Hà Nội: 26°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 26°C Thừa Thiên Huế

Làng nghề sản xuất kinh doanh trong đại dịch Covid -19

LNV - Gần hai năm qua, đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt trong đời sống kinh tế - xã hội nước ta. Trong tình hình ấy, các hộ kinh doanh làng nghề cũng đang phải tìm nhiều biện pháp để trụ vững song vẫn rất khó khăn. Thực trạng đang đòi hỏi những suy nghĩ mới, cách làm mới để các hộ kinh doanh cầm cự, tồn tại, tiếp tục sản xuất kinh doanh, đồng thời chuẩn bị cho bước phát triển trong thời gian tới.
Hộ kinh doanh gặp khó khăn

Cũng như các ngành nghề khác trong nền kinh tế, do tác động của đại dịch Covid-19, thời gian qua, các hộ kinh doanh làng nghề nước ta (dưới đây gọi tắt là hộ) gặp nhiều khó khăn chồng chất. Tuy khó khăn của mỗi nghề, ở mỗi địa phương có khác nhau và cũng chưa có số liệu thống kê đầy đủ, song nhìn chung, dù bản thân các hộ đã hết sức cố gắng và được sự trợ giúp của các bộ, ngành, khá nhiều hộ vẫn phải thu hẹp hoặc tạm ngừng sản xuất kinh doanh. Theo một cuộc khảo sát với trên 100 doanh nghiệp vào giữa tháng 6/2021, có đến 84% số hộ gặp khó khăn. Trong đó, 40% thiếu vốn kinh doanh; Thị trường bị ảnh hưởng, thu hẹp chiếm 80%; Phải cắt giảm lao động chiếm 52%; Bị đứt chuỗi cung ứng nguyên liệu chiếm 14%; Bị cản trở hoạt động kinh doanh do biện pháp cách ly xã hội phòng dịch chiếm trên 50%.


Thu hoạch mẻ gốm vừa ra lò


Có thể khái quát một số điểm chính về thực trạng sản xuất kinh doanh của các hộ như sau:

Một là, thị trường trong nước bị co lại, sức mua hàng thủ công giảm sút. Đại dịch bùng nổ, lây lan nhiều địa phương, nhân dân phải thực hiện các biện pháp cách ly, sức mua giảm sút dẫn đến sản xuất đình đốn, người lao động tạm nghỉ hoặc mất việc, thu nhập giảm. Do đó, chi tiêu của mỗi gia đình phải tập trung vào những nhu cầu thiết yếu nhất (như thực phẩm), chi tiêu về hàng thủ công chưa thiết yếu giảm sút.

Hai là, xuất khẩu và du lịch bị hạn chế. Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu giảm mạnh do sức mua giảm vì dịch bệnh hoành hành tại nhiều nước; Trừ một số nghề như may mặc, đồ gỗ, mây tre còn một ít thị trường nước ngoài vẫn mua, song lại gặp khó khăn về nguyên liệu (như gỗ) hoặc cước phí vận tải tăng cao. Cũng do dịch bệnh, khách du lịch nước ngoài giảm mạnh; Những điểm du lịch làng nghề vắng khách hẳn.

Ba là, sản xuất đình đốn. Do thị trường bị thu hẹp, hàng làm ra không bán được hoặc bán chậm, kể cả bán trong nước hoặc xuất khẩu, hàng tồn kho tăng. Theo thông tin trên báo chí, có những hộ, do sản phẩm vẫn bán được hoặc do nỗ lực, sáng tạo, thay đổi mặt hàng cho nên vẫn duy trì được sản xuất kinh doanh ở mức độ nhất định; Song nhìn chung, sản xuất đình đốn là phổ biến. Đã có những hộ tạm ngừng sản xuất; Nhiều hộ sản xuất cầm chừng.

Bốn là, tình hình tài chính hết sức gay go. Các hộ đang thuộc quy mô nhỏ và vừa, thậm chí siêu nhỏ, vốn liếng ít, nhiều khi phải dựa vào vốn của người đặt hàng hoặc vay ngân hàng. Đến nay, hàng không bán được, doanh thu bị thu hẹp, tài chính càng khó khăn: thiếu vốn cho sản xuất, thiếu tiền trả lương công nhân, đóng bảo hiểm xã hội, thiếu tiền nộp các loại thuế, phí, trả lãi ngân hàng, có một số hộ còn không còn tiền để trả tiền thuê kho, nhà xưởng, v.v…


Nghệ nhân làng gốm Thanh Hà đang tạo dáng cho sản phẩm


Năm là, đời sống người lao động làng nghề gặp nhiều khó khăn. Do hàng không bán được, khá nhiều hộ thu hẹp sản xuất, từ đó doanh thu giảm sút, lợi nhuận hầu như không có, hộ chịu nợ lương công nhân hoặc phải cắt giảm lao động. Nhiều lao động thiếu việc, mất việc, thu nhập không đủ sống, nhiều gia đình cầm cự qua ngày. Bản thân chủ hộ cũng không đủ sức trợ giúp người lao động. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số làng nghề vẫn chưa được khắc phục, đang ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tuổi thọ người lao động.

Thực trạng nói trên là rất đáng quan ngại. Thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp như: cấp các gói tiền trợ giúp những hộ hoặc người lao động mất việc làm; Miễn, giảm, giãn, hoãn nộp các loại thuế, phí; Hoãn đóng bảo hiểm xã hội; Giảm phí giao thông, phí kho, bãi, tổ chức lại logistics, v.v… Ngân hàng cũng đã tiến hành cơ cấu lại các khoản dư nợ, thực hiện miễn, giảm lãi suất, khoan, giãn nợ, tăng tín dụng, v.v…Trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) nước ta đã ký kết với các nước trên thế giới cũng đã đề ra những ưu đãi, chủ yếu là về thuế. Tuy nhiên, các hộ được hưởng những ưu đãi nói trên không nhiều, có phần do thủ tục để được hưởng còn rườm rà, khó thực hiện; Cũng có phần do nhiều hộ không kịp thời tiếp cận các ưu đãi ấy. Trong khi nội lực có hạn, vốn liếng bị bào mòn qua thời gian chống chọi với dịch bệnh, nhiều khó khăn chồng chất vẫn đè nặng các hộ kinh doanh trong làng nghề nước ta.

Kiến nghị một số việc cần triển khai

Hiện nay, khi đại dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp khó lường, chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ kép vừa chống dịch, vừa triển khai các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Nhưng điều chắc chắn là dịch bệnh rồi sẽ bị ngăn chặn và đẩy lùi, dất nước ta sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới, thực hiện các mục tiêu do Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Các hộ đang cần có những giải pháp theo hướng “thích nghi; cầm cự; chuẩn bị cho bước phát triển mới”. Phải thực hiện các biện pháp để thích nghi, cầm cự và khắc phục khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh, đồng thời chuẩn bị cho thời gian tới khi đại dịch bị ngăn chặn, làng nghề bước vào giai đoạn phát triển mới. Khi đó, các hộ không thể sản xuất kinh doanh như trước khi có dịch, mà phải có suy nghĩ mới, cách làm mới và ngay từ bây giờ, phải chuẩn bị mọi mặt cho bước phát triển mới ấy.


Từ thực tiễn, xin nêu lên một số điểm cần được trao đổi, suy nghĩ - có thể coi là những yêu cầu chủ yếu cần được nhất trí khi triển khai thực hiện các công việc cụ thể:

Một là, thực hiện các giải pháp với tâm thế tự lực, tự cường, với khát vọng phát triển làng nghề mạnh mẽ, góp phần xứng đáng thực hiện mục tiêu phát triển đất nước hùng cường trong thời gian tới. Chủ hộ cần có ý chí vươn lên, nghĩ lớn, làm ăn lớn, có đột phá mới, hình thành lớp doanh nhân 4.0, khắc phục tâm lý kinh doanh nhỏ lẻ, tự ti về vốn liếng, trình độ. Cần bồi dưỡng niềm tự hào phát huy di sản nghề thủ công, văn hóa làng nghề ngày thêm phong phú, rạng rỡ, tiếp nối truyền thống văn hóa hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm của dân tộc; Đồng thời tự tin trong hội nhập quốc tế, đưa văn hóa làng nghề ra thế giới, đóng góp vào sự đa dạng, phong phú của văn hóa nhân loại.

Hai là, kết hợp phát huy nội lực và tận dụng những thuận lợi từ bên ngoài. Đó là việc tiếp cận và khai thác hiệu quả hơn nữa các biện pháp hỗ trợ về tài chính, tín dụng mà các cơ quan, tổ chức đã và đang thực hiện. Đó là những ưu đãi về thuế quan đã được quy định trong các hiệp định thương mại tư do mà nước ta đã ký kết. Cần nói thêm rằng: Dù phát huy nội lực phải là chủ yếu, song khai thác các thuận lợi nói trên vẫn là nhân tố rất quan trọng; Vì vậy cần khắc phục tình trạng lâu nay: Tìm hiểu kém, tiếp cận kém, khai thác càng kém, gây ra mất thời cơ, dẫn đến thua thiệt. Việc này cũng rất cần sự trợ giúp của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội bằng các hình thức như tập huấn, phổ biến, tư vấn, v.v…

Ba là, ứng dụng rộng rãi thành tựu của công nghiệp 4.0. Trong thời đại mới, với sự bùng nổ của Cách mạng Công nghiệp 4.0, các hộ đang có thời cơ rất thuận lợi để ứng dụng, thực hiện số hóa, bảo đảm giảm chi phí, nâng cao năng suất lao động, tăng lợi nhuận. Thực tế cho thấy, từ khâu thiết kế, sáng tạo mẫu mã sản phẩm, cho đến quản trị, điều hành sản xuất, xây dựng thương hiệu, ứng dụng thương mại điện tử, vận chuyển hàng hóa, v.v… tất cả đều có thể ứng dụng công nghệ mới một cách linh hoạt, thích hợp từ thấp đến cao.

Dưới đây, xin kiến nghị một số công việc cụ thể mà các hộ kinh doanh làng nghề chúng ta cần quan tâm thực hiện:

Một là, xác định sản phẩm chủ lực, thị trường chủ yếu. Đây là việc làm đầu tiên có ý nghĩa là cơ sở cho các việc tiếp theo. Lâu nay, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của chúng ta chủ yếu gồm 5 nhóm: Túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù; Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận; Hàng gốm sứ; Sản phẩm mây, tre, cói, thảm; Gỗ mỹ nghệ. Ngoài ra còn nhiều mặt hàng thời trang, quà tặng cũng được xuất khẩu tại chỗ. Trong tình hình mới, cần rà soát lại các mặt hàng này, có những dự báo về nhu cầu mới của các thị trường cũng như các chính sách mà các thị trường áp dụng. Trên cơ sở phân tích thị trường mà mỗi hộ xem lại các sản phẩm của mình, tập trung vào những sản phẩm có thế mạnh, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường, kể cả phân khúc thị trường mà mình nhằm đến.

Hai là, đẩy mạnh thiết kế sản phẩm. Hoạt động thiết kế cần được đẩy mạnh, khắc phục tình trạng mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm làng nghề lâu nay vẫn bị coi là đơn điệu, nhàm chán, sản xuất theo thói quen, theo đặt hàng của người mua hoặc sao chép, thiếu sáng tạo. Công tác thiết kế phải vừa kế thừa, phát huy vốn văn hóa dân tộc, vừa thỏa mãn nhu cầu mới của người tiêu dùng. Cần chú ý sự quan tâm của người tiêu dùng trong thời đại mới là các vấn đề liên quan đến môi trường và xã hội, trong đó đặc biệt là nguồn gốc và tính hợp pháp của nguyên liệu sử dụng, các vấn đề liên quan đến các tập quán lao động, an toàn và sức khỏe của công nhân, sản xuất sạch - thân thiện với môi trường, các sản phẩm thủ công sử dụng nguyên liệu tận dụng và tái chế.

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhân lực, nhất là đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi là vốn quý của mỗi hộ; dù khó khăn, cũng không thể để mai một. Với nghệ nhân, phải tạo không gian đồng bộ về tinh thần và vật chất để họ thỏa sức sáng tạo, đồng thời truyền nghề cho lớp trẻ. Nghệ nhân phải được bảo vệ, được đãi ngộ xứng đáng, được tôn vinh đúng thực chất. Trong mỗi hộ, chủ hộ là người định hướng hoạt động của hộ, dùng kiến thức và vốn liếng bảo đảm sự tồn tại và phát triển của hộ, trong nhiều hộ hiện nay, họ cũng đồng thời là nghệ nhân, vì vậy chủ hộ cũng là một nhân vật rất cần được chú trọng bồi dưỡng và nâng cao về tầm nhìn, kiến thức, kịp thời bước phát triển của hộ trong giai đoạn mới.

Bốn là, củng cố tổ chức nội bộ hộ kinh doanh. Để thực hiện tốt các việc nói trên, rất cần tổ chức lại bộ máy, nhân sự, cung cách quản trị, tổ chức thống kê, kế toán, các quy chế làm việc, v.v…Đương nhiên, những việc nói trên cần được thực hiện với những mức độ khác nhau, nhất là ứng dụng công nghệ số, tùy theo quy mô, trình độ của mỗi hộ. Song điều quan trọng là bảo đảm bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hoạt động có nền nếp, nguyên tắc, không vì là “hộ gia đình” mà xuề xòa, kém hiệu quả. Những hộ có điều kiện thì nên đăng ký thành lập doanh nghiệp, từng bước lớn lên, mở rộng sản xuất kinh doanh, tự tin vươn ra thế giới.

Tóm lại, đó là những việc cần làm theo hướng “thích nghi; Cầm cự; Chuẩn bị cho bước phát triển mới” đồng thời với thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 để các hộ tham khảo, vận dụng. Rất mong các bộ, ngành và Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cùng quan tâm trợ giúp để các hộ triển khai đạt hiệu quả, vượt qua khó khăn, vững vàng bước vào giai đoạn phát triển mới.

#Thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính Phủ#

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Cao Bằng nhân rộng vùng nguyên liệu dược liệu cỏ ngọt gắn với Chương trình OCOP

Cao Bằng nhân rộng vùng nguyên liệu dược liệu cỏ ngọt gắn với Chương trình OCOP

LNV - Những năm gần đây, Hợp tác xã (HTX) Thảo Đường Vinh, xã Thạch An đi đầu trong lĩnh vực đưa cây cỏ ngọt (Stevia rebaudiana) vào trồng thử trên địa bàn tỉnh. Đến nay, cây cỏ ngọt đã dần khẳng định là một cây trồng phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế rõ
Đắk Lắk xây dựng Kế hoạch khuyến công năm 2026

Đắk Lắk xây dựng Kế hoạch khuyến công năm 2026

LNV - Sở Công Thương Đắk Lắk vừa có văn bản đề nghị UBND các xã, phường chỉ đạo công tác rà soát và đăng ký kế hoạch khuyến công năm 2026 nhằm giúp cho việc xây dựng, triển khai Kế hoạch khuyến công năm 2026 sát với thực tế và đạt hiệu quả cao.
Đồng Nai tập trung giải pháp đột phá cho công tác khuyến công 6 tháng cuối năm

Đồng Nai tập trung giải pháp đột phá cho công tác khuyến công 6 tháng cuối năm

LNV - Vừa qua, ông Văn Hữu Đồng – Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Đồng Nai đã chủ trì buổi làm việc với Trung tâm Khuyến công và Tư vấn Phát triển Công nghiệp nhằm đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ trong 6 tháng đầu năm 2025, đồng thời định hướng nhiệ
Bước đột phá từ hỗ trợ khuyến công

Bước đột phá từ hỗ trợ khuyến công

LNV - Ngành cơ khí tỉnh Phú Thọ đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ, khẳng định vị thế trên thị trường. Trong đó, nhiều doanh nghiệp ngày càng phát triển, tạo được uý tín, nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ sự hỗ trợ kịp thời từ chương trình khuyến công
Mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách khuyến công

Mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách khuyến công

LNV - Chính phủ ban hành Nghị định số 235/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2012/NĐCP ngày 21/5/2012 về khuyến công. Trong đó, mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách khuyến công. Đặc biệt, Nghị định số 235/2025/NĐ-CP đã bổ sung đ
Giao diện di động