Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội
Để hỗ trợ cho các làng nghề, thời gian qua, Sở Công Thương Hà Nội đã rà soát, phát triển ổn định vùng nguyên liệu cung ứng tại chỗ nhằm bảo đảm cung ứng một phần nguyên liệu cho các làng nghề của thành phố từ các tỉnh/vùng trong nước, các nước trong khu vực.
Hà Nội hiện có khoảng 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm hơn 30% tổng số làng nghề của cả nước. Trong số này, 327 làng nghề đã được UBND thành phố công nhận. với 47/52 nghề trong tổng số nghề truyền thống của cả nước.
Theo báo cáo năm 2024, tổng doanh thu của 327 làng nghề được công nhận ước đạt trên 24.000 tỷ đồng/năm. Một số làng nghề đạt doanh thu cao đáng kể như làng nghề điêu khắc mỹ nghệ Sơn Đồng (đạt trên 3.000 tỷ đồng), làng nghề đồ mộc thôn Hữu Bằng, huyện Thạch Thất (cũ) trên 1.000 tỷ đồng… Ngoài giá trị kinh tế, các làng nghề đã thu hút du lịch và tạo sinh kế cho khoảng 800 nghìn lao động tại địa phương. Thu nhập bình quân đầu người của lao động đạt trên 50 triệu đồng/người/năm…
![]() |
Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có nhiều tiềm năng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng ổn định, đã có mặt trên 163 quốc gia trên thế giới, gồm các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia.
Năm 2023 xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đạt khoảng 3,5 tỷ USD, mục tiêu năm 2025 đạt khoảng 4 tỷ USD, phấn đấu đến năm 2030 đạt khoảng 6 tỷ USD.
Ông Trịnh Quốc Đạt, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề, cho biết hiện nay chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Đó là nhu cầu tiêu thụ của khách hàng các nước đều hướng đến sản phẩm bền vững và thủ công sử dụng nguyên liệu thiên nhiên như tre, nứa, gỗ, giấy tái chế... thân thiện với môi trường, sản phẩm độc đáo, văn hóa bản địa.
Các sản phẩm xuất khẩu chính như đồ gốm, đồ đồng, tranh gỗ, tranh sơn dầu, đồ thủy tinh, đồ đá quý, thảm trải sàn, đèn lồng, các loại nón, túi xách, giày dép thủ công,… Riêng về sản phẩm mây tre đan, hiện Việt Nam xuất khẩu đến nhiều thị trường, trong đó, thị trường EU chiếm 31%, thị trường Hoa Kỳ chiếm 20% và Nhật Bản chiếm 9%.
Hiện các sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu nói chung và mây tre đan nói riêng đang chịu sự cạnh tranh từ các nước khác, trong đó có thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, tại các nước mới nổi như Thái Lan, Philippines, Indonesia, lượng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đang tăng gần 15%. Việt Nam đang đứng trước cơ hội rất lớn để có thị trường mới, thu nhập mới, chia sẻ thêm những giá trị về môi trường, văn hóa, đặc sắc của Việt Nam cho người tiêu dùng toàn cầu.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội (Sở Công Thương Hà Nội) Vương Đình Thanh cho biết, tổng kim ngạch xuất khẩu của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam năm 2024 ước đạt khoảng trên 2 tỷ USD. Phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm, xây dựng thương hiệu. Một số sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, có thế mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài, đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đẩy mạnh xuất khẩu.
Nguồn cung nguyên liệu chưa ổn định
Hiện các làng nghề Hà Nội vẫn thiếu hụt nguồn nguyên liệu chất lượng, một trong những yếu tố đầu vào quan trọng. Trong khi nguyên liệu đầu vào là yếu tố quyết định chất lượng, giá thành và năng lực cạnh tranh của sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Theo số liệu khảo sát mới nhất của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội, tại các khu vực tập trung nhiều làng nghề thuộc các nhóm ngành như gốm sứ, sơn mài, mây tre đan và đồ gỗ, trung bình một năm các làng nghề này tiêu thụ khoảng 6.800 tấn nguyên liệu các loại (mây, tre, luồng, nứa, vầu, cỏ tế, chít...). Trong đó, trung bình một doanh nghiệp tiêu thụ khoảng 50 tấn nguyên liệu/tháng, hộ gia đình tiêu thụ khoảng 20 tấn nguyên liệu/tháng. Mỗi năm, các làng nghề gốm sứ tiêu thụ khoảng 620.000 tấn nguyên liệu, chủ yếu là đất sét và cao lanh; các làng nghề gỗ tiêu thụ khoảng 1.000.000m3 gỗ.
Phó Giám đốc Trung tâm Vương Đình Thanh nhận định: Hiện nay, sự phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ hiện vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu, chưa khai thác hết tiềm năng, giá trị của sản phẩm, thiếu ý tưởng thiết kế và phát triển sản phẩm mới là tình trạng chung của các làng nghề hiện nay. Nguồn cung nguyên liệu chưa ổn định, mức độ đa dạng hóa sản phẩm chưa cao, thiếu sản phẩm chế biến có chiều sâu, có giá trị gia tăng cao là một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam nói chung và của Hà Nội nói riêng vẫn còn thiếu sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Giải pháp cung ứng nguyên liệu cho ngành thủ công mỹ nghệ
Để khắc phục, hỗ trợ các làng nghề tìm kiếm nguồn cung nguyên liệu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội Vương Đình Thanh cho biết, thời gian qua, Sở Công Thương Hà Nội đã rà soát, phát triển ổn định vùng nguyên liệu cung ứng tại chỗ nhằm bảo đảm cung ứng một phần nguyên liệu cho các làng nghề của thành phố; xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững từ các tỉnh, các vùng trong nước và nước ngoài, đáp ứng yêu cầu sản xuất của các làng nghề trên địa bàn Thủ đô.
![]() |
Sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ tại Hội chợ VIETNAM OCOPEX 2025 |
Bên cạnh đó, thành phố cũng xây dựng chợ đầu mối giao dịch nguyên liệu sản xuất cho các làng nghề; phát triển một số mô hình chuyên môn hóa trong cung cấp nguyên liệu đầu vào cho chế biến của làng nghề; nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu, giảm thất thoát, tránh lãng phí nguyên liệu nhằm giúp các doanh nghiệp làng nghề thủ công mỹ nghệ Hà Nội tìm kiếm nguồn cung nguyên liệu đầu vào và giúp các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc tiêu thụ bán thành phẩm, thành phẩm ổn định, lâu dài, có chất lượng.
Cũng trăn trở về nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, Chủ tịch Hiệp hội Gốm sứ Kim Lan Đào Việt Bình cho biết, hằng năm, nhu cầu của các cơ sở sản xuất trên địa bàn Hà Nội ước tính khoảng 60-80 nghìn tấn đất sét, cao lanh; 10 nghìn tấn tràng thạch, thạch anh; 2-3 nghìn tấn men, phụ gia... Phần lớn nguyên liệu phải mua từ các tỉnh: Phú Thọ, Quảng Ninh, Lào Cai và một phần nhập khẩu.
Tuy nhiên, chuỗi cung ứng nguyên liệu hiện còn nhiều bất cập khi nguồn cung phụ thuộc vào thương lái trung gian; giá nguyên liệu biến động mạnh; chất lượng nguyên liệu không đồng đều... Đặc biệt, một số nguyên liệu đặc biệt như men màu zircon, oxit kim loại tinh chế vẫn phải nhập khẩu với giá cao, làm tăng đáng kể chi phí sản xuất.
Theo ông Đào Việt Bình, một trong những giải pháp căn cơ là xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh có vùng nguyên liệu và các làng nghề sản xuất. Các địa phương nên khuyến khích ký kết hợp đồng cung ứng dài hạn giữa doanh nghiệp khai thác nguyên liệu và cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ. Bên cạnh đó, việc tổ chức hội chợ giao thương nguyên liệu và sản phẩm định kỳ là một giải pháp hiệu quả để kết nối giữa nhà cung ứng và đơn vị sản xuất.
Còn theo Chủ tịch Hiệp hội Khảm trai Phú Xuyên Nguyễn Vinh Quang, nguyên liệu chính của nghề khảm trai là vỏ trai, vỏ ốc và vỏ điệp, đây đều là những loại nguyên liệu tự nhiên. Tuy nhiên, việc khai thác quá mức trong nhiều năm, cộng với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và các quy định nghiêm ngặt về bảo tồn sinh học đã khiến nguồn cung trở nên thiếu ổn định.
Để duy trì và phát triển bền vững nghề khảm trai, Chủ tịch Hiệp hội Khảm trai Phú Xuyên Nguyễn Vinh Quang cho rằng, việc bảo đảm nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng là vấn đề cấp thiết. Bên cạnh đó, cần có thêm các chính sách hỗ trợ đào tạo, chuyển giao công nghệ, giúp nghệ nhân giảm chi phí sản xuất và nâng cao giá trị sản phẩm.
Ông Vương Đình Thanh, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn Phát triển công nghiệp Hà Nội cũng cho rằng, cần đầu tư phát triển vùng nguyên liệu tập trung và điều chỉnh giá thuê đất cho các cơ sở sản xuất trong cụm công nghiệp…
Đồng quan điểm, chuyên gia Vũ Huy Thiều gợi ý hoàn thiện chính sách đất đai, khuyến khích doanh nghiệp và hợp tác xã thuê hoặc tích tụ đất để phát triển vùng nguyên liệu tập trung; đồng thời kêu gọi Hà Nội phối hợp chặt chẽ với các địa phương nhằm hình thành chuỗi liên kết cung ứng.
Từ phía địa phương cung cấp, ông Hoàng Xuân Tiến, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Phú Thọ cho rằng Hà Nội và Phú Thọ nên tăng cường kết nối để vừa cung cấp nguyên liệu, vừa tiêu thụ bán thành phẩm; đồng thời khảo sát tiềm năng nguyên liệu bản địa để lựa chọn cây trồng đặc trưng phục vụ làng nghề.
Nguồn nguyên liệu là vấn đề quyết định sự phát triển bền vững của các làng nghề thủ công mỹ nghệ Hà Nội, tạo sức cạnh tranh trên thị trường. Giải quyết bài toán nguyên liệu chính là bước quan trọng để các làng nghề ổn định sản xuất, gìn giữ giá trị truyền thống và vươn ra thị trường quốc tế.
Theo ông Nguyễn Ánh Dương – Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội, chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa của thành phố đến năm 2030 đặt mục tiêu có 6–10 nhóm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu trực tiếp và tỷ trọng hàng thủ công mỹ nghệ chiếm 3–5 % giá trị xuất khẩu của Hà Nội. Để đạt mục tiêu này, thành phố đang thúc đẩy hợp tác với các địa phương trong nước và cả những nước như Lào, Campuchia nhằm hình thành vùng nguyên liệu bền vững. |
Tin liên quan

OCOP – Bệ phóng thương hiệu cho sản vật vùng miền
17:00 | 12/08/2025 OCOP

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ
09:53 | 04/08/2025 Nghiên cứu trao đổi

Hà Nội lần đầu đăng cai tổ chức Festival làng nghề quốc tế năm 2025
11:56 | 11/07/2025 Tin tức
Tin mới hơn

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội
11:15 | 26/08/2025 Nghiên cứu trao đổi
Tin khác

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ
09:24 | 15/08/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch
10:21 | 31/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương
10:21 | 31/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội
09:39 | 25/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh
08:47 | 18/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch
11:56 | 11/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam
09:49 | 25/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa
10:50 | 23/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề
09:39 | 09/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề
09:18 | 30/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”
14:25 | 23/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam
09:15 | 13/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng
09:40 | 09/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại
09:08 | 15/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Những yếu tố sống còn của làng nghề
14:31 | 10/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Chuyển biến về môi trường ở làng nghề Đại Bái
15:38 Môi trường

Bắc Ninh: Thực hiện tốt kế hoạch khuyến công
15:37 Khuyến công

Hội chợ Triển lãm hàng công nghiệp nông thôn năm 2025
15:37 Khuyến công

Người con Hậu Giang dành cho miền đất nghĩa tình
15:36 Văn hóa - Xã hội

Ngày tựu trường – Nơi yêu thương khởi nguồn tri thức
15:33 Văn hóa - Xã hội