Hà Nội: 20°C Hà Nội
Đà Nẵng: 25°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 27°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 23°C Thừa Thiên Huế

Bảo tồn và phát huy "di sản văn hoá phi vật thể" làng nghề

LNV - Nghề thủ công đã được UNESCO công nhận là “Di sản săn hóa phi vật thể”; với nước ta, nghề thủ công là một di sản văn hóa vô cùng quý báu không chỉ của làng nghề mà của cả dân tộc, di sản ấy cần được bảo tồn và phát huy.


NGHỀ THỦ CÔNG, “VĂN HÓA PHI VẬT THỂ”


Theo Công ước về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO, tại phiên họp thứ 32 tại Paris (Pháp) từ 29 tháng 9 đến 17 tháng 10 năm 2003, “Di sản văn hóa phi vật thể” được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng – cũng như những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan – mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Di sản văn hóa phi vật thể được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác; các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để chúng thích nghi với môi trường, với mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người”.

Theo định nghĩa trên, “Di sản văn hóa phi vật thể” được thể hiện ở những hình thức sau: (i) các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, bao gồm ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể; (ii) nghệ thuật trình diễn; (iii) tập quán xã hội, tín ngưỡng và lễ hội; (iv) tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ; (v) nghề thủ công truyền thống.

Di sản văn hóa phi vật thể gắn liền với người/nhóm người đã sáng tạo ra hoặc lưu giữ và phát huy di sản cho đời sau. Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO năm 2003 đã khẳng định: “Ghi nhận rằng các cộng đồng, đặc biệt là các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân bản địa đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra, bảo vệ, duy trì và tái sinh di sản văn hóa phi vật thể, từ đó làm giàu thêm sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người”.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Lực, trong định nghĩa này có một số yếu quan trọng biểu hiện ý nghĩa và giá trị vốn có của di sản văn hóa phi vật thể, đó là: (i) sự tự công nhận hay sự tự nhận dạng của cộng đồng, nhóm và cá nhân liên quan về di sản văn hóa phi vật thể như một phần di sản văn hóa của họ; (ii) sự tái tạo liên tục của di sản văn hóa phi vật thể như một sự đáp lại đối với sự phát triển lịch sử và xã hội của các cộng đồng và các nhóm liên quan; (iii) sự kết nối sâu sắc của di sản liên quan với bản sắc riêng của những người sáng tạo ra nó và người lưu giữ nó; (iv) điều kiện của “tính xác thực”, là một yêu cầu ẩn tàng của di sản văn hóa phi vật thể; và (v) mối tương quan sâu sắc của di sản văn hóa phi vật thể với quyền con người (Theo Tiểu luận về Giá trị nghề thủ công, tr 125).

Ở nước ta, Luật Di sản văn hóa (2001, 2009, 2013) đã có định nghĩa về Di sản văn hóa phi vật thể, đó là “sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác” (Khoản 1, Điều 4 Luật Di sản văn hóa 2001).

Như vậy, “nghề thủ công” hoặc “bí quyết về nghề thủ công”, cũng tức là kỹ năng, tri thức, sự điêu luyện, tinh xảo của người sáng tạo hoặc lưu giữ nghề thủ công trong làng nghề nước ta đã được coi là “di sản văn hóa phi vật thể”. Di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công của nước ta cần được bảo tồn với ý nghĩa như sau: (i) mang bản sắc của dân tộc, của vùng miền, thậm chí của từng nghệ nhân, làm ra nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đóng góp có ý nghĩa vào kho tàng văn hóa của dân tộc và sự phát triển của đất nước; (ii) được lưu truyền từ hàng trăm, hàng nghìn năm nay ở khắp nước, phát huy truyền thống tốt đẹp của nghề thủ công nước ta; (iii) được đổi mới, sáng tạo theo nhu cầu của thị trường, bắt kịp sự tiến bộ của văn minh, khoa học kỹ thuật tiến bộ; (iv) mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế, đóng góp vào kho tàng nghề thủ công thế giới, nhất là trong xu hướng sản xuất xanh thân thiện với môi trường ngày nay.

Xin nhấn mạnh: chúng ta bàn chuyện di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công cũng là bàn về một nội dung của nền văn hóa nước nhà, hồn cốt của dân tộc, những gì là tinh hoa, tinh túy nhất đã được “chưng kết”, “kết tinh”, “hun đúc” thành một bộ phận có bản sắc trong giá trị văn hóa vĩnh cửu của dân tộc. Mục tiêu của việc bảo tồn nghề thủ công truyền thống, cũng như các dạng di sản văn hóa phi vật thể khác, là đảm bảo rằng kiến thức và kỹ năng liên quan đến nghề thủ công truyền thống được truyền lại cho các thế hệ tương lai để các nghề thủ công có thể tiếp tục được thực hành trong sản xuất trong cộng đồng của họ, mang lại sinh kế cho người làm và phản ánh sáng tạo. Nghề thủ công truyền thống của một vùng nhất định là một phần không thể thiếu của di sản văn hóa địa phương cũng như nghề thủ công truyền thống của một nhóm dân tộc hoặc quốc gia nhất định, là một phần không thể tách rời của di sản dân tộc và quốc gia.

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN

Theo các nhà nghiên cứu, khái niệm “bảo tồn” di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các hoạt động như: trùng tu; tu bổ; tôn tạo; thực hành; bảo đảm tính xác thực của các di sản văn hóa phi vật thể. “Bảo tồn” gắn với “Phát huy giá trị” cũng có nghĩa là các hoạt động duy trì, phục hồi, thực hành, truyền dạy các loại hình văn hóa phi vật thể được đưa vào khai thác, phục vụ phát triển du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của người dân và quảng bá các di sản văn hóa của Việt Nam ra thế giới. Cũng có thể nói: đó là những hoạt động, biện pháp được triển khai trong thực tế để khai thác vốn văn hoá phi vật thể nhằm hiện thực hoá tiềm năng, giá trị của các di sản văn hoá trong việc tạo ra giá trị kinh tế, góp phần làm phong phú hoạt động kinh tế-xã hội của đất nước.

Điều 30 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam,... tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân”. Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8/9/2016 phê duyệt “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” cũng đã xác định “du lịch làng nghề truyền thống” là một ngành kinh tế dịch vụ quan trọng trong công nghiệp văn hóa cần được chú trọng phát triển.

Dưới đây, xin bàn một số vấn đề chủ yếu trong việc bảo tồn và phát huy nghề thủ công - di sản văn hóa phi vật thể của làng nghề nước ta để cùng nghiên cứu, trao đổi và thực hiện.

Một là, nâng cao hơn nữa nhận thức của xã hội, trước hết là trong các làng nghề truyền thống về giá trị của nghề thủ công và ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong việc khai thác vốn vốn di sản văn hoá một cách vững chắc, bởi chính cộng đồng vừa là chủ thể của những sáng tạo văn hoá, đồng thời, vừa là người thụ hưởng và đóng góp công sức vào quá trình bảo tồn và phát triển văn hóa phi vật thể. Vai trò của cộng đồng làng nghề cần được thể hiện từ việc nâng cao nhận thức đến tham gia vào việc quản lý và phát huy các nghề truyền thống; tham gia giám sát, phản biện xã hội nhằm bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá gắn với phát triển kinh tế du lịch và công nghiệp văn hoá nước ta; quan trọng nhất là lợi ích của người dân trong làng có di sản được ghi danh được thể hiện rõ gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ của họ đối với việc bảo vệ di sản đó.

Hai là, thực hiện việc kiểm kê, lập danh mục các nghề cụ thể, phân loại các nghề đang có cơ hội, triển vọng phát triển, các nghề có nguy cơ mai một, thất truyền. Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, cả nước hiện có 129 nghề truyền thống có nguy cơ mai một, thất truyền (trong đó có 49 nghề truyền thống đã được công nhận) và 208 làng nghề truyền thống hoạt động cầm cừng, không ổn định, có nguy cơ mai một (trong đó có 171 làng nghề truyền thống đã được công nhận). Đối với các nghề có nguy cơ mai một, thất truyền, cần duy trì các hộ hoặc nhóm hộ nghề, nghệ nhân hoạt động trình diễn nhằm lưu giữ, truyền nghề và phục vụ nhu cầu du lịch văn hóa. Chú trọng ghi chép các chi tiết kỹ thuật về vật liệu, công cụ và phương pháp làm việc chính xác. Sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ứng dụng công nghệ chuyển đổi số để số hóa các quy trình, công nghệ, bí quyết chế tác sản phẩm thủ công của các nghệ nhân, nhằm lưu giữ được lâu dài, cũng tiện lợi trong các cuộc nghiên cứu, học tập, truyền nghề, giao lưu, trình diễn.

Ba là, đối với các nghề đang có triển vọng phát triển, thực hiện các biện pháp bảo tồn, phát triển kết hợp với phát triển du lịch, các nghề sản xuất những sản phẩm có giá trị kinh tế, hàm lượng văn hóa cao, có tiềm năng xuất khẩu lớn (như chế biến nông lâm thủy sản, mây tre đan, gốm sứ, thêu, dệt, chạm khảm, sơn mài, kim hoàn). Thường xuyên nâng cao trình độ, kiến thức cho nghệ nhân hiện có để họ nắm bắt kịp thời những kiến thức mới, vừa để bảo tồn kỹ năng nghề truyền thống, vừa để phát huy kỹ năng nghề theo nhu cầu của thị trường. Có cơ chế, chính sách khuyến khích các nghệ nhân, thợ giỏi tham gia đào tạo nghề. Khuyến khích thành lập các câu lạc bộ để trao đổi kinh nghiệm nâng cao tay nghề cho nghệ nhân. Tổ chức các cuộc thi tay nghề, phong tặng danh hiệu nghệ nhân, thợ giỏi đúng thực chất.

Bốn là, hình thành hệ thống cơ chế, chính sách về bảo tồn và phát triển nghề thủ công - di sản văn hóa phi vật thể nước ta. Sửa đổi và bổ sung Luật Di sản văn hóa 2001 (bổ sung năm 2009) trên cơ sở tổng kết thực tiễn, mở rộng phạm vi điều chỉnh đến tất cả các đối tượng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, chú trọng nghề thủ công. Quán triệt và thực hiện các quy định trong các quy ước quốc tế và luật pháp Việt Nam, nhất là vấn đề bảo vệ di sản văn hoá, quyền và lợi ích của chủ thể văn hoá, các cộng đồng, bình đẳng văn hoá và bản quyền. Xây dựng quy tắc đạo đức trong việc phát huy di sản vào kinh tế, xã hội. Cần nhấn mạnh: bảo tồn nhằm mục đích bảo tồn tri thức như một giá trị của bản thân nghề thủ công; vì vậy đòi hỏi sự đầu tư của các nguồn lực và trợ cấp của Nhà nước. Xây dựng mô hình tổ chức thể hiện vai trò tự quản của cộng đồng làng nghề trong quản lý di sản văn hóa nghề thủ công, bảo đảm các hoạt động được triển khai quy củ, hiệu quả.

Năm là, xây dựng các trung tâm bảo tồn và phát triển các giá trị của nghề, làng nghề. Theo “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030” được Chính phủ phê duyệt ngày 7/7/2022, ưu tiên xây dựng các trung tâm bảo tồn và phát triển các giá trị của một số nghề, làng nghề như: nghề gốm sứ, sơn mài, dâu tằm tơ; nghề thủ công truyền thống của đồng bào dân tộc ít người; giới thiệu và trình diễn các nghề truyền thống nổi bật của một số địa phương; v.v... Theo định hướng trên, cần khuyến khích, hỗ trợ phục hồi, tôn tạo các di tích, xây dựng các bảo tàng làng nghề, khu trình diễn, không gian trưng bày, giới thiệu quảng bá sản phẩm của nghề và làng nghề gắn với du lịch làng nghề.

Xin nói thêm về các bảo tàng. Hội đồng Bảo tàng quốc tế (ICOM) đã công bố định nghĩa mới về bảo tàng tại hội nghị toàn thể lần thứ 26 diễn ra ở Praha (Séc) ngày 25/8/2022, theo đó “bảo tàng” là một "tổ chức thường trực và phi lợi nhuận phục vụ lợi ích xã hội, đồng thời là nơi nghiên cứu, thu thập, bảo tồn, diễn giải và trưng bày các di sản vật thể và phi vật thể". Với định nghĩa mới, ICOM nhấn mạnh bảo tàng là nơi rộng mở với công chúng, có tính chất dễ tiếp cận và hòa nhập, giúp thúc đẩy sự đa dạng và bền vững; các bảo tàng hoạt động và tương tác với công chúng theo chuẩn mực đạo đức, đảm bảo chuyên nghiệp và bao gồm sự tham gia của cộng đồng, mang đến những trải nghiệm đa dạng cho giáo dục, việc thưởng thức, thẩm định và chia sẻ kiến thức. Như vậy, bảo tàng có ba chức năng cơ bản là “nghiên cứu”, “giáo dục” và “thưởng thức”.

Trên cơ sở nhận thức mới về bảo tàng, do di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống là “di sản sống” nên cần phải có các “bảo tàng sống”, cũng tức là có sự tương tác rộng rãi với cuộc sống dương đại. Tại các loại bảo tàng này, du khách có thể nhìn thấy một “làng nghề”, khu tái định cư, khu di tích lịch sử hoặc nơi trưng bày các đồ thủ công truyền thống, được xem các thợ thủ công tái hiện các quy trình kỹ thuật truyền thống. Tại các bảo tàng, có nơi diễn giải quá trình phát triển nghề gốm của nước ta; những kỹ năng riêng biệt của nghề tại các địa phương, v.v... Tại đây, các câu chuyện về nghề thủ công truyền thống và làng nghề sẽ được diễn giải, minh họa một cách nhẹ nhàng, linh hoạt dễ cảm nhận; hiệu quả của việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghề thủ công cũng được nhìn nhận rõ rệt.

Trên thế giới, có thể kể đến một số bảo tàng về nghề thủ công nổi tiếng được xây dựng từ hàng chục năm nay, như: Bảo tàng Nghề thủ công đương đại (Hoa Kỳ), Bảo tàng Nghệ thuật thủ công Philadelphia (Hoa Kỳ), Bảo tàng và Thư viện Nghề thủ công Manitoba (Canada), Bảo tàng Nghệ thuật và Nghề thủ công Ditchling (Vương quốc Anh), Bảo tàng Các nghề thủ công dân gian (Nhật Bản), Bảo tàng Quốc gia nghệ thuật hiện đại (Nhật Bản), Bảo tàng Dân gian (Hàn Quốc), Bảo tàng Nghề thủ công (Ấn Độ), v.v…

Ở nước ta, theo Luật Di sản Văn hóa, bảo tàng có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người, môi trường sống của con người. Các nghề thủ công truyền thống được giới thiệu trong trưng bày và các chương trình trình diễn ở khá nhiều bảo tàng cấp quốc gia và địa phương. Cũng đã có một số bảo tàng tư nhân về nghề thủ công khá công phu ở một số địa phương. Trong đó, phải kể đến “Trung tâm Tinh hoa làng nghề Việt” được xây dựng ở Bát Tràng (Hà Nội) do kiến trúc sư Hoàng Thúc Hào thiết kế với nhiều ý tưởng mới lạ, độc đáo. Đây là một quần thể kiến trúc nằm trong khu đất rộng 3.700 m², do bà Hà Thị Vinh, Giám đốc Công ty gốm Quang Vinh đã dành tâm huyết xây dựng nên.
Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là cho đến nay, nước ta chưa có một bảo tàng cỡ quốc gia về nghề thủ công (như ở nhiều nước kể trên). Nhấn mạnh điều này với hy vọng sớm có một bảo tàng như thế, xứng tầm với giá trị của nghề thủ công truyền thống Việt Nam. Thành phố Hà Nội cũng nên có một bảo tàng tương xứng về nghề thủ công, vì đây là nơi có nhiều nghề thủ công nhất nước. Cần khuyến khích xây dựng các bảo tàng chuyên sâu về nghề thủ công của làng nghề truyền thống và của địa phương. Khuyến khích thành lập tiếp các bảo tàng tư nhân về nghề thủ công.

Tóm lại, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghề thủ công nước ta là một nhiệm vụ rất quan trọng của các làng nghề, của các cơ quan nhà nước và của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam. Đương nhiên, đây là những việc cần có nhận thức mới sâu sắc cùng những cố gắng trong tổ chức thực hiện. Bài này nêu lên một số kiến nghị với mong muốn di sản quý báu này ngày càng được làng nghề chúng ta phát huy rạng rỡ, xứng đáng trong kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc ta.
CGCC Vũ Quốc Tuấn Chủ tịch Hội đồng Tư vấn-Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.
Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.
Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Tin khác

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

LNV - Ðại hội XIII của Ðảng xác định rõ: Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

LNV - Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm (Hà Nội) có hai nghề truyền thống là dát vàng bạc quì và may đồ da đã có từ lâu đời. Làm vàng bạc quì là một nghề truyền thống, chế biến vàng thật, bạc thật thành bột vàng, bạc (gọi là quì) bằng phương pháp sản xuất thủ công lâu đời, độc đáo.
Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình số 04-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVII về "Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành Nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân giai đoạn 2021-2025".
Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

LNV - Theo ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ NN-PTNT, Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ nhiều năm, tuy nhiên có thời điểm chúng ta sản xuất đại trà, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Vì vậy, thời gian tới phải nâng tầm hơn nữa cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

LNV - Đẩy mạnh việc tuyên truyền làm cho doanh nghiệp, hộ sản xuất, hộ kinh doanh dịch vụ hiểu và quan tâm về maketing và bán hàng online
Nghề và Làng nghề truyền thống

Nghề và Làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề, làng có nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo ra nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em; giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Kẹo dừa Bến Tre - Đặc sản truyền thống

Kẹo dừa Bến Tre - Đặc sản truyền thống

LNV - Bến Tre, xứ dừa xanh mướt của miền Tây Nam Bộ, không chỉ quyến rũ bởi cảnh sắc hữu tình mà còn nổi danh với nghề làm kẹo dừa truyền thống. Từng chiếc kẹo dừa thơm béo, ngọt ngào là kết tinh của thiên nhiên, văn hóa và lòng nhiệt huyết của người dân nơi đây.
Làng nghề gốm Gia Thuỷ hơn 60 năm đỏ lửa

Làng nghề gốm Gia Thuỷ hơn 60 năm đỏ lửa

LNV - Với tuổi đời hơn 60 năm, làng nghề gốm Gia Thủy ở Ninh Bình kế thừa những tinh hoa của nghệ thuật tạo hình, mang đến cho người tiêu dùng những tác phẩm gốm đậm đà bản sắc văn hóa Việt.
Quảng Ngãi: Xây dựng Nghị quyết quy định mức chi các hoạt động khuyến công

Quảng Ngãi: Xây dựng Nghị quyết quy định mức chi các hoạt động khuyến công

LNV - UBND tỉnh Quảng Ngãi vừa có tờ trình gửi Thường trực HĐND tỉnh về đề nghị xem xét xây dựng Nghị quyết quy định mức chi cụ thể cho các hoạt động khuyến công địa phương trên địa bàn tỉnh.
Huyện Quốc Oai (Hà Nội): Xã Đồng Quang coi trọng công tác xã hội, giữ vững an ninh trật tự

Huyện Quốc Oai (Hà Nội): Xã Đồng Quang coi trọng công tác xã hội, giữ vững an ninh trật tự

LNV - Chủ tịch UBND xã Đồng Quang ông Vương Duy Hùng cho biết, từ đầu năm đến nay công tác chỉ đạo điều hành của UBND xã được thực hiện đồng bộ trên mọi mặt, chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm đối với phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống nhân dân. Công tác an sinh xã hội luôn đi sâu vào từng đối tượng, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tệ nạn xã hội luôn chủ động bám sát không để đột xuất bất ngờ phát sinh điểm nóng.
Hành trình từ bản đến thế giới của hợp tác xã Hoa Tiến

Hành trình từ bản đến thế giới của hợp tác xã Hoa Tiến

LNV - Hợp tác xã (HTX) Hoa Tiến, nằm tại bản Hoa Tiến, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An, là biểu tượng của sự sáng tạo và nỗ lực bền bỉ trong việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa thổ cẩm truyền thống của người Thái. Được thành lập từ năm 2010, HTX không chỉ bảo tồn nghề dệt thổ cẩm lâu đời mà còn tạo nên một câu chuyện thành công, đưa các sản phẩm thủ công tinh xảo vươn ra thế giới.
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động