thiết trong đời sống cũng như hoạt động kinh tế, văn hóa của người Khơ Mú.

Nguyên liệu dùng để đan:

Người Khơ Mú cư trú trên các sườn núi có rừng bao phủ dọc biên giới Việt - Lào thuộc các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Nghệ An và một số ở Văn Chấn, Nghĩa Lộ, địa hình mà đồng bào Khơ Mú cư trú rất giàu nguyên liệu cho nghề đan lát. Người Khơ Mú rất giỏi phân biệt lựa chọn các loại mây, tre cho nghề đan dùng để đan các loại sản phẩm khác nhau.

Tre: là loại tre nhỏ có tiết diện ngang thân với đường kính khoảng 3- 4cm loại tre này thân đặc, gióng dài, mềm và dai không hay gãy thường được dùng để đan lát các đồ dùng đòi hỏi có kỹ thuật cao tinh sảo …(Ép Mah, Tuốc Đen).

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Tuốc là loại tre to được dùng nhiều trong đan lát, loại tre này có độ dẻo, cứng vừa phải dùng để đan phần lớn các đồ dùng trong nhà (Phun, Gùi, EEng, Ép). Loại tre này dễ khai thác, dễ chế biến thành nan (Khar) với trữ lượng lớn.

R’hang là loại tre này to hơn cả, độ dầy thân tre mỏng lên hay được dùng để đan các tấm phơi, tấm tre mưa nắng hoặc đập dập làm sàn nhà.

Choi là loại tre thường có thân to bằng cổ tay người lớn, có thân rắn chắc, có độ dẻo kém nên được dùng để đan các đồ đựng lớn (Thôi, Khóe)

Mây (Ploang) là một trong những loại nguyên liệu quý dùng để đan những đồ dùng như mặt mâm (Phươn) là chính… So với các loại tre đồ mây ngày nay hiếm dần.

Ngoài loại mây tre trên đây họ còn dùng một số loại như (May Qua, Tà Nà, May Hay).

Với kinh nghiệm cổ truyền của người Khơ Mú thường khai thác nguyên liệu vào tháng 9 cho đến hết năm âm lịch, như vậy nguyên liệu ít bị mọt, tre mang về được pha thành nan từ lúc còn tươi dẻo để đỡ bị gãy.

Công cụ chế biến nan chủ yếu dùng là dao (Veo) đây là loại dao có bản, sắc và nặng, có chiều dài thân dao khoảng 60cm. Người Khơ Mú gọi là dao nan (Veo Khar). Đây là sản phẩm do người Hơ Mông rèn ra. Nghề đan lát là nghề truyền thống dành cho người đàn ông Khơ Mú. Nan dùng để đan tấm trải sàn nhà (Tưng Ai Sắt). Nan loại này lấy từ cật tre với kỹ thuật đan nối trồng nan lên nhau, dấu đầu mối rất khéo, nan còn dùng để đan các đồ đựng đồ đạc như quần áo, lương thực, khi đan họ tạo ra những màu sắc tùy ý bằng nan nhuộm màu, hun khói, các nan còn dùng để đan có màu vàng, nâu trông rất đẹp lại chống mọt, những bộ phận nhỏ của sản phẩm như quai, tay xách, cạp thì được dùng mây dẻo để đan.

Trong gia đình người Khơ Mú, mọi người đều biết đến các sản phẩm đan lát.
Trong gia đình người Khơ Mú, mọi người đều biết đến các sản phẩm đan lát.

Kỹ thuật đan:

So với các dân khác trong vùng người Khơ Mú có kỹ thuật đan vượt xa và khá đặc sắc theo kiểu lóng mốt, lóng đôi có nhiều cách đan mà chỉ có riêng của người Khơ Mú như kiểu đan (Ta Leo Hô) dùng để đan mặt mâm, hay đan đáy mặt nắp của các loại (Ép, Bung, Gùi), tạo hoa văn hình xương cá chạy quanh thân của các đồ đan này .

Kiểu đan lóng ba hay được dùng để đan phần tiếp giáp giữa thân và đáy của các loại (Ép), như (Ép Mah) nhằm tạo ra hoa văn hình xương cá nằm ngang, lớn hơn hoa văn trên thân Ép.

Kiểu đan (Lay Ăm) giống như kiểu đan nong, nia của người việt tạo ra những sản phẩm để phơi thóc, lúa , ngô, và các sản phẩm dùng trong sinh hoạt gia đình hàng ngày.

Các loại sản phẩm đan:

Sản phẩm đan dùng trong việc vận chuyển như Gùi (Eng), là loại công cụ chính trong vận chuyển của người Khơ Mú đây là loại Gùi có đáy vuông, phần dáy được đan kiểu lóng mốt, phần thân Gùi đan kiểu lóng đôi hình quả tram, chạy quanh thân Gùi. Gùi là loại sản phẩm đan lát đặc biệt của người Khơ Mú về kỹ thuật chế tác, kiểu đan. Cùng với chiếc mâm bằng mây cũng là sản phẩm đặc trưng. Trong gia đình mỗi thành viên có một cái Gùi là vật dụng không được đem bán hoặc đổi.

Những người con trai Khơ Mú ở bản sinh ra đã có năng khiếu đan lát.
Những người con trai Khơ Mú ở bản sinh ra đã có năng khiếu đan lát.

(MBung) là đồ dùng để đựng ngô, lúa, rau, quả khi đi làm nương, loại nhỏ thường cho phụ nữ dùng, đeo bên hông khi đi chợ, loại Ép này có hình dáng đẹ, loại Ép nhỏ thường được dùng làm quà tặng của người đàn ông Khơ Mú cho bạn gái, loại này được đan rất đẹp theo kiểu cổ truyền.

Loại (Ep Mah) là loại dùng để đựng cơm xôi khi đi nương gọi là (Côn Khẩu)

(Tur Đen) là chiếc hộp nhỏ xinh được đan bằng tre dùng để đựng kim chỉ của các bà các cô, người Khơ Mú coi (Tur Đen) là vật quý dùng làm quà tặng cho người bạn đời, là quà tặng không được bán và người được tặng phải giữ suốt đời.

Một sản phẩm đan khá phổ biến của người Khơ Mú là Phên Phơi (Miên) dùng để phơi lúa , ngô, Phên Phơi này được đan kỳ công, các tấm trải, Phên này được đan bằng loại nan cật tre mềm và dẻo đan theo kiểu lóng đôi.

Trong nhà người Khơ Mú thường có các loại bồ (Khơ Rẹ) để đựng thóc ngô..., giỏ đựng đồ vật như kim chỉ, lược, thuốc men thường được đan rất tinh xảo.

Trong gia đình người Khơ Mú có một loại quạt được làm bằng tre, nứa để quạt thóc, quạt bếp do người con dâu làm để tặng mẹ chồng, loạt quạt này được đan theo kiểu lóng một, mỏng, nhẹ, hoặc đan các loại rá để đựng thức ăn Cái quạt, chiếc rá là sản phẩm duy nhất do người phụ nữ Khơ Mú làm ra

Mâm mây (Phươn Đơn Plong) đây là sản phẩm đặc trưng nhất của người Khơ Múđược các dân tộc khác trong vùng ưa dùng như người Thái, người Kháng, người Dao, Xinh Mun thường mua mâm mây của người Khơ Mú để dùng. Mâm được đan bằng tre và mây gồm 2 bộ phận chính là mặt mâm và thân mâm. Mặt mâm hình tròn có đường kính 60- 70 cm đan bằng tre theo kiểu (Ta Le Ho) khoảng 10cm. vành ngoài cùng của mâm được đan bằng các sợi mây theo hình sóng (hình sin). Thân mâm là một vòng tròn hình trụ cao khoảng 15- 20cm. Thân mâm được đan bằng tre, đan hình mắt cáo, thưa, thoáng và tạo hoa văn mềm mại. Vành đáy thân mây thường làm bằng tre vót nhẵn, hoặc cây song uốn tròn lại.

Mâm là sản phẩm thể hiện rõ nhất về kỹ thuật cao trong đan lát truyền thống của người Khơ Mú. Mặt mâm được đan theo một cách duy nhất và khó nhất, người Khơ Mú gọi là (TE LA HO) thường chỉ các cụ già giàu kinh nghiệm mới đan được. Mâm mây là sản phẩm có giá đắt nhất của người Khơ Mú.

Nghề đan lát truyền thống của đồng bào Khơ Mú có từ rất lâu đời, được truyền theo phương thức “cha truyền con nối” là chủ yếu.“cha truyền con nối” là chủ yếu
Nghề đan lát truyền thống của đồng bào Khơ Mú có từ rất lâu đời, được truyền theo phương thức “cha truyền con nối” là chủ yếu.“cha truyền con nối” là chủ yếu

Đồ để ngồi trong gia đình Khơ Mú là chiếc ghế mây (Xinh Đơn Phong). Ghế mây này có kiểu dáng gần giống với mâm mây, nhưng mặt ghế lại nhỏ hơn chân ghế, ghế mây nhìn như hình chóp cụt cao khoảng 10 – 15cm mà mặt ghế là mặt cắt nhỏ phía trên của chóp cụt. Mặt ghế được đan bằng mây, được căng trên một chiếc cạp hình tròn bằng tre cứng hoặc song uốn lại. Mặt ghế được căng trên một chiếc cạp hình tròn.

Trong nghề thủ công truyền thống có sự tổ chức và phân công lao động đặc biệt. Nếu may vá và bếp núc, nuôi con là việc của ngừơi phụ nữ thì đan lát là việc của người đàn ông. Người đan ông Khơ Mú càng cao tuổi càng có nhiều kinh nghiệm trong việc đan lát. Người Khơ Mú coi việc đan lát để đánh giá năng lực tài giỏi khéo léo của người đàn ông tuy nghề đan lát chỉ là nghề phụ trong hoạt động kinh tế của họ. Việc truyền nghề hoàn toàn tự nhiên từ khi người con trai Khơ Mú ở độ tuổi 10 – 15.

Ngoài đan lát người Khơ Mú còn nhiều nghề thủ công khác như dệt và làm mộc. Tuy vậy các nghề này không phát triển nhiều mà chỉ là những hoạt động có tính chất phục vụ cho bản thân hoặc gia đình. Sống gần người Thái người phụ nữ Khơ Mú có học được ít nhiều về việc dệt vải, trồng bông, chế biến sợi bông. Khung dệt vải của họ khá đơn sơ, vải dệt song được nhuộm bằng lá chàm (Chala Chàm).

Tuy đơn giản nhưng nghề mộc cũng có một vai trò nhất định trong việc chế tác các đồ gỗ trong gia đình như là ghế gỗ, mâm gỗ, cối gỗ để giã các loại hạt.

Có nơi người ta có thể làm được ngôi nhà sàn nhỏ bằng gỗ, khi làm nhà to thì họ phải thuê người Thái làm hoặc thuê thợ ở dưới xuôi lên

Nhìn môt cách tổng quát nghề đan lát và một số nghề thủ công đơn giản được tồn tại một cách bền bỉ trong đời sống của người Khơ Mú nó thể hiện những nét đẹp về bản sắc văn hóa của người Khơ Mú, tính nhân văn sâu sắc như các sản phẩm của người đàn ông Khơ Mú tặng bạn gái, hay cái quạt, cái rá mà các cô dâu thường làm để tặng mẹ chồng.

Ngày nay tại các bản làng Khơ Mú, những tập quán đẹp đó vẫn tồn tại cùng sự trường tồn của bản sắc văn hóa Khơ Mú.

PGS TS Nguyễn Thị Thanh Nga

Tin liên quan

Những làng dệt thổ cẩm ở Tây Bắc

Những làng dệt thổ cẩm ở Tây Bắc

LNV - Tây Bắc không chỉ cuốn hút du khách bởi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn bởi những nét văn hóa đặc sắc, trong đó nổi bật là nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào dân tộc Mông. Từ Lùng Tám (Hà Giang), Cát Cát (Sapa) đến Sin Suối Hồ (Lai Châu), mỗi bản làng đều lưu giữ và phát triển nghề dệt lanh, nhuộm chàm, thêu sáp ong – tạo nên những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa, được yêu thích bởi cả du khách trong và ngoài nước.
10 làng nghề lâu đời nổi tiếng ở Bắc Giang

10 làng nghề lâu đời nổi tiếng ở Bắc Giang

LNV - Bắc Giang là tỉnh có nhiều làng nghề, là một trong những cái nôi của các làng nghề thủ công truyền thống ở nước ta. Các làng nghề ở Bắc Giang được hình thành từ xa xưa, xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân với những bí quyết cổ truyền đã được đúc kết qua nhiều thế hệ, sản xuất ra một số sản phẩm nổi tiếng trong khắp cả nước như: rượu làng Vân, bánh đa Thổ Hà, mây tre đan Tăng Tiến, bánh đa Kế, bún Đa Mai, mỳ Chũ Lục Ngạn, Hương ngát Linh Sơn…
Chè Shan Tuyết Tà Xùa: Hương vị cao nguyên tinh túy

Chè Shan Tuyết Tà Xùa: Hương vị cao nguyên tinh túy

LNV - Chè Shan Tuyết Tà Xùa, một đặc sản nổi tiếng của vùng núi cao Tây Bắc, không chỉ thu hút người thưởng thức bởi hương vị thơm ngon, độc đáo mà còn vì sự gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên hoang sơ và truyền thống canh tác lâu đời của người dân nơi đây.

Tin mới hơn

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.

Tin khác

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

LNV - Tạp chí Làng Nghề Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng” của đồng chí Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH T.W Đảng cộng sản Việt Nam.
Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

LNV - Trải qua hàng trăm năm lịch sử, các làng nghề không chỉ mang nhiều giá trị về mặt kinh tế mà còn là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc và mang đậm dấu ấn của kiến trúc truyền thống Việt Nam. Khai thác tiềm năng của làng nghề để thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch đang được coi là một trong những hướng đi triển vọng của đất nước. Tuy nhiên, làng nghề truyền thống trong thời kỳ đổi mới cũng đang đặt ra những thách thức đặc biệt là bảo tồn và phát triển về không gian kiến trúc.
Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

LNV - Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam từ lâu đã được biết đến với những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa, nghệ thuật truyền thống, thể hiện tài hoa của những nghệ nhân làng nghề. Tuy nhiên, khi bước vào thời đại hội nhập và toàn cầu hóa, để giữ vững được thị trường trong nước và cạnh tranh với các sản phẩm quốc tế, các doanh nghiệp và làng nghề phải tìm ra cách tiếp cận hiệu quả hơn thông qua chiến lược marketing xuất khẩu.
Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em, giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có những hướng đi bền vững.
Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

LNV - Vượt ra khỏi vai trò vỏ bọc bên ngoài, bao bì sản phẩm còn là câu chuyện thương hiệu và thông điệp mà nhà sản xuất muốn gửi gắm. Vì vậy, thiết kế bao bì không chỉ đòi hỏi sự sáng tạo, mà còn cần sự hiểu biết sâu sắc về sản phẩm, thị trường và khách hàng.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Xúc tiến thương mại OCOP Góp phần cùng chủ thể phát triển, nông thôn mới bền vững

Xúc tiến thương mại OCOP Góp phần cùng chủ thể phát triển, nông thôn mới bền vững

LNV - Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tại Bắc Kạn đã bước lên một tầm cao mới khi tích cực xúc tiến thương mại, giúp chủ thể – bao gồm hợp tác xã, tổ hợp tác và hộ sản xuất – từng bước phát triển chuyên nghiệp hơn, tiếp cận thị trường rộng lớn và hướng đến mục tiêu nông thôn mới bền vững.
Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới tại Bắc Kạn: Tăng cường tiếp cận khách du lịch

Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới tại Bắc Kạn: Tăng cường tiếp cận khách du lịch

LNV - Trong hành trình xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi số không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là động lực thúc đẩy phát triển bền vững ở các địa phương. Tại tỉnh Bắc Kạn – một tỉnh miền núi với nhiều tiềm năng về văn hóa, nông sản và du lịch sinh thái, chuyển đổi số đang từng bước được lồng ghép vào các hoạt động của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, mở ra cơ hội mới trong quảng bá hình ảnh, thu hút khách du lịch và nâng cao thu nhập cho người dân.
Một thập kỷ nông thôn mới Bắc Kạn Từ gian khó đến diện mạo khởi sắc

Một thập kỷ nông thôn mới Bắc Kạn Từ gian khó đến diện mạo khởi sắc

LNV - Sau 10 năm triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới, Bắc Kạn đã có những chuyển biến rõ nét. Những con đường bê tông len qua bản làng, mái nhà kiên cố dần thay thế nhà tạm, mô hình kinh tế mới giúp người dân nâng cao thu nhập. Từ một tỉnh miền
Bắc Kạn xây dựng nông thôn mới ở vùng đất khó

Bắc Kạn xây dựng nông thôn mới ở vùng đất khó

LNV - Tính đến hết quý II, năm 2025, toàn tỉnh Bắc Kạn đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ trong công tác xây dựng nông thôn mới (NTM), đặc biệt tại các xã vùng sâu vùng xa của tỉnh đang từng bước đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững.
Bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững: Tìm hướng đi mới của các làng nghề

Bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững: Tìm hướng đi mới của các làng nghề

LNV - Sản xuất manh mún, phân tán, cơ sở sản xuất thường nằm ngay trong các hộ gia đình, khu dân cư… khiến vấn đề ô nhiễm tại các làng nghề ngày càng trở nên nghiêm trọng. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng sức khỏe người dân, mà còn hạn chế sự phát triển sản phẩm làng nghề.
Giao diện di động