Hà Nội: 24°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 31°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Trường tồn văn hóa làng nghề

LNV - Hội nghị Văn hóa toàn quốc họp ngày 24/11/2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì từ 75 năm nay, sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (ngày 24/11/1946), lần này mới lại có Hội nghị toàn quốc về văn hóa với quy mô lớn như thế. Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm nay được tổ chức nhằm khơi dậy khát vọng của toàn dân tộc tập trung phát triển nhanh và bền vững đất nước, đánh dấu một bước rất có ý nghĩa trên con đường chấn hưng, phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.
Tại Hội nghị, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định ý nghĩa sâu sắc của văn hóa: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn” (Báo Nhân Dân điện tử ngày 24/11/2021). Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên thế và lực mới, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cộng đồng làng nghề chúng ta vinh dự và tự hào về những thành tựu và đóng góp của văn hóa làng nghề vào công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong những năm qua, đồng thời cũng nhận thức sâu sắc thêm về nhiệm vụ bảo tồn và phát huy văn hóa làng nghề trong thời kỳ mới, với ý nghĩa văn hóa làng nghề trường tồn cùng dân tộc, “văn hóa còn thì dân tộc còn”.


Hiệp hội Làng nghề Việt Nam nhận Huân chương Lao động Hạng Ba (Ảnh: ST)


Về khái niệm “Văn hóa”, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng bí thư Nuyễn Phú Trọng đã khái quát ngắn gọn, xin ghi lại để làng nghề chúng ta nghiên cứu: “Chung quy có thể hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng: Văn hóa là trình độ phát triển về tinh thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định (thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng,... văn hoá Đông Sơn, văn hoá lúa nước,...). Nghĩa hẹp: Văn hóa là những hoạt động tinh thần của một xã hội, gồm có những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức (lối sống, cách cư xử, ứng xử giữa người với người,...). Văn hóa cũng bao gồm cả văn hóa vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, di sản văn hóa, những sản phẩm văn hóa: Kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...) và phi vật thể (ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...). Văn hóa chúng ta bàn ở đây chủ yếu là theo nghĩa hẹp. Nhưng dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh tuý nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ (một con người có văn hóa, một gia đình có văn hóa, một dân tộc có văn hóa; lối sống văn hóa, nếp sống văn hóa, cách ứng xử có văn hóa,...) (Báo Nhân dân điện tử ngày 24/11/2021).

Thực tế cho thấy công cuộc bảo vệ và phát huy văn hóa làng nghề là một sự nghiệp lâu dài, mỗi thời kỳ lại được bổ sung những kiến giải mới. Nhân dịp Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm nay, từ thực tiễn các làng nghề, xin gợi ra một số ý kiến để các làng nghề tham khảo, thực hiện.

Một là, thực hiện khát vọng phát triển bằng văn hóa. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy sức mạnh và tinh thần của mọi người Việt Nam, mà quan trọng nhất là phát huy cao độ những giá trị văn hóa nhằm tạo nguồn lực nội sinh và động lực để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến các năm 2030, 2045 mà Đảng đã đề ra. Với chúng ta, đây là khát vọng bảo vệ và phát huy văn hóa làng nghề với quan điểm văn hóa làng nghề là nền tảng, trụ cột, là mục tiêu, động lực, sức mạnh tinh thần đưa làng nghề chúng ta phát triển lên những tầm cao mới. Khát vọng này phải được thấm sâu, quán xuyến trong toàn bộ hoạt động của mỗi cơ sở, mỗi làng nghề, mỗi tổ chức xã hội-nghề nghiệp liên quan đến làng nghề. Cơ sở làng nghề phải nuôi dưỡng khát vọng phát triển với quy mô lớn hơn, sản phẩm đạt chất lượng cao với sức cạnh tranh mạnh hơn, thu nhập tăng lên và đời sống của dân cư ngày càng được cải thiện, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phồn vinh của đất nước. Tổ chức xã hội-nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực làng nghề phải coi bảo tồn và phát huy văn hóa làng nghề là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt mọi hoạt động của tổ chức mình.

Hai là, xây dựng con người làng nghề có văn hóa. Xây dựng con người có văn hóa là một trọng tâm của xây dựng và phát triển văn hóa. Đối với làng nghề, con người có văn hóa phải là những con người phong phú về tâm hồn trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Đó là những con người khát khao bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống hiện hữu trong mỗi cơ sở, mỗi làng nghề, với những hành động cụ thể để gìn giữ truyền thống và phát huy bằng những sáng tạo mới. Chúng ta xây dựng con người làng nghề có văn hóa là nhằm: (1) Giữ gìn và phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn mực đạo lý, tập quán, nhất là ý thức cộng đồng gắn kết “cá nhân - gia đình – làng xã – Tổ quốc” đã trở thành bản sắc dân tộc trên địa bàn làng nghề; (ii) xác lập và phát huy quyền làm chủ trực tiếp, ý thức tự quản của công dân, thu hút mọi người tham gia xây dựng làng nghề; (iii) xây dựng con người mới của làng nghề với hai phẩm chất chủ yếu: Con người có văn hóa của người làng nghề và có văn hóa của công nghệ hiện đại, từng bước hình thành “người làng nghề 4.0” và “làng nghề 4.0”.

Ba là, phát huy các di sản văn hóa của làng nghề. Trong làng nghề, Di sản văn hóa phi vật thể là công nghệ chế tác hàng thủ công, thể hiện trí tuệ của nghệ nhân, bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác; là các sinh hoạt văn hóa của làng nghề, như lễ thờ Tổ nghề, lễ thờ Thành hoàng làng, ca múa hát, v.v... Di sản văn hóa vật thể là những sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã đạt mức độ tinh xảo, hoàn mỹ, có giá trị lịch sử,văn hoá, được sản sinh và lưu truyền trong các làng nghề truyền thống qua nhiều thế hệ, biểu trưng của nền văn hoá xã hội, mức độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, đặc điểm nhân văn của vùng, miền và của cả dân tộc; Một số đã được công nhận là di sản, bảo vật quốc gia. Đó cũng là những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cách mạng gắn với làng nghề trong cả nước, trở thành những điểm du lịch đặc sắc khác biệt của làng nghề nước ta. Chúng ta tự hào về những di sản đã tồn tại từ hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm. Đề cao, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể cũng như di sản văn hóa vật thể trong làng nghề bằng những hoạt động thiết thực, có hiệu quả cũng chính là tạo nền tảng, điểm tựa khơi nguồn sáng tạo cho làng nghề trong thời kỳ mới ngày nay.

Bốn là, ứng xử có văn hóa với con người làng nghề. Đây là một yêu cầu quan trọng đối với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức dịch vụ cũng như các tổ chức xã hội-nghề nghiệp liên quan đến làng nghề. Nhiệm vụ đặt ra là phát huy vai trò vừa là trung tâm vừa là chủ thể của người thợ thủ công trong làng nghề, cũng là đặt họ vào vị trí vừa là mục tiêu vừa là động lực trong sáng tạo và thụ hưởng thành tựu của làng nghề. Điều đã được khẳng định là sức sáng tạo của thợ thủ công là không giới hạn. Trong thời đại ngày nay, khi máy móc đã thay sức lao động thủ công, cơ bắp trong nhiều ngành nghề, thế nhưng nghề thủ công vẫn có chỗ đứng quan trọng, người tiêu dùng vẫn ưa chuộng sản phẩm “làm bằng tay”, chính là vì sản phẩm thủ công, nhiều khi là “độc bản” thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của mỗi nghệ nhân. Như vậy, vai trò của nghệ nhân cần được đề cao và nghệ nhân cần được chăm sóc chu đáo hơn nữa: Phải tiếp tục bồi dưỡng họ về những kiến thức hiện đại như công nghệ 4.0 để họ vận dụng trong hoạt động của mình; Phải tạo điều kiện cho nghệ nhân trưng bày và bán sản phẩm, mang lại thu nhập cho họ; đưa họ ra tiếp xúc với khách du lịch, vừa giới thiệu sản phẩm, vừa trình diễn các thao tác nghề thủ công; Và cũng rất cần chăm lo họ khi ốm đau, ...

Năm là, xây dựng văn hóa công vụ. Đó là xây dựng văn hóa ứng xử trong quản trị cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề và trong hoạt động của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp liên quan đến làng nghề, đặc biệt là đạo đức công vụ. Xin gợi ra một số ý kiến như sau. (i) Văn hóa trong cơ sở sản xuất kinh doanh (trong làng nghề, đó là các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ sản xuất, hộ kinh doanh): Mục tiêu của các cơ sở này là lợi nhuận; Mỗi cơ sở có phương pháp quản trị khác nhau, do đó văn hóa quản trị cũng khác nhau; Song điểm chung nhất, vẫn là tạo sự đoàn kết, thống nhất, thương yêu lẫn nhau; Là động viên mọi sáng kiến, thu hút mọi người tham gia vào công việc chung của tổ chức; Là bảo đảm thu nhập của mỗi người tương xứng với mức đóng góp của họ; Là thực hiện đầy đủ các biện pháp an sinh xã hội; Đồng thời là tuân thủ luật pháp, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước và trách nhiệm với xã hội... (ii) Văn hóa trong quản trị tổ chức xã hội-nghề nghiệp (các hội, hiệp hội ...) liên quan đến làng nghề: đây là vấn đề liên quan đến nguyên tắc “ba tự” (tự nguyện, tự quản, tự trang trải về tài chính) của tổ chức, vì vậy, đồng thuận trong quản trị là chủ yếu. Văn hóa trong quản trị ở đây là: Phát huy mọi sáng kiến của các thành viên; lắng nghe, tôn trọng mọi ý kiến, dù là trái chiều; Thu hút được ý kiến của chuyên gia, nhà nghiên cứu... Điều quan trọng cần nhấn mạnh là người đứng đầu tổ chức phải thực sự nêu gương về ứng xử văn hóa.

Sáu là, tham gia phát triển công nghiệp văn hóa. Theo các nhà nghiên cứu, nội dung chủ yếu của công nghiệp văn hóa là: Phát huy sáng tạo, tìm ra cách làm khác biệt; Ứng dụng công nghệ hiện đại; Từ đó tạo nên những sản phẩm văn hóa có giá trị; Góp phần thỏa mãn nhu cầu về văn hóa tinh thần của nhân dân; có giá trị về kinh tế đóng góp vào GDP của đất nước. Hiện nay, Công nghiệp văn hóa tuy còn mới đối với nước ta song đã phát triển tại nhiều nước trên thế giới, được coi như “sức mạnh mềm” của đất nước, điển hình là Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi đã tập trung sức phát huy văn hóa truyền thống, gắn truyền thống với hiện đại, mang lại nhiều hiệu quả cả về văn hóa và kinh tế. Ở nước ta, Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định 12 nhóm ngành công nghiệp văn hóa. Đó là: (1) Quảng cáo; (2) Kiến trúc; (3) Phần mềm và trò chơi giải trí; (4) Thủ công mỹ nghệ; (5) Thiết kế; (6) Điện ảnh; (7) Xuất bản; (8) Thời trang; (9) Nghệ thuật biểu diễn; (10) Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; (11) Truyền hình và phát thanh; (12) Du lịch văn hóa. Có thể thấy: Làng nghề chúng ta có khả năng đóng góp vào khá nhiều nhóm ngành công nghiệp văn hóa nói trên, song chủ yếu là hai nhóm ngành “Thủ công mỹ nghệ” và “Du lịch văn hóa”. Về thủ công mỹ nghệ, như đã nói ở trên, sức sáng tạo của nghề thủ công là vô hạn, luôn sáng tạo đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, nhất là khi đại dịch Covid-19 tác động, thị hiếu tiêu dùng thay đổi; Đồng thời đáp ứng yêu cầu mới của khách hàng về bảo vệ môi trường, như nguồn gốc, xuất xứ, sản xuất xanh. Về du lịch văn hóa, làng nghề chúng ta không chỉ có những sản phẩm du lịch thể hiện giá trị văn hóa vùng, miền, mà còn những điểm du lịch gắn với các di tích lịch sử, cách mạng của dân tộc. Trong các hoạt động nói trên, cần thể hiện nổi bật giá trị văn hóa, những điểm mới, khác biệt về nội dung và hình thức mang tính chất sáng tạo đặc thù của nghề thủ công từng vùng, miền và từng làng nghề; đặc biệt là mức độ đóng góp về kinh tế vào công nhiệp văn hóa.

(Bài viết nhân dịp Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021)

Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ



Tin liên quan

Tin mới hơn

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

LNV - Dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngành thủ công, mỹ nghệ Việt Nam vẫn có thể vươn lên khi thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ đô la vào năm 2025 và 6 tỉ đô la vào năm 2030 theo Quyết định đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

LNV - Nghề thủ công truyền thống của các tộc người là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc, qua việc nghiên cứu cũng chính là sự bảo lưu và phát triển bản sắc văn hóa của họ trong cuộc sống hiện đại, đồng thời cũng là sự thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất những giá trị nhân văn cùng những tinh hoa của văn hóa tộc người, đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong đó có các nghề thủ công truyền thống của người Mường Tân Lạc - Hòa Bình.
Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

LNV - Ngay từ năm 1958, sản phẩm thủ công của các làng nghề đã được chọn làm mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Trong suốt thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, thị trường xuất khẩu của sản phẩm thủ công chỉ bó hẹp trong các nước Xã hội chủ nghĩa. Đến thời kỳ đổi mới và gỡ bỏ cấm vận, các sản phẩm thủ công mới có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận với các nước Âu, Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công tăng lên nhanh chóng, và nhiều chủng loại mặt hàng mới cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có hơn 5.000 làng nghề và làng có nghề, thu hút gần 10 triệu lao động, mang lại giá trị xuất khẩu hơn 1,7 tỷ USD/năm. Những con số trên cho thấy sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đã mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng đất nước, an sinh xã hội và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.

Tin khác

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.
Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

LNV - Ðại hội XIII của Ðảng xác định rõ: Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng Cụm kinh tế của các tổ chức thành viên năm 2024

Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng Cụm kinh tế của các tổ chức thành viên năm 2024

LNV - Sáng ngày 8/12, tại Hải Phòng, UBTƯ MTTQ Việt Nam tổ chức hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng Cụm kinh tế của các tổ chức thành viên năm 2024.
Thơm ngon bánh giầy nếp bầu Tam Mỹ

Thơm ngon bánh giầy nếp bầu Tam Mỹ

LNV - Nếp bầu Tam Mỹ là đặc sản nổi tiếng từ lâu đời của vùng quê Tam Mỹ Đông và Tam Mỹ Tây, huyện Núi Thành, (tỉnh Quảng Nam). Hạt nếp bầu dẻo và thơm lừng rất đặc trưng. Đây là loại bánh truyền thống của người Việt, thường được làm vào dịp Tết Nguyên đán và ngày giỗ Tổ Hùng Vương (10 tháng 3 âm lịch).
Bắc Kạn: Nỗ lực của hương trình xây dựng nông thôn mới, kết quả các huyện

Bắc Kạn: Nỗ lực của hương trình xây dựng nông thôn mới, kết quả các huyện

LNV - Với những giải pháp linh hoạt, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân cho nên thời gian qua chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) tại tỉnh Bắc Kạn đang mang lại những kết quả khả quan. Nhờ xây dựng NTM, đến nay diện mạo vùng nông thôn một số huyện tại tỉnh Bắc Kạn đang thay đổi từng ngày, cuộc sống người dân được nâng lên.
Ngành y tế Hà Tĩnh nâng cao năng lực để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân

Ngành y tế Hà Tĩnh nâng cao năng lực để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân

LNV - Với sự đồng lòng, quyết tâm của cán bộ, nhân viên, trong thời gian qua, công tác y tế ở Hà Tĩnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực trên hầu hết các lĩnh vực. Các dịch bệnh truyền nhiễm được kiểm soát tốt, an toàn thực phẩm được hạn chế, chất lượng khám bệnh và chữa bệnh được nâng cao nhờ triển khai đề án bệnh viện vệ tinh, khám chữa bệnh từ xa, chỉ đạo tuyến, chuyển giao kỹ thuật…
Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

LNV - Dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngành thủ công, mỹ nghệ Việt Nam vẫn có thể vươn lên khi thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ đô la vào năm 2025 và 6 tỉ đô la vào năm 2030 theo Quyết định đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động