Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ
Tỉnh Nghệ An, với diện tích tự nhiên lớn nhất cả nước, là địa phương có địa hình và hệ sinh thái đa dạng bao gồm vùng núi cao phía Tây, đồng bằng trung du phía Đông và dải ven biển dài hơn 80km, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều ngành nghề truyền thống và thủ công mỹ nghệ (TCMN) sử dụng nguyên liệu tự nhiên tại chỗ. Sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên, kết hợp với truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của người dân xứ Nghệ đã hình thành nên các làng nghề, nghề thủ công đa dạng, có bản sắc rõ nét. Các sản phẩm TCMN của Nghệ An chủ yếu sử dụng nguyên vật liệu bản địa, thân thiện môi trường, gắn với sinh kế bền vững của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế và áp lực từ đô thị hóa, nguồn nguyên liệu truyền thống cho ngành TCMN của tỉnh đang đứng trước nhiều thách thức về cạn kiệt, mai một và chưa được khai thác hiệu quả theo hướng bền vững.
![]() |
Ông Hoàng Minh Tuấn, Giám đốc Trung tâm khuyến công và tư vấn phát triển công thương Nghệ An tham luận tại Hội nghị Kết nối cung cầu nguyên liệu đầu vào ngành thủ công mỹ nghệ giữa Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. |
Một đặc điểm nổi bật của nguyên vật liệu TCMN Nghệ An là sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống. Ở vùng núi cao phía Tây, nơi có đông đồng bào Thái, Mông, Khơ Mú, Ơ Đu sinh sống (thuộc các huyện cũ như Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, Con Cuông...), nguồn nguyên liệu chủ yếu là các sản phẩm của rừng và thảo nguyên: tre, nứa, vầu, giang, mây, gỗ, sợi lanh, vỏ cây nhuộm, thảo dược... phục vụ cho nghề đan lát, dệt thổ cẩm, làm nhạc cụ dân tộc, làm hương và đồ thủ công truyền thống. Người dân nơi đây có kinh nghiệm lâu đời trong việc thu hái, chế biến nguyên liệu tự nhiên và áp dụng kỹ thuật sản xuất thủ công mang tính bản địa, từ đó tạo nên các sản phẩm vừa có giá trị sử dụng vừa có chiều sâu văn hóa. Đặc biệt, nghề dệt thổ cẩm của người Thái, người Mông sử dụng nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên như sợi bông, sợi lanh kết hợp với thuốc nhuộm từ lá chàm, cây vang, vỏ cây đỏ... tạo ra các tấm vải có hoa văn tinh xảo, bền màu và mang đậm yếu tố tâm linh truyền thống.
Ở vùng trung du và đồng bằng, nơi có các huyện như Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Đô Lương (cũ)..., nguyên liệu phục vụ ngành TCMN gồm có cái, tre, luồng, đất sét, gỗ xoan, gỗ keo, lá cọ, vỏ cây... Đây là nguyên liệu chính cho các nghề làm nón, làm hương, đan lát, mộc dân dụng, sản xuất đồ thờ, đồ mỹ nghệ, gốm đất nung, giấy thủ công... Nghề làm nón lá tại huyện Nam Đàn (cũ) sử dụng nguyên liệu lá cọ lấy từ các vùng trung du (cây mọc tự nhiên và được trồng xen trong vườn), sợi chỉ, tre vót và hoa văn thủ công. Nghề làm hương tại xã Nghi Trung (huyện Nghi Lộc cũ) sử dụng nguyên liệu từ bột gỗ cây dẻ, keo, chất kết dính tự nhiên và hương liệu thảo mộc (hồi, quế, hương bài...). Trong khi đó, các sản phẩm đan lát như rổ rá, khay, mành, chiếu... chủ yếu sử dụng tre, nứa và luồng được khai thác tại chỗ hoặc thu mua từ huyện Anh Sơn, Thanh Chương (cũ) – nơi có trữ lượng tre luồng khá lớn. Tuy nhiên, khai thác vẫn chủ yếu thủ công, tự phát, thiếu sự đầu tư vào khâu chế biến và bảo quản nguyên liệu, dẫn đến chất lượng không đồng đều và khó nâng cao giá trị sản phẩm.
Vùng ven biển và các khu vực giáp biển, như các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Nghi Lộc, thị xã Hoàng Mai (cũ)... lại cung cấp các nguyên liệu đặc trưng như vỏ sò, vỏ ốc, san hô, rong biển, gỗ trôi, cát biển, đất sét, phù sa... Đây là nguồn nguyên liệu độc đáo để chế tác các sản phẩm trang trí, đồ lưu niệm, đồ gốm và các sản phẩm gắn với phát triển du lịch biển. Một số hộ dân và cơ sở sản xuất ở Diễn Thành, Quỳnh Nghĩa đã sáng tạo sử dụng vỏ sò, vỏ ốc để làm tranh treo tường, đèn, vật phẩm phong thủy và quà lưu niệm phục vụ khách du lịch. Tuy nhiên, nhóm nguyên liệu này mới chỉ được khai thác ở quy mô nhỏ, mang tính thử nghiệm, chưa có chuỗi sản xuất ổn định và thiếu liên kết giữa khai thác- sản xuất-tiêu thụ.
![]() |
Tre, nứa, luồng và mây là nhóm nguyên liệu truyền thống được sử dụng rộng rãi trong các nghề đan lát, làm đồ gia dụng, sản phẩm trang trí và các sản phẩm xuất khẩu. Vùng có diện tích tre, luồng lớn nhất là các huyện Thanh Chương, Anh Sơn, Tân Kỳ, Con Cuông (cũ). nơi có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển tre luồng chất lượng tốt. Đặc điểm của tre xứ Nghệ là thân dài, thẳng, đốt nhỏ, độ dẻo cao, màu tự nhiên đẹp, thích hợp cho chế tác các sản phẩm đan lát cao cấp. Tuy nhiên, tình trạng khai thác không theo quy hoạch, thiếu chăm sóc, chưa có công nghệ xử lý (phơi, tẩy, chống mối mọt, hấp sấy...) khiến chất lượng vật liệu chưa đạt chuẩn để xuất khẩu. Việc trồng rừng nguyên liệu tre luồng còn phân tán, không có liên kết chặt chẽ giữa hộ trồng và cơ sở sản xuất, gây lãng phí và thiếu ổn định nguồn cung.
Sợi thực vật như lanh, gai, bông, vỏ cây... là nguyên liệu không thể thiếu trong dệt thổ cẩm và làm sản phẩm vải thủ công. Tuy nhiên, nghề trồng lanh và kéo sợi lanh thi chỉ còn tồn tại ở một số bản làng người Mông tại Tương Dương, Kỳ Sơn với quy mô nhỏ lẻ. Việc sử dụng thuốc nhuộm tự nhiên từ các loại cây rừng như chàm, vang, hồng ngọc, vỏ cây vang đỏ... vẫn còn được duy trì nhưng đang có nguy cơ mai một do nguyên liệu khan hiếm và giới trẻ không còn mặn mà học nghề. Để phục hồi nguyên liệu này, cần có chính sách hỗ trợ bảo tồn cây giống, mở rộng vùng nguyên liệu và xây dựng mô hình dệt thổ cẩm gắn với phát triển du lịch cộng đồng.
Đất sét, cao lanh, cát trắng là nguồn nguyên liệu khoáng sản có giá trị cao, phục vụ sản xuất gốm, gạch và sản phẩm điêu khắc mỹ nghệ. Một số vùng như Quỳnh Lưu, Tân Kỳ, Thanh Chương có mỏ đất sét tự nhiên thích hợp để làm gốm thủ công và gạch không nung. Tuy nhiên, các nghề sử dụng nguyên liệu này chưa phát triển rộng, chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình hoặc xưởng nhỏ, chưa được đầu tư công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Bên cạnh đó, gỗ rừng trồng (keo, xoan, lát) và gỗ tự nhiên vẫn là nhóm nguyên liệu quan trọng phục vụ ngành mộc dân dụng và mộc mỹ nghệ, phổ biến tại các huyện miền núi trung du như Tân Kỳ, Anh Sơn, Thanh Chương, Quỳ Hợp. Gỗ xoan ta, xoan đào được ưa chuộng vì vân đẹp, dễ chạm khắc, phù hợp với sản phẩm đồ thờ, tượng gỗ, đồ phong thủy. Tuy nhiên, việc trồng rừng gỗ chủ yếu phục vụ nguyên liệu thô, chưa kết hợp quy hoạch vùng nguyên liệu chất lượng cao cho ngành TCMN. Công tác xử lý gỗ (sấy, hấp, chống mối mọt) chưa phát triển rộng khiến sản phẩm thủ công khó đạt chất lượng cao và bền vững khi tiếp cận thị trường xuất khẩu.
Lá cây, vỏ cây, thảo dược và nguyên liệu phụ trợ tự nhiên là nhóm nguyên liệu giàu tiềm năng nhưng chưa được khai thác đúng mức. Lá cọ, lá nón, vỏ cây nhuộm, cây bời lời (chất kết dính), rễ cây, hương liệu thiên nhiên... được sử dụng trong nghề làm nón, làm hương, thuốc nhuộm, giấy thủ công, sản phẩm quà tặng. Tuy nhiên, do thiếu nghiên cứu bảo tồn và ứng dụng, nhiều nguyên liệu quý bị lãng quên, không có vùng trồng, dẫn đến cạn kiệt dần hoặc mất giống bản địa.
![]() |
Bên cạnh tiềm năng, hiện trạng phát triển nguyên vật liệu TCMN tại Nghệ An còn nhiều tồn tại.
Trước hết, phần lớn nguyên liệu chưa được quy hoạch theo vùng chuyên canh, thiếu liên kết giữa người trồng- người khai thác - người chế biến - cơ sở sản xuất. Việc khai thác nguyên liệu chủ yếu theo hình thức nhỏ lẻ, tự phát, không kiểm soát chất lượng đầu vào, dẫn đến giá thành cao, chất lượng thấp, khó tiêu chuẩn hóa sản phẩm đầu ra.
Thứ hai, thiếu đầu tư vào công nghệ sơ chế, xử lý và bảo quản nguyên liệu, khiến tỷ lệ hao hụt cao, nguyên liệu dễ hư hỏng, nhanh mốc mọt, đặc biệt trong mùa mưa ẩm.
Thứ ba, thiếu cơ sở dữ liệu, bản đồ vùng nguyên liệu, chưa có cơ chế khuyến khích bảo tồn và phát triển nguyên liệu truyền thống gắn với đặc sản địa phương.
Thứ tư, nguồn nhân lực có tay nghề trong khâu khai thác và sơ chế nguyên liệu ngày càng thiếu hụt, do giới trẻ ít mặn mà với nghề, chưa có mô hình đào tạo phù hợp.
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế số, để phát triển ngành TCMN một cách bền vững, Nghệ An cần xây dựng chiến lược quy hoạch và phát triển nguyên vật liệu gắn với vùng nghề truyền thống. Cần tổ chức khảo sát, thống kê, lập bản đồ vùng nguyên liệu đặc trưng; bảo tồn giống bản địa; hỗ trợ nông dân, hợp tác xã trồng và khai thác nguyên liệu gắn với bao tiêu sản phẩm.
Đặc biệt, nên đẩy mạnh kết nối giữa nhà người dân để nghiên cứu ứng dụng công nghệ trong bảo khoa học - doanh nghiệp - quản, chế biến nguyên liệu; xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật và chứng nhận xuất xứ nguyên liệu. Đồng thời, cần khuyến khích khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực thiết kế sản phẩm TCMN từ nguyên liệu bản địa, kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và tăng tính cạnh tranh trên thị trường.
Tóm lại, nguyên vật liệu phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ tỉnh Nghệ An rất phong phú, có tính bản địa cao, gắn liền với điều kiện sinh thái và văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tiềm năng này, cần có giải pháp tổng thể về quy hoạch, bảo tồn và phát triển vùng nguyên liệu, tạo nền tảng bền vững cho ngành TCMN phát triển, góp phần bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể và thúc đẩy sinh kế nông thôn trong giai đoạn hội nhập mới.
Tin liên quan

Nghệ An xây dựng kế hoạch khuyến công năm 2026
20:15 | 14/08/2025 Khuyến công

Làng nghề Cao Bằng xu hướng công nghệ 4.0
21:19 | 08/08/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ
09:53 | 04/08/2025 Nghiên cứu trao đổi
Tin mới hơn

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ
09:24 | 15/08/2025 Nghiên cứu trao đổi
Tin khác

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch
10:21 | 31/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương
10:21 | 31/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội
09:39 | 25/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh
08:47 | 18/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch
11:56 | 11/07/2025 Nghiên cứu trao đổi

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam
09:49 | 25/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa
10:50 | 23/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề
09:39 | 09/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề
09:18 | 30/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”
14:25 | 23/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam
09:15 | 13/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng
09:40 | 09/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại
09:08 | 15/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Những yếu tố sống còn của làng nghề
14:31 | 10/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Sức sống ở làng nghề Yên Bái
09:31 | 04/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Diễn đàn "Phát triển kinh tế tư nhân gắn với tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường bền vững"
15:22 Tin tức

Thách thức về môi trường và hạ tầng tại làng nghề hấp cá Cửa Việt
14:34 Môi trường

Hội chợ Công thương vùng Bắc Trung Bộ - Hà Tĩnh dự kiến diễn ra vào tháng 9
14:34 Khuyến công

Thái Nguyên: Khuyến công trợ lực vững chắc cho các doanh nghiệp
14:34 Khuyến công

Hà Tĩnh: Khuyến công tạo động lực cho cơ sở công nghiệp nông thôn phát triển
14:34 Khuyến công