Hà Nội: 25°C Hà Nội
Đà Nẵng: 25°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 25°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 23°C Thừa Thiên Huế

Trường tồn văn hóa làng nghề

LNV - Hội nghị Văn hóa toàn quốc họp ngày 24/11/2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì từ 75 năm nay, sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (ngày 24/11/1946), lần này mới lại có Hội nghị toàn quốc về văn hóa với quy mô lớn như thế. Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm nay được tổ chức nhằm khơi dậy khát vọng của toàn dân tộc tập trung phát triển nhanh và bền vững đất nước, đánh dấu một bước rất có ý nghĩa trên con đường chấn hưng, phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.
Tại Hội nghị, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định ý nghĩa sâu sắc của văn hóa: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn” (Báo Nhân Dân điện tử ngày 24/11/2021). Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên thế và lực mới, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cộng đồng làng nghề chúng ta vinh dự và tự hào về những thành tựu và đóng góp của văn hóa làng nghề vào công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong những năm qua, đồng thời cũng nhận thức sâu sắc thêm về nhiệm vụ bảo tồn và phát huy văn hóa làng nghề trong thời kỳ mới, với ý nghĩa văn hóa làng nghề trường tồn cùng dân tộc, “văn hóa còn thì dân tộc còn”.


Hiệp hội Làng nghề Việt Nam nhận Huân chương Lao động Hạng Ba (Ảnh: ST)


Về khái niệm “Văn hóa”, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng bí thư Nuyễn Phú Trọng đã khái quát ngắn gọn, xin ghi lại để làng nghề chúng ta nghiên cứu: “Chung quy có thể hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng: Văn hóa là trình độ phát triển về tinh thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định (thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng,... văn hoá Đông Sơn, văn hoá lúa nước,...). Nghĩa hẹp: Văn hóa là những hoạt động tinh thần của một xã hội, gồm có những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức (lối sống, cách cư xử, ứng xử giữa người với người,...). Văn hóa cũng bao gồm cả văn hóa vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, di sản văn hóa, những sản phẩm văn hóa: Kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...) và phi vật thể (ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...). Văn hóa chúng ta bàn ở đây chủ yếu là theo nghĩa hẹp. Nhưng dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh tuý nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ (một con người có văn hóa, một gia đình có văn hóa, một dân tộc có văn hóa; lối sống văn hóa, nếp sống văn hóa, cách ứng xử có văn hóa,...) (Báo Nhân dân điện tử ngày 24/11/2021).

Thực tế cho thấy công cuộc bảo vệ và phát huy văn hóa làng nghề là một sự nghiệp lâu dài, mỗi thời kỳ lại được bổ sung những kiến giải mới. Nhân dịp Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm nay, từ thực tiễn các làng nghề, xin gợi ra một số ý kiến để các làng nghề tham khảo, thực hiện.

Một là, thực hiện khát vọng phát triển bằng văn hóa. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy sức mạnh và tinh thần của mọi người Việt Nam, mà quan trọng nhất là phát huy cao độ những giá trị văn hóa nhằm tạo nguồn lực nội sinh và động lực để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến các năm 2030, 2045 mà Đảng đã đề ra. Với chúng ta, đây là khát vọng bảo vệ và phát huy văn hóa làng nghề với quan điểm văn hóa làng nghề là nền tảng, trụ cột, là mục tiêu, động lực, sức mạnh tinh thần đưa làng nghề chúng ta phát triển lên những tầm cao mới. Khát vọng này phải được thấm sâu, quán xuyến trong toàn bộ hoạt động của mỗi cơ sở, mỗi làng nghề, mỗi tổ chức xã hội-nghề nghiệp liên quan đến làng nghề. Cơ sở làng nghề phải nuôi dưỡng khát vọng phát triển với quy mô lớn hơn, sản phẩm đạt chất lượng cao với sức cạnh tranh mạnh hơn, thu nhập tăng lên và đời sống của dân cư ngày càng được cải thiện, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phồn vinh của đất nước. Tổ chức xã hội-nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực làng nghề phải coi bảo tồn và phát huy văn hóa làng nghề là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt mọi hoạt động của tổ chức mình.

Hai là, xây dựng con người làng nghề có văn hóa. Xây dựng con người có văn hóa là một trọng tâm của xây dựng và phát triển văn hóa. Đối với làng nghề, con người có văn hóa phải là những con người phong phú về tâm hồn trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Đó là những con người khát khao bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống hiện hữu trong mỗi cơ sở, mỗi làng nghề, với những hành động cụ thể để gìn giữ truyền thống và phát huy bằng những sáng tạo mới. Chúng ta xây dựng con người làng nghề có văn hóa là nhằm: (1) Giữ gìn và phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn mực đạo lý, tập quán, nhất là ý thức cộng đồng gắn kết “cá nhân - gia đình – làng xã – Tổ quốc” đã trở thành bản sắc dân tộc trên địa bàn làng nghề; (ii) xác lập và phát huy quyền làm chủ trực tiếp, ý thức tự quản của công dân, thu hút mọi người tham gia xây dựng làng nghề; (iii) xây dựng con người mới của làng nghề với hai phẩm chất chủ yếu: Con người có văn hóa của người làng nghề và có văn hóa của công nghệ hiện đại, từng bước hình thành “người làng nghề 4.0” và “làng nghề 4.0”.

Ba là, phát huy các di sản văn hóa của làng nghề. Trong làng nghề, Di sản văn hóa phi vật thể là công nghệ chế tác hàng thủ công, thể hiện trí tuệ của nghệ nhân, bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác; là các sinh hoạt văn hóa của làng nghề, như lễ thờ Tổ nghề, lễ thờ Thành hoàng làng, ca múa hát, v.v... Di sản văn hóa vật thể là những sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã đạt mức độ tinh xảo, hoàn mỹ, có giá trị lịch sử,văn hoá, được sản sinh và lưu truyền trong các làng nghề truyền thống qua nhiều thế hệ, biểu trưng của nền văn hoá xã hội, mức độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, đặc điểm nhân văn của vùng, miền và của cả dân tộc; Một số đã được công nhận là di sản, bảo vật quốc gia. Đó cũng là những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cách mạng gắn với làng nghề trong cả nước, trở thành những điểm du lịch đặc sắc khác biệt của làng nghề nước ta. Chúng ta tự hào về những di sản đã tồn tại từ hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm. Đề cao, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể cũng như di sản văn hóa vật thể trong làng nghề bằng những hoạt động thiết thực, có hiệu quả cũng chính là tạo nền tảng, điểm tựa khơi nguồn sáng tạo cho làng nghề trong thời kỳ mới ngày nay.

Bốn là, ứng xử có văn hóa với con người làng nghề. Đây là một yêu cầu quan trọng đối với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức dịch vụ cũng như các tổ chức xã hội-nghề nghiệp liên quan đến làng nghề. Nhiệm vụ đặt ra là phát huy vai trò vừa là trung tâm vừa là chủ thể của người thợ thủ công trong làng nghề, cũng là đặt họ vào vị trí vừa là mục tiêu vừa là động lực trong sáng tạo và thụ hưởng thành tựu của làng nghề. Điều đã được khẳng định là sức sáng tạo của thợ thủ công là không giới hạn. Trong thời đại ngày nay, khi máy móc đã thay sức lao động thủ công, cơ bắp trong nhiều ngành nghề, thế nhưng nghề thủ công vẫn có chỗ đứng quan trọng, người tiêu dùng vẫn ưa chuộng sản phẩm “làm bằng tay”, chính là vì sản phẩm thủ công, nhiều khi là “độc bản” thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của mỗi nghệ nhân. Như vậy, vai trò của nghệ nhân cần được đề cao và nghệ nhân cần được chăm sóc chu đáo hơn nữa: Phải tiếp tục bồi dưỡng họ về những kiến thức hiện đại như công nghệ 4.0 để họ vận dụng trong hoạt động của mình; Phải tạo điều kiện cho nghệ nhân trưng bày và bán sản phẩm, mang lại thu nhập cho họ; đưa họ ra tiếp xúc với khách du lịch, vừa giới thiệu sản phẩm, vừa trình diễn các thao tác nghề thủ công; Và cũng rất cần chăm lo họ khi ốm đau, ...

Năm là, xây dựng văn hóa công vụ. Đó là xây dựng văn hóa ứng xử trong quản trị cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề và trong hoạt động của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp liên quan đến làng nghề, đặc biệt là đạo đức công vụ. Xin gợi ra một số ý kiến như sau. (i) Văn hóa trong cơ sở sản xuất kinh doanh (trong làng nghề, đó là các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ sản xuất, hộ kinh doanh): Mục tiêu của các cơ sở này là lợi nhuận; Mỗi cơ sở có phương pháp quản trị khác nhau, do đó văn hóa quản trị cũng khác nhau; Song điểm chung nhất, vẫn là tạo sự đoàn kết, thống nhất, thương yêu lẫn nhau; Là động viên mọi sáng kiến, thu hút mọi người tham gia vào công việc chung của tổ chức; Là bảo đảm thu nhập của mỗi người tương xứng với mức đóng góp của họ; Là thực hiện đầy đủ các biện pháp an sinh xã hội; Đồng thời là tuân thủ luật pháp, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước và trách nhiệm với xã hội... (ii) Văn hóa trong quản trị tổ chức xã hội-nghề nghiệp (các hội, hiệp hội ...) liên quan đến làng nghề: đây là vấn đề liên quan đến nguyên tắc “ba tự” (tự nguyện, tự quản, tự trang trải về tài chính) của tổ chức, vì vậy, đồng thuận trong quản trị là chủ yếu. Văn hóa trong quản trị ở đây là: Phát huy mọi sáng kiến của các thành viên; lắng nghe, tôn trọng mọi ý kiến, dù là trái chiều; Thu hút được ý kiến của chuyên gia, nhà nghiên cứu... Điều quan trọng cần nhấn mạnh là người đứng đầu tổ chức phải thực sự nêu gương về ứng xử văn hóa.

Sáu là, tham gia phát triển công nghiệp văn hóa. Theo các nhà nghiên cứu, nội dung chủ yếu của công nghiệp văn hóa là: Phát huy sáng tạo, tìm ra cách làm khác biệt; Ứng dụng công nghệ hiện đại; Từ đó tạo nên những sản phẩm văn hóa có giá trị; Góp phần thỏa mãn nhu cầu về văn hóa tinh thần của nhân dân; có giá trị về kinh tế đóng góp vào GDP của đất nước. Hiện nay, Công nghiệp văn hóa tuy còn mới đối với nước ta song đã phát triển tại nhiều nước trên thế giới, được coi như “sức mạnh mềm” của đất nước, điển hình là Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi đã tập trung sức phát huy văn hóa truyền thống, gắn truyền thống với hiện đại, mang lại nhiều hiệu quả cả về văn hóa và kinh tế. Ở nước ta, Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định 12 nhóm ngành công nghiệp văn hóa. Đó là: (1) Quảng cáo; (2) Kiến trúc; (3) Phần mềm và trò chơi giải trí; (4) Thủ công mỹ nghệ; (5) Thiết kế; (6) Điện ảnh; (7) Xuất bản; (8) Thời trang; (9) Nghệ thuật biểu diễn; (10) Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; (11) Truyền hình và phát thanh; (12) Du lịch văn hóa. Có thể thấy: Làng nghề chúng ta có khả năng đóng góp vào khá nhiều nhóm ngành công nghiệp văn hóa nói trên, song chủ yếu là hai nhóm ngành “Thủ công mỹ nghệ” và “Du lịch văn hóa”. Về thủ công mỹ nghệ, như đã nói ở trên, sức sáng tạo của nghề thủ công là vô hạn, luôn sáng tạo đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, nhất là khi đại dịch Covid-19 tác động, thị hiếu tiêu dùng thay đổi; Đồng thời đáp ứng yêu cầu mới của khách hàng về bảo vệ môi trường, như nguồn gốc, xuất xứ, sản xuất xanh. Về du lịch văn hóa, làng nghề chúng ta không chỉ có những sản phẩm du lịch thể hiện giá trị văn hóa vùng, miền, mà còn những điểm du lịch gắn với các di tích lịch sử, cách mạng của dân tộc. Trong các hoạt động nói trên, cần thể hiện nổi bật giá trị văn hóa, những điểm mới, khác biệt về nội dung và hình thức mang tính chất sáng tạo đặc thù của nghề thủ công từng vùng, miền và từng làng nghề; đặc biệt là mức độ đóng góp về kinh tế vào công nhiệp văn hóa.

(Bài viết nhân dịp Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021)

Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ



Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Vĩnh Long: Khởi nghiệp tuổi xế chiều, người đàn ông U80 thành công với sản phẩm OCOP

Vĩnh Long: Khởi nghiệp tuổi xế chiều, người đàn ông U80 thành công với sản phẩm OCOP

OVN – Tuổi xế chiều, thời điểm nhiều người chọn nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già bên gia đình, con cháu, ông Nguyễn Công Trí (SN 1953), ngụ tại tỉnh Bến Tre
Từ trái sim rừng đến đặc sản đạt chất lượng OCOP

Từ trái sim rừng đến đặc sản đạt chất lượng OCOP

OVN - Từ những trái sim rừng mọng chín, chị Đỗ Thị Thu Thảo (xã An Hòa, Gia Lai) đã xây dựng thương hiệu rượu SimMo8, kết hợp giữa tri thức bản địa và công nghệ hiện đại. Không chỉ dừng lại ở một sản phẩm OCOP tiêu biểu, SimMo8 còn kể câu chuyện về ký ức,
Thị trưởng Khu Trung tâm Tài chính London có chuyến thăm cấp cao tới Việt Nam

Thị trưởng Khu Trung tâm Tài chính London có chuyến thăm cấp cao tới Việt Nam

Ngày 15/9 vừa qua, Thị trưởng Khu Trung tâm Tài chính London - ông Alastair King đã có chuyến thăm cấp cao tới Việt Nam. Chuyến thăm do Đại sứ quán Anh tại
Công nhận làng Việt Hải là điểm du lịch cộng đồng

Công nhận làng Việt Hải là điểm du lịch cộng đồng

LNV - UBND TP Hải Phòng vừa chính thức công nhận làng Việt Hải (đặc khu Cát Hải) là Điểm du lịch cộng đồng. Đây được xem là bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng, gắn với định hướng chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.
Người lính năm xưa trở thành nông dân điển hình hôm nay

Người lính năm xưa trở thành nông dân điển hình hôm nay

LNV - Trở về sau những năm tháng quân ngũ, cựu chiến binh Dương Đình Tuấn (xã Quỳnh Văn, Nghệ An) vẫn miệt mài gắn bó với ruộng đồng, chuồng trại. Với sự cần cù và tinh thần học hỏi, ông đã trở thành tấm gương điển hình trong phát triển nông nghiệp, góp p
Giao diện di động