Hà Nội: 25°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 23°C Thừa Thiên Huế

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.

Mặt khác, đây cũng là công cụ để từ đó hình thành phương pháp, bước đi, cách thức xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu của cả nước nói chung và Vĩnh Phúc riêng.

Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 12 về tăng cường lãnh đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Nghị quyết số 40/2022 thông qua Đề án thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025.

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Theo đó, xây dựng nông thôn mới được xác định là nhiệm vụ quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc nói chung với mục tiêu: “Xây dựng nông thôn Vĩnh Phúc giàu - đẹp - văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển theo hướng hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý; xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh; gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; hệ thống chính trị vững mạnh, xã hội ổn định; trật tự xã hội, an ninh quốc phòng được giữ vững; môi trường sinh thái được cải thiện; an sinh xã hội được đảm bảo; đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện, nâng cao; thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn...

Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện, đến nay Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả to lớn và đáng khích lệ.

Kết quả thực hiện chương trình đã làm cho bộ mặt nông thôn Vĩnh Phúc có nhiều đổi mới với hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, đồng bộ; kinh tế nông thôn tăng trưởng khá và chuyển dịch tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.

Đến tháng 3/2024, toàn tỉnh có 34 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 60 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm còn 0,69%; 93% người dân khu vực nông thôn tham gia bảo hiểm y tế; 4 huyện, thành phố (Yên Lạc, Bình Xuyên, Vĩnh Yên, Phúc Yên) được công nhận đạt chuẩn, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%, trong đó, tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đạt 66,09%.

Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chính của chương trình (đến hết năm 2021): Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 50,79 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020 là 0,44%; theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025 là 1,51%.

Bên cạnh những thành tích đạt được thì kết quả thực hiện chương trình còn một số tồn tại, hạn chế như thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn còn thấp so với các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng; hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn chất lượng chưa cao, còn thiếu đồng bộ. Quá trình chuyển đổi cơ cấu, đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ trong phát triển kinh tế nông thôn còn chậm...

Thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XVII: “Xây dựng nông thôn mới nâng cao theo hướng hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, văn hóa, xã hội; xử lý tốt ô nhiễm môi trường; phát huy vai trò tự quản của nhân dân; khôi phục, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của từng địa phương.

Nâng cao một cách rõ nét chất lượng cuộc sống của người dân, chuyển thành quả phát triển kinh tế vào đời sống người dân và xã hội” với mục tiêu “Phấn đấu đến hết năm 2022, toàn bộ các huyện đạt chuẩn nông thôn mới; hết năm 2025 có 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu” thì cần thiết thực hiện có hiệu quả các giải pháp sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai toàn diện các nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, trong đó trọng tâm vào các nội dung nhằm nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, phát huy bản sắc văn hóa đặc trưng của từng địa phương và giải quyết các vấn đề bức xúc, tồn tại, hạn chế trong xây dựng nông thôn mới (môi trường, cảnh quan nông thôn; nước sạch và an toàn thực phẩm; khu vui chơi, thể thao, đọc sách, văn hóa, văn nghệ quần chúng; nếp sống văn hóa; an ninh, trật tự an toàn xã hội...).

Thường xuyên kiểm tra, giám sát thực hiện việc duy trì, giữ vững và nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới ở các địa phương.

Phát huy vai trò, nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng nông thôn mới; tăng cường vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, lấy kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới là một trong những nội dung để kiểm điểm, đánh giá và xếp loại kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp và các sở, ban, ngành hàng năm.

Phát huy vai trò chủ thể của người dân và cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới; tạo điều kiện để người dân và cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Hai là, đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ và cư dân nông thôn, nâng cao chất lượng các phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới, phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2021-2025 do Thủ tướng Chính phủ phát động.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền; các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan thông tin, truyền thông thực hiện tuyên truyền sâu rộng, với nhiều hình thức phù hợp đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân về chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm và khơi dậy tinh thần tự giác, tính chủ động tham gia của người dân, sự quan tâm của toàn xã hội trong công tác xây dựng nông thôn mới.

Chú trọng xây dựng và nhân rộng các mô hình tự quản nhằm phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường, trách nhiệm của cộng đồng cư dân nông thôn, khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Tiếp tục phát động, thực hiện hiệu quả phong trào thi đua “Vĩnh Phúc chung sức xây dựng nông thôn mới ”gắn với cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” trên địa bàn tỉnh; quán triệt tư tưởng “Xây dựng nông thôn mới có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc.

Ba là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ thực hiện chương trình đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, đặc biệt là các cơ chế chính sách đặc thù hỗ trợ các xã xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, hỗ trợ thực hiện các nội dung của chương trình theo hướng nâng cao chất lượng, đi vào chiều sâu và bền vững; thông qua cơ chế, chính sách để phát huy, khuyến khích người dân và cộng đồng chủ động, tích cực đóng góp nguồn lực, tham gia thực hiện chương trình.

Triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách đã ban hành như hỗ trợ tái cơ cấu ngành nông nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; khuyến khích liên kết và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể và hợp tác xã; hỗ trợ đầu tư, xây dựng các nhà máy xử lý, cung cấp nước sạch tập trung cho khu vực nông thôn...

Thực hiện rà soát, điều chỉnh bổ sung hoặc ban hành mới cơ chế chính sách như hỗ trợ phát triển các phong trào thể dục, thể thao, văn hóa, văn nghệ quần chúng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt quy mô hộ gia đình, thu gom và tái chế chất thải hữu cơ, phụ phẩm nông nghiệp, xây dựng cảnh quan nông thôn sáng - xanh - sạch - đẹp, an toàn; cải tạo, chỉnh trang nghĩa trang nhân dân, hỗ trợ di chuyển, tập kết các mộ phần nằm riêng lẻ về nghĩa trang nhân dân tập trung ở các địa phương theo quy hoạch...

Bốn là, tăng cường thực hiện hiệu quả các giải pháp huy động nguồn lực thực hiện chương trình.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp về huy động vốn, bảo đảm đầy đủ, kịp thời theo quy định; căn cứ vào tình hình thực tế, UBND tỉnh tiếp tục cân đối ngân sách tỉnh để ưu tiên bổ sung cho chương trình; cấp huyện, xã phải có trách nhiệm bố trí đầy đủ vốn ngân sách địa phương để thực hiện chương trình theo phân cấp.

Ưu tiên bố trí nguồn vốn cho các xã khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để góp phần thu hẹp khoảng cách về chất lượng các tiêu chí nông thôn mới giữa các vùng trong tỉnh.

Thực hiện lồng ghép hiệu quả nguồn vốn của 3 chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, dự án khác trên địa bàn nông thôn giai đoạn 2021-2025 để hỗ trợ các địa phương hoàn thành các mục tiêu xây dựng nông thôn mới, tránh chồng chéo, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư các nguồn lực.

Thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là bổ sung nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội để ưu tiên hỗ trợ triển khai Chương trình OCOP; tiếp tục khuyến khích cho vay vốn ưu đãi từ nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội và các nguồn vốn khác để bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống; cho vay hỗ trợ thúc đẩy các mô hình khởi nghiệp, sáng tạo ở nông thôn; cho vay tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm...

Tăng cường vận động các tổ chức kinh tế đăng ký hỗ trợ các địa phương (huyện, xã) thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; tuyên truyền, vận động người dân tiếp tục tham gia đóng góp xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới thông minh theo nguyên tắc tự nguyện cho từng dự án, nội dung cụ thể và được HĐND xã thông qua.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong thực hiện chương trình. Các cơ quan chức năng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 do Chính phủ ban hành.

Kiểm tra, giám sát việc công khai, minh bạch trong sử dụng các nguồn lực thực hiện chương trình; có biện pháp phòng ngừa, kịp thời ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, lãng phí, xử lý nghiêm các vi phạm trong quá trình thực hiện.

Thành viên Ban Chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh giai đoạn 2021-2025 được phân công phụ trách các huyện, xã; các sở, ngành được phân công phụ trách tiêu chí nông thôn mới có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các địa phương thực hiện tốt các nội dung của chương trình nhằm đảm bảo tiến độ, mục tiêu đề ra; đồng thời chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh về kết quả, tiến độ thực hiện xây dựng nông thôn mới tại các huyện, xã, tiêu chí được phân công phụ trách.

Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các địa phương trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội các cấp và giám sát của cộng đồng dân cư trong triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới.

Nguyễn Văn Tranh (Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc)

Tin liên quan

Đồng Nai: Phấn đấu có 5 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao theo bộ tiêu chí mới

Đồng Nai: Phấn đấu có 5 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao theo bộ tiêu chí mới

LNV - Dự kiến trong năm 2026, toàn tỉnh Đồng Nai sẽ có ít nhất 5 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao theo bộ tiêu chí mới.
Huyện Thường Tín (Hà Nội): Đón nhận Quyết định đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao

Huyện Thường Tín (Hà Nội): Đón nhận Quyết định đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao

LNV - Sáng ngày 28/6/2025, huyện Thường Tín (Hà Nội) long trọng tổ chức Lễ công bố và đón nhận Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Thường Tín đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2024. Sự kiện không chỉ là niềm vui lớn, mà còn là minh chứng sinh động cho hành trình bền bỉ, sáng tạo, đầy quyết tâm và đồng lòng của cả hệ thống chính trị và Nhân dân địa phương suốt hơn một thập kỷ qua.
Hà Nội: Huyện Thường Tín đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao

Hà Nội: Huyện Thường Tín đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao

LNV - Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 1181/QĐ-TTg ngày 17/6/2025 công nhận huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2024.

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Vĩnh Long: Khởi nghiệp tuổi xế chiều, người đàn ông U80 thành công với sản phẩm OCOP

Vĩnh Long: Khởi nghiệp tuổi xế chiều, người đàn ông U80 thành công với sản phẩm OCOP

OVN – Tuổi xế chiều, thời điểm nhiều người chọn nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già bên gia đình, con cháu, ông Nguyễn Công Trí (SN 1953), ngụ tại tỉnh Bến Tre
Từ trái sim rừng đến đặc sản đạt chất lượng OCOP

Từ trái sim rừng đến đặc sản đạt chất lượng OCOP

OVN - Từ những trái sim rừng mọng chín, chị Đỗ Thị Thu Thảo (xã An Hòa, Gia Lai) đã xây dựng thương hiệu rượu SimMo8, kết hợp giữa tri thức bản địa và công nghệ hiện đại. Không chỉ dừng lại ở một sản phẩm OCOP tiêu biểu, SimMo8 còn kể câu chuyện về ký ức,
Thị trưởng Khu Trung tâm Tài chính London có chuyến thăm cấp cao tới Việt Nam

Thị trưởng Khu Trung tâm Tài chính London có chuyến thăm cấp cao tới Việt Nam

Ngày 15/9 vừa qua, Thị trưởng Khu Trung tâm Tài chính London - ông Alastair King đã có chuyến thăm cấp cao tới Việt Nam. Chuyến thăm do Đại sứ quán Anh tại
Công nhận làng Việt Hải là điểm du lịch cộng đồng

Công nhận làng Việt Hải là điểm du lịch cộng đồng

LNV - UBND TP Hải Phòng vừa chính thức công nhận làng Việt Hải (đặc khu Cát Hải) là Điểm du lịch cộng đồng. Đây được xem là bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng, gắn với định hướng chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.
Người lính năm xưa trở thành nông dân điển hình hôm nay

Người lính năm xưa trở thành nông dân điển hình hôm nay

LNV - Trở về sau những năm tháng quân ngũ, cựu chiến binh Dương Đình Tuấn (xã Quỳnh Văn, Nghệ An) vẫn miệt mài gắn bó với ruộng đồng, chuồng trại. Với sự cần cù và tinh thần học hỏi, ông đã trở thành tấm gương điển hình trong phát triển nông nghiệp, góp p
Giao diện di động