Hà Nội: 29°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 24°C Thừa Thiên Huế

Xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề để phát triển du lịch tại tỉnh Hưng Yên

LNV - Những năm qua, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã khẳng định vai trò tích cực, quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập không nhỏ cho người dân. Bởi vậy DNLN có bước phát triển tiến bộ trở thành nhân tố nòng cốt thúc đẩy nhiều làng nghề đổi mới và phát triển mạnh.

Thực trạng và tiềm năng phát triển sản phẩm du lịch làng nghề tỉnh Hưng Yên

Hưng Yên nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, được biết đến là vùng đất giàu truyền thống văn hóa với gần 400 lễ hội lớn nhỏ và trên 1.700 di tích các loại, trong đó có 169 di tích, cụm di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Hưng Yên nằm trong cái nôi của nền văn minh nông nghiệp lúa nước châu thổ Bắc Bộ của người Việt từ hàng nghìn năm trước, nhiều nghề thủ công truyền thống của Hưng Yên đã ra đời và phát triển. Trong đó, có những làng nghề đã tồn tại với lịch sử lâu đời, có làng nghề mới chỉ giữ nghề khoảng vài ba chục năm nay song hầu hết đều có tiềm năng trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách. Những làng nghề nổi tiếng của Hưng Yên như: Hương xạ Cao Thôn, xã Bảo Khê, TP. Hưng Yên; Tương Bần, thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mỹ Hào; Trồng và chế biến dược liệu Nghĩa Trai, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm; Nấu rượu Trương Xá, xã Toàn Thắng, huyện Kim Động; Làm đồ chơi Trung thu Ông Hảo, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ; chạm bạc Huệ Lai, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi… Đấy là chưa tính đến Hưng Yên có khoảng 400 lễ hội trong năm với 1200 di tích, cụm di tích, trong đó, 161 di tích, cụm di tích quốc gia đưa Hưng Yên trở thành địa phương đứng thứ 3 toàn quốc về số lượng di tích, cụm di tích được xếp hạng quốc gia.

Tiềm năng lớn song du lịch Hưng Yên hiện chưa phát triển tương xứng. Tỉ trọng khách trong ngày chiếm gần 70% tổng lượng khách. Khách nội địa, chiếm hơn 90% lượng du khách, đến Hưng Yên chủ yếu với mục đích công tác, thương mại, làm ăn… Những năm gần đây khách du lịch tâm linh đến nhiều vào mùa lễ hội, tham dự các lễ hội truyền thống, lễ hội dân gian vùng Phố Hiến và một số hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí được tổ chức quy mô lớn tại Khu đô thị Ecopark (Văn Giang)... Nhưng thời gian lưu trú của khách ngắn, mức chi tiêu thấp. Lượng khách du lịch tham quan làng nghề chiếm tỷ lệ rất ít, chủ yếu là tiện thể du lịch tâm linh thì đáo qua chứ chưa có mục đích ban đầu là du lịch làng nghề.

Sản phẩm du lịch của Hưng Yên vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên sẵn có, ít được đầu tư nghiên cứu. Nguồn nhân lực cho du lịch địa phương còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Khách du lịch đến Hưng Yên còn thiếu thông tin và tuyến điểm khám phá. Các điểm di tích chỉ nửa ngày là xong, muốn đi vui chơi, mua sắm nhưng tìm mỏi mắt cũng không có được điểm đáp ứng nhu cầu du khách. Sản phẩm du lịch nghèo nàn. Không có việc gì để chơi, để trải nghiệm, để tiêu tốn thời gian. Dịch vụ về đêm gần như không có gì, chẳng biết đi chơi đâu...

Theo Nghị quyết số 133/NQ-HĐND ngày 8/12/2017 của Hội đồng Nhân dân tỉnh Hưng Yên về Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hưng Yên đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 (Quy hoạch), một trong những hướng phát triển ưu tiên của Hưng Yên là du lịch tâm linh và du lịch văn hóa (trong đó có du lịch làng nghề). Theo Quy hoạch, năm 2020, Hưng Yên đón khoảng 1,5 - 2 triệu lượt khách, trong đó có 25 - 30 nghìn lượt khách quốc tế. Về nguồn thu từ du lịch, phấn đấu đến năm 2020 đạt 1.300 - 2.000 tỉ đồng/năm. Đến năm 2025 đạt 3.100 - 4.000 tỉ đồng/năm...

Hiện nay sản phẩm làng nghề của Hưng Yên chủ yếu là hàng hóa, chưa phải sản phẩm du lịch đúng nghĩa. Theo báo Hưng Yên điện tử ngày 10/1/2019: “Năm 2018, toàn tỉnh có 54 làng nghề hoạt động. Các làng nghề hoạt động theo từng nhóm nghề khác nhau, với hơn 11,3 nghìn cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm cho gần 33 nghìn lao động. Năm 2018, doanh thu của các làng nghề đạt trên 7,2 nghìn tỷ đồng. Một số làng nghề hoạt động hiệu quả như: Làng nghề hoa, cây cảnh Xuân Quan (Văn Giang); làng nghề mộc Thụy Lân, xã Thanh Long (Yên Mỹ); làng nghề truyền thống đúc đồng Lộng Thượng, xã Đại Đồng (Văn Lâm)... Việc phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn đã khai thác tốt hạ tầng cơ sở, tận dụng được nguồn lao động, nguyên liệu tại chỗ của địa phương, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống người dân nông thôn”.

Doanh nghiệp làng nghề (DNLN) hình thành và phát triển trong các làng nghề. Những năm qua, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã khẳng định vai trò tích cực, quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập không nhỏ cho người dân. Bởi vậy DNLN có bước phát triển tiến bộ trở thành nhân tố nòng cốt thúc đẩy nhiều làng nghề đổi mới và phát triển mạnh.

Những năm gần đây, các DNLN đã đi đầu trong việc nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu thị trường và năng động đổi mới phương thức sản xuất, nhất là đưa máy móc, phương tiện kỹ thuật vào sản xuất tại các làng nghề. Nhờ vậy nhiều làng nghề không chỉ “hồi sinh” mà còn phát triển mạnh như một số làng nghề: chạm bạc Huệ Lai, xã Phù Ủng (Ân Thi); tương Bần, thị trấn Bần Yên Nhân (Mỹ Hào); đúc đồng Lộng Thượng, xã Đại Đồng, tái chế nhựa Minh Khai, thị trấn Như Quỳnh; dược liệu Nghĩa Trai, xã Tân Quang (Văn Lâm); mộc dân dụng, mỹ nghệ Thuỵ Lân, xã Thanh Long (Yên Mỹ)… Điển hình là các DNLN ở làng gốm sứ Xuân Quan đã tiên phong thay thế lò bầu đốt than bằng lò hộp nung gas, đồng thời chuyển từ sản xuất sản phẩm sứ phục vụ xây dựng sang gốm sứ mỹ nghệ phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Với hơn 20 doanh nghiệp và 1 HTX làm nòng cốt, làng nghề chạm bạc Huệ Lai (Ân Thi) đã phát triển năng động, sản phẩm có mẫu mã phong phú, phù hợp thị hiếu tạo được thương hiệu trên thị trường và được tiêu thụ 80% ở các tỉnh trong nam, ngoài bắc, Trung Quốc và Campuchia. Có thể khẳng định các DNLN đóng vai trò quan trọng tạo nên sự phát triển mới về chất, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng chủng loại, mẫu mã kiểu dáng sản phẩm cho các làng nghề. Các sản phẩm của DNLN trên địa bàn tỉnh khá đa dạng và đã có thị trường tại địa phương, trong nước và một phần xuất khẩu như: chế biến lương thực, thực phẩm; sửa chữa cơ khí, may da, thuộc da, chế biến gỗ, tái chế nhựa, đúc đồng, chì, nhôm; sản xuất kinh doanh vàng, bạc… Nhờ vậy DNLN đã góp phần quan trọng đưa tổng giá trị sản xuất của các làng nghề đã vượt qua mốc 1 nghìn tỷ đồng, đóng góp gần 20% vào tổng giá trị sản xuất TTCN và ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh. Trong quá trình phát triển công nghiệp nông thôn, DNLN luôn có vai trò quan trọng, góp phần khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên tại địa phương, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho dân cư khu vực nông thôn, thu hút vốn nhàn rỗi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.

Tuy nhiên do hoạt động sản xuất, kinh doanh gắn với làng nghề, các DNLN cũng đang phải vượt qua những khó khăn, tồn tại chung ở các làng nghề để phát triển. Trước hết, DNLN chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc siêu nhỏ tuy có tốc độ phát triển nhanh song điểm xuất phát thấp nên chiếm tỷ lệ nhỏ trong các hình thức sản xuất, kinh doanh tại làng nghề. Hiện nay các làng nghề, DNLN phát triển còn khá manh mún, sức cạnh tranh yếu bởi hàm lượng chất xám trong sản phẩm hàng hóa chưa cao, tính cạnh tranh kém, phần nhiều đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại địa phương. Tồn tại lớn nhất là hầu hết DNLN có quy mô nhỏ, thiếu tiềm lực về tài chính, vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động ít. Thiếu vốn khiến cho nhiều cơ sở không thể mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất của DNLN còn khá khiêm tốn, sản xuất thủ công là chủ yếu, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm đơn điệu, kém phong phú. Không chỉ vậy, nhiều sản phẩm chưa xây dựng được thương hiệu, từ đó dẫn đến tính cạnh tranh của sản phẩm không cao. Ngoài ra, trình độ quản lý của các DNLN còn nhiều hạn chế, quen làm ăn kiểu nhỏ lẻ, phổ biến và hộ gia đình. Việc liên kết sản xuất chưa được quan tâm, lao động qua đào tạo rất ít, chưa quen tác phong công nghiệp, chậm thích ứng với thị trường... khiến nhiều DNLN giảm sút về quy mô và năng lực sản xuất, hoạt động sản xuất cầm chừng... Hạn chế kể đến là nhận thức về tầm quan trọng của kênh phân phối sản phẩm chưa cao, chưa chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu. Tiếp cận thông tin thị trường cũng hạn chế, nhiều cơ sở quyết định sản xuất kinh doanh theo kinh nghiệm và cảm tính nên hiệu quả chưa cao. Đặc biệt là trình độ chuyên môn, kỹ thuật của lao động DNLN thấp hơn nhiều so với lao động ở các doanh nghiệp công nghiệp.

Phát triển thương hiệu sản phẩm truyền thống - Nâng cấp từ “đòn bẩy” OCOP

Đến nay, nhiều sản phẩm nông nghiệp, làng nghề của tỉnh Hưng Yên đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể như gà Đông Tảo, chuối tiêu hồng, nghệ Chí Tân (Khoái Châu), hoa cây cảnh Văn Giang, nhãn lồng, sản phẩm mật ong hoa nhãn (thành phố Hưng Yên), vải lai chín sớm Phù Cừ, rượu Lạc Đạo (Văn Lâm), chạm bạc Huệ Lai (Ân Thi)..., qua đó giúp kích cầu tiêu thụ sản phẩm cho các nhà nông.

Để nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, những năm qua, ngành chức năng, các địa phương cùng nông dân tỉnh Hưng Yên đã chung sức xây dựng, phát huy nhãn hiệu, thương hiệu cho nông sản của tỉnh. Một số nông sản của tỉnh có sức cạnh tranh tốt trên thị trường, ngày càng khẳng định uy tín với người tiêu dùng, qua đó tạo đà cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển.

Nhiều sản phẩm nông nghiệp, làng nghề của tỉnh Hưng Yên đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận chứng nhận nhãn hiệu tập thể như gà Đông Tảo, chuối tiêu hồng, nghệ Chí Tân (Khoái Châu), hoa cây cảnh Văn Giang, nhãn lồng, sản phẩm mật ong hoa nhãn (thành phố Hưng Yên), vải lai chín sớm Phù Cừ, rượu Lạc Đạo (Văn Lâm), chạm bạc Huệ Lai (Ân Thi)...

Việc cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận nông sản đã giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên, của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó, đồng thời tạo cơ sở pháp lý giúp các hộ trồng trọt, chăn nuôi, kinh doanh yên tâm hơn trong sản xuất, bảo tồn, nhân giống, đầu tư kinh doanh, tạo sự đồng nhất và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Năm 2019, Hưng Yên sẽ thực hiện tiêu chuẩn hóa các sản phẩm trồng trọt, với 19 sản phẩm đặc trưng của tỉnh; trong đó có nhãn lồng, vải lai chín sớm Phù Cừ, nghệ vàng Khoái Châu, quất cảnh...

Hưng Yên sẽ tiêu chuẩn hóa các sản phẩm đặc trưng

Tỉnh Hưng Yên đã xây dựng đề án "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP) giai đoạn 2018 - 2020, nhằm phát triển các hình thức sản xuất vừa và nhỏ có lợi thế, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Qua đó, góp phần thúc đẩy kinh tế nông thôn theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị.

Trong năm 2019, tỉnh Hưng Yên đã thực hiện tiêu chuẩn hóa các sản phẩm trồng trọt, với 19 sản phẩm đặc trưng của tỉnh; trong đó có nhãn lồng, vải lai chín sớm Phù Cừ, nghệ vàng Khoái Châu, quất cảnh và cây cảnh Văn Giang, nếp thơm Hưng Yên... Trong số này, phấn đấu có 2 sản phẩm đạt 3 sao trở lên, 13 sản phẩm đạt 4 sao và 4 sản phẩm đạt 5 sao.

Về các sản phẩm chăn nuôi thủy sản, năm 2019 Hưng Yên sẽ tiêu chuẩn hóa 7 sản phẩm tham gia Chương trình OCOP, bao gồm: Mật ong hoa nhãn, gà Đông Tảo, lợn thịt, bò thịt, sữa tươi, vịt thịt, cá chép lai. Trong đó phấn đấu có 3 sản phẩm đạt 3 sao, 2 sản phẩm đạt 4 sao, 2 sản phẩm đạt 5 sao.

Tỉnh cũng phát triển 15 sản phẩm sơ chế, chế biến như: Tương Bần, tinh bột nghệ Chí Tân, long nhãn Hưng Yên, hương trầm Bảo Khê, rượu Trương Xá và Lạc Đạo, bánh răng bừa Phụng Công, bánh cuốn Mễ Sở, cơm nắm Lạc Đạo... Trong số 16 sản phẩm dự kiến năm 2019 sẽ có 10 sản phẩm đạt tiêu chuẩn 3 sao, 3 sản phẩm đạt 4 sao, 2 sản phẩm đạt 5 sao.

Về hàng thủ công mỹ nghệ, lưu niệm, nội thất có 12 sản phẩm được tiêu chuẩn hóa điển hình như: đúc đồng Lộng Thượng, chạm bạc Phù Ủng; đồ gỗ Mỹ nghệ dân dụng Hòa Phong, đan đó rọ Thủ Sỹ.... Dự kiến có 7 sản phẩm đạt 3 sao, 4 sản phẩm đạt 4 sao, 1 sản phẩm đạt 5 sao.

Cùng với tiêu chuẩn hóa các sản phẩm trên, tỉnh Hưng Yên cũng phát triển sản phẩm mô hình du lịch cộng đồng tại khu di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt Phố Hiến, khu di tích lịch sử đền Đa Hòa Dạ Trạch, làng nghề đúc đồng Lộng Thượng, làng Việt cổ Đại Đồng, di tích chùa Nôm... Giai đoạn 2021 - 2025 sẽ tiêu chuẩn hóa sản phẩm mô hình du lịch cộng đồng phấn đấu đạt 5 sao.

Năm 2019, hệ thống truy xuất nguồn gốc Hy.check.net.vn với ứng dụng CheckVN đã được ra mắt và bắt đầu vận hành tại Hưng Yên. Ứng dụng công nghệ CheckVN sẽ đem đến nhiều lợi ích trong quản lý chất lượng, phát triển thương hiệu và mở rộng thị trường cho các sản phẩm nông lâm thủy sản của Hưng Yên nói chung và cho các sản phẩm được bảo hộ sở hữu trí tuệ nói riêng.

Năm 2020, Hưng Yên chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ và tăng công suất các cơ sở đã có nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ bảo quản sau thu hoạch đối với sản phẩm chăn nuôi và trồng trọt để nâng chất lượng và kéo dài thời gian sử dụng; hướng tập trung phát triển sản phẩm sạch gắn với công nghiệp chế biến ở vùng sản xuất tập trung, xây dựng thương hiệu, cung cấp sản phẩm cho các siêu thị, chợ đầu mối và doanh nghiệp xuất khẩu.

Tỉnh cũng có kế hoạch xây dựng chiến lược phát triển và thương mại hóa các sản phẩm chủ lực, phát triển sản phẩm dịch vụ OCOP và hệ thống quản lý chất lượng. Các sản phẩm được sản xuất và sử dụng nguyên liệu có gia tăng giá trị, không ảnh hưởng đến môi trường; hướng tới các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, khuyến khích các sản phẩm đạt tiêu chuẩn Globan Gap, Organic, GMP... Mặt khác, Hưng Yên tích cực quảng bá, tiếp thị sản phẩm, tổ chức các sự kiện xúc tiến thương mại.

Theo Sở Khoa học và Công nghệ, toàn tỉnh hiện có hơn 20 sản phẩm đặc thù, nổi tiếng được xây dựng thương hiệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ, gồm: Nhãn lồng Hưng Yên, quất cảnh Văn Giang, tương Bần, chuối tiêu hồng Khoái Châu, gà Đông Tảo, vải lai chín sớm Phù Cừ, mật ong hoa nhãn, chạm bạc Huệ Lai, rượu Lạc Đạo, rượu Trương Xá, cam Quảng Châu, cam Văn Giang, nghệ Chí Tân, cam Đồng Thanh, đúc đồng Lộng Thượng, hoa cây cảnh Xuân Quan, hương Cao Thôn, Long nhãn Hưng Yên, cam Hưng Yên, bánh tẻ Phụng Công...

Sở Công thương tỉnh Hưng Yên

Tin liên quan

Tin mới hơn

Phát huy tiềm năng, thế mạnh ngành thủ công mỹ nghệ trong phát triển du lịch Hà Nội

Phát huy tiềm năng, thế mạnh ngành thủ công mỹ nghệ trong phát triển du lịch Hà Nội

LNV - Hà Nội vừa là một thủ đô của các ngành nghề thủ công mỹ nghệ đặc sắc, vừa là trung tâm du lịch lớn của đất nước.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị thẩm mỹ, sáng tạo

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị thẩm mỹ, sáng tạo

LNV - Các nghệ nhân không chỉ gìn giữ bản sắc truyền thống, mà còn tạo ra các dòng sản phẩm công mỹ nghệ mang tính nghệ thuật cao, có khả năng tiếp cận thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ ngày càng đa dạng của người tiêu dùng toàn cầu.
Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...

Tin khác

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.
Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Làng nghề Báo Đáp giữ lửa nghề đèn ông sao

Làng nghề Báo Đáp giữ lửa nghề đèn ông sao

LNV - Không khí đón Tết Trung thu đang rộn ràng khắp nơi, tại thôn Báo Đáp, phường Hồng Quang, tỉnh Ninh Bình, làng nghề làm đèn ông sao lớn nhất miền Bắc, người dân tất bật hoàn thành những chiếc đèn năm cánh rực rỡ sắc màu, phục vụ thiếu nhi vui hội tră
Làng hoa Sa Đéc tất bật xuống giống vụ hoa Tết, lễ hội Festival Hoa

Làng hoa Sa Đéc tất bật xuống giống vụ hoa Tết, lễ hội Festival Hoa

LNV - Để chuẩn bị cho thị trường Tết 2026 và Festival hoa, kiểng Sa Đéc lần thứ II, nông dân làng hoa Sa Đéc (Đồng Tháp) đang tất bật xuống giống các loại hoa, trong đó có nhiều giống mới.
Đặc sản yến sào Cù Lao Ré  từ biển đảo Quảng Ngãi

Đặc sản yến sào Cù Lao Ré từ biển đảo Quảng Ngãi

LNV - Với khí hậu nhiệt đới gió mùa, đường bờ biển dài và nguồn thức ăn dồi dào từ đại dương tạo nên môi trường sống lý tưởng, Quảng Ngãi đã trở thành vùng đất được thiên nhiên ưu ái cho loài chim yến. Nhờ lợi thế đặc thù, nguồn tổ yến địa phương luôn có
Đèn Trung thu khổng lồ rực sáng ở Tuyên Quang

Đèn Trung thu khổng lồ rực sáng ở Tuyên Quang

LNV - Vào tối ngày 19 - 20/9, các tuyến đường trung tâm phường Minh Xuân (Tuyên Quang) bừng sáng với hơn 50 mô hình đèn độc đáo, đầy màu sắc, thu hút đông đảo người dân và du khách. Những chiếc đèn với đủ hình thù các con vật, nhân vật cổ tích, hiện đại d
Người đàn ông U80 khởi nghiệp thành công sản phẩm mỹ phẩm từ tinh dầu dừa

Người đàn ông U80 khởi nghiệp thành công sản phẩm mỹ phẩm từ tinh dầu dừa

LNV - Tuổi xế chiều, thời điểm nhiều người chọn nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già bên gia đình, con cháu, ông Nguyễn Công Trí (SN 1953), ngụ tại tỉnh Bến Tre (nay là tỉnh Vĩnh Long) lại chọn lối đi riêng
Giao diện di động