Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 29°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 31°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 31°C Thừa Thiên Huế

Bàn về truyền thống

LNV - Mượn cớ đọc các bài trên các báo về việc khôi phục áo dài nam truyền thống. Tôi nhận thấy có nhiều điều cần trao đổi về nhận thức và cách thực hiện ý tưởng này. Câu hỏi đặt ra là tại sao áo dài truyền thống nữ không đứt gãy, không mai một, dù có lúc dừng lại, nhưng chúng vẫn phát triển rực rỡ đến hôm nay và một tương lai không có bất kỳ dấu hiệu cản trở nào chỉ báo dừng lại. Vì sao áo dài nữ hiện đại ngày nay vẫn được tôn vinh, được nhìn nhận, chứng thực một cách tự nhiên là “áo dài truyền thống của phụ nữ Việt Nam” bất cứ đâu trên thế giới. Còn áo dài nam thì không?
Trước khi trao đổi, tôi xin kể một truyền thống nhỏ: Tại sao người Nhật bỏ giày của họ khi vào nhà?

Khoảng 2.300 năm trước, người Nhật bắt đầu đi giày để ra đồng trồng lúa. Họ mang giày để giữ cho đôi chân khô ráo trong những ngày dài ẩm ướt bên ngoài. Và vì vậy, trước khi bước vào nhà vào mỗi buổi tối, họ sẽ tháo giày để tránh mang bùn bẩn vào bên trong nhà.

Nhưng sự sạch sẽ chỉ là một phần của lý do. Người Nhật suy nghĩ về cách ứng xử, khi họ xem ngôi nhà của mình là một nơi thiêng liêng. Truyền thuyết cho rằng nguồn gốc của tập tục truyền thống này đến từ nhà kho, nơi có sàn nâng cao được sử dụng để chứa ngũ cốc trong thời kỳ Minh Trị. Số thóc họ thu được tượng trưng cho quyền lực, vì vậy việc mang chất bẩn vào kho sau một ngày dài được coi là sự sỉ nhục đối với công việc họ đã làm giảm quyền lực của họ. Và ngày nay truyền thống này vẫn được thực hiện trên khắp Nhật Bản, không chỉ trong nhà của mọi người mà ở nhiều nhà hàng, trường học, đền thờ, và thậm chí cả các buổi lễ trà. Truyền thống này đã trở thành một phần của văn hóa Nhật Bản.


Bức họa đám rước thánh ở Bắc Kỳ, thế kỷ 19, cho thấy lối trang phục đàn ông: thân mặc áo dài, dưới bụng mặc quần,
đầu đội khăn xếp.


Tương tự, người Việt xem cơm ăn là hạt ngọc của trời vì vậy các bậc cha mẹ thường dạy con phải ăn hết chén cơm, không được phung phí. Đó cũng là truyền thống trong gia đình và xã hội Việt Nam.
Vậy Truyền thống là gì? Truyền thống là một thuật ngữ cụ thể hơn văn hóa. Hàng trăm, hàng ngàn truyền thống như vậy tạo ra bản sắc các cộng đồng dân cư và hình thành nền văn hóa của họ. Truyền thống thường được sử dụng để mô tả một sự kiện hoặc hoạt động cá nhân, nhóm người... chẳng hạn như tháo giày khi bước vào nhà của người Nhật, ăn hết cơm trong chén... Rõ ràng truyền thống là những ý tưởng và niềm tin được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng không phải là quy tắc, mà là “hướng dẫn”. Mỗi gia đình trong một nền văn hóa nhất định có thể có những truyền thống độc đáo của riêng mình trong khi vẫn chia sẻ những truyền thống chung khác của cộng đồng, dân tộc.

Quay trở lại, những lý do áo dài nam mất dần trong đời sống do “định kiến”, “ảnh hưởng của âu phục” ... chỉ là do người ta tự nghĩ ra để giải thích hoặc gán cho nguyên nhân sự mai một của áo dài nam. Đối với nghề thủ công truyền thống bị mai một cũng vậy, không hoàn toàn do đứt gãy hay sản xuất công nghiệp lấn át. Mấu chốt của việc này rất khác.

Truyền thống mà hầu hết các từ điển đều định nghĩa đơn giản: Truyền thống là phong tục tập quán (hay bất cứ thứ gì) của người đời xưa được người sau làm theo và truyền từ đời này sang đời khác (liên miên bất tận). Mỗi một vùng sẽ có mỗi phong tục tập quán, truyền thống riêng.

Chúng ta cần chú ý nội hàm quan trọng nhất của khái niệm truyền thống là “truyền” như trong “các đời nối dõi không dứt”, như “huyết thống” dòng máu, “truyền thống” liên hệ từ đời này sang đời khác. Ví dụ Chiến quốc sách: “Thiên hạ kế kì thống, thủ kì nghiệp, truyền chi vô cùng”: Thiên hạ nối tiếp các thế hệ, giữ sự nghiệp của mình, truyền lại mãi về sau không dứt.

“Truyền thống”, theo gốc từ Latinh được viết là “Tradio”, gồm động từ “Tradere (traditus) nguyên nghĩa của nó là “truyền lại”, “nhường lại”, “giao lại” và “phân phát”. Do vậy, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất của khái niệm này, truyền thống là sự kế thừa di sản văn hóa xã hội có giá trị được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Áo dài nam không “truyền” lại được thì chỉ còn lại trong bảo tàng để đánh dấu một giai đoạn lịch sự văn hóa (của một công đồng hay giai tầng xã hội của giai đoạn được đề cập).

Truyền thống phải là những gì từ trong quá khứ kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện còn có nhiều tác dụng (hay công năng, chức năng, công dụng; Không có điều này chúng sẽ mất, mai một).

Khái niệm truyền thống, phù hợp với ý tưởng phải là “văn hóa được truyền tải” nghĩa là nhấn mạnh hoặc đề cập cụ thể đến việc truyền tải như một quá trình “sống” - như một trong những việc truyền lại các kỹ năng và kiến thức nghề thủ công - đồng thời đánh giá chúng về giá trị hiện tại và khả năng tồn tại trong tương lại của chúng. Do đó, truyền thống là đại diện cho một nguyên tắc (1) văn hóa truyền tải thành công trong suốt quá trình chuyển đổi, mở rộng và truyền tải (kiến thức và kỹ năng, niềm tin…) dưới hình thức bền vững qua nhiều thế hệ. Không chuyển tải thành công, không trở thành truyền thống. Truyền thống là (2) năng động (hiểu theo nghĩa tiến trình liên tục thay đổi hoặc phát triển) không mâu thuẫn với hiện đại, mà luôn liên quan với nhau. Các cộng đồng có ý thức về cội nguồn lịch sử của mình và đặt cái “cũ” vào các quá trình lựa chọn để tự đổi mới và từ đó chuyển tải những khía cạnh đã được chứng minh, khẵng định và vẫn còn chức năng cũng như những khía cạnh có thể đổi mới trong tương lai. Do đó, khái niệm truyền thống này bao hàm sự tác động lẫn nhau giữa tính năng động và tính liên tục trong quá trình truyền tải.

Đặc trưng của truyền thống là chất lượng của sự sống động và năng động của chúng – theo cách mà chúng đồng thời vừa kỳ vọng vào sự thay đổi có thể xảy ra trong tương lai và vừa mong muốn sự quay trở lại những biến hóa và những thay đổi của lịch sử truyền thống thường có tuổi đời hàng thế kỷ.

Khái niệm mà trong đó yếu tố nhiều thế kỷ, nhiều thế hệ liên tục là cần thiết để nói về tri thức (tập tục, âm nhạc, nghề thủ công...) truyền thống (khác với các trường hợp chỉ thực sự xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn hơn). Yếu tố quan trọng để đi từ việc truyền lại đơn giản sang truyền lại truyền thống là sự lặp lại: Nghĩa là một người khi bắt đầu chuỗi trao truyền sẽ truyền lại kiến thức, nghi lễ, tập tục... dựa trên kinh nghiệm từ cuộc sống của mình cho người kế thừa (người nối nghiệp). Người kế thừa từ tiền bối này, đến lượt họ, truyền lại kiến thức nhận được - sau khi biến chúng thành kiến thức, kinh nghiệm mà chính họ thông qua ứng dụng, thực hành chúng - cho thế hệ thứ ba có ý định áp dụng kiến thức đã có trước. Việc truyền tải kiến thức kinh nghiệm không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, ở đây, cũng không phải là việc tìm kiếm một truyền thống “đích thực, nguyên bản” với bất kỳ ý nghĩa nào (như yêu cầu mặc áo dài nam cho đúng nguyên gốc ngũ thân và chê bai các áo dài nam sáng tạo mới). Vì nếu mối quan tâm của một người nào tập trung vào sự năng động và ứng dụng kiến thức, thì bất kỳ sự dòi hỏi nào để xác định và tìm cách bảo tồn các truyền thống “đích thực” và “không sai lầm” đều bị bác bỏ.

Do đó, các hằng số, hay quang phổ, phạm vi… của một truyền thống nhất định được thể hiện bởi các điều kiện mà chúng là chủ thể - sự truyền tải giữa các cá nhân (hay cộng đồng) qua nhiều thế hệ - các quá trình lựa chọn dựa trên nhu cầu gắn liền với các thế hệ tương ứng, với các ảnh hưởng văn hóa xã hội - chứ không phải bởi nội dung thực tế của chúng về mặt kiến thức và kỹ năng, vì những khía cạnh này (kiến thức và kỹ năng...) thường thay đổi liên tục khi đưa vào thực hành và đời sống. Áo dài nam không phát triển sẽ mai một. Mặt rất quan trọng khác, nghề may áo dài thủ công truyền thống vẫn là nghề thủ công sống động, đồng thời với truyền tải tích cực kết hợp tính năng động của sự thay đổi.

Áo giao lĩnh - Áo dài tứ thân (thế kỉ 17) - Áo dài ngũ thân (thời Vua Gia Long) - Áo dài Lemur (họa sĩ Cát Tường sáng tạo vào năm 1939, đến 1943 thì bị lãng quên.) - Áo dài Lê Phổ (biến thể của áo dài Lemur của họa sĩ Lê Phổ nên được gọi là áo dài Lê Phổ đến những năm 1950, phong cách áo dài Việt Nam đã trở thành trang phục truyền thống nước nhà)- rồi Áo dài Raglan vào năm 1960 do nhà may Dung ở Đakao, Sài Gòn sáng tạo ra. Áo dài tân thời Việt Nam từ những năm 1960 đến nay. Tóm tắt Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ như vậy đều có sự biến đổi to lớn để có sức sống và phát triển với nhiều kiểu dáng, chất liệu từ cổ điển, hiện đại đến phá cách, áo cưới hay áo cách tân tùy hoàn cảnh mà nó xuất hiện. Nhưng dù biến muôn hình vạn trạng thế nào thì chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt vẫn giữ được các nguyên tắc cắt, may thủ công nhưng vẫn uyển chuyển, gợi cảm, kín đáo, cá tính hay cá nhân hóa mà không trang phục nào làm được. Do quá trình “truyền tải thành công” này mà ngày nay áo dài nữ tạo ra niềm tin trong cộng đồng, xã hội, mà cũng sự thích nghi bất tận đó, áo dài truyền thống nữ có một tương lai không chút bụi mờ. Điều rất quan trọng, áo dài nữ có chức năng khá rộng, có thể sử dụng áo dài truyền thống trong lễ hội, tiếp tân, tín ngưỡng, tôn giáo, làm việc hàng ngày. Chức năng càng lớn thì truyền thống càng bền vững. Đặc biệt khác, là không chỉ cộng đồng người Kinh mà các cộng đồng các dân tộc khác đều có thể sử dụng cho dù các dân tộc khác đều có y phục truyền thống riêng.

Sẽ không thuyết phục nếu chúng ta vẫn tiếp tục với các hội thảo, tuyên truyền như cách làm hiện nay. Huế nên khôi phục lại nghề dệt may kinh đô xưa, nơi xuất phát áo dài nam (ngũ thân hoặc có thể khác) như An Giang khôi phục và phát triển các nghề dệt, may truyền thống để sản xuất tiêu dùng trong cộng đồng và xuất khẩu vải và y phục truyền thống tín ngưỡng sang Cambodia và Malaysia. Hãy làm từ gốc chứ không nên hớt ngọn, không thể chỉ khai thác phần vật thể mà không vun trồng cho di sản phi vật thể bởi các yếu tố phi vật thể tạo nên truyền thống. Chúng ta không thể ép buộc mọi người theo ý mình. Mọi di sản văn hóa truyền thống đều phải có chủ, nếu thuộc về công đồng thì phải được sự công nhận, chứng thực của cộng đồng ấy. Mỗi cộng đồng đều có truyền thống riêng.

Hãy tạo điều kiện cho nghề truyền thống có không gian, điều kiện, vật dụng, thiết bị, cơ chế... cho sự sáng tạo. Xin nhớ rằng: việc làm của ngày hôm nay sẽ là truyền thống trong tương lai. Và thế hệ này có thể từ chối một di sản nhưng thế hệ sau sẽ nhận mang chúng, lưu giữ chúng và truyền chúng cho đời sau một khi chúng có giá trị nào đó cho niềm tin, cho cộng đồng và tương lai của truyền thống đó.

Nguyễn Lực
Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.

Tin khác

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

LNV - Tạp chí Làng Nghề Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng” của đồng chí Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH T.W Đảng cộng sản Việt Nam.
Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

LNV - Trải qua hàng trăm năm lịch sử, các làng nghề không chỉ mang nhiều giá trị về mặt kinh tế mà còn là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc và mang đậm dấu ấn của kiến trúc truyền thống Việt Nam. Khai thác tiềm năng của làng nghề để thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch đang được coi là một trong những hướng đi triển vọng của đất nước. Tuy nhiên, làng nghề truyền thống trong thời kỳ đổi mới cũng đang đặt ra những thách thức đặc biệt là bảo tồn và phát triển về không gian kiến trúc.
Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

LNV - Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam từ lâu đã được biết đến với những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa, nghệ thuật truyền thống, thể hiện tài hoa của những nghệ nhân làng nghề. Tuy nhiên, khi bước vào thời đại hội nhập và toàn cầu hóa, để giữ vững được thị trường trong nước và cạnh tranh với các sản phẩm quốc tế, các doanh nghiệp và làng nghề phải tìm ra cách tiếp cận hiệu quả hơn thông qua chiến lược marketing xuất khẩu.
Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em, giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có những hướng đi bền vững.
Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

LNV - Vượt ra khỏi vai trò vỏ bọc bên ngoài, bao bì sản phẩm còn là câu chuyện thương hiệu và thông điệp mà nhà sản xuất muốn gửi gắm. Vì vậy, thiết kế bao bì không chỉ đòi hỏi sự sáng tạo, mà còn cần sự hiểu biết sâu sắc về sản phẩm, thị trường và khách hàng.
Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

LNV - Dù đã đưa ra nhiều biện pháp, giải pháp, quy định đối với các cơ sở sản xuất tại làng nghề nhưng việc bảo vệ môi trường vẫn đang gây nhiều khó khăn cho các cấp chính quyền quản lý. Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại làng nghề cũng đặt ra nhiều thách thức. Trong đó, việc gia tăng phát triển cả về số lượng làng nghề và loại ngành nghề đã khiến ô nhiễm môi trường cũng ngày càng cao, nhiều nơi vượt quá tầm kiểm soát của các cấp chính quyền quản lý.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

LNV - Nhân dịp Tết Ất Tỵ 2025, ông Đặng Khánh Duy, Tổng giám đốc điều hành (CEO) Công ty TNHH Tân Nhiên - Chủ thể đầu tiên của tỉnh Tây Ninh có sản phẩm đạt OCOP 5 sao đã có những chia sẻ với Tạp chí Làng nghề Việt Nam.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

LNV - Nếu phải xác định một điểm khởi đầu cho hành trình chuyển đổi số tại huyện Phú Xuyên, thì đó không phải là hạ tầng, công nghệ hay những con số đầu tư hàng chục tỷ đồng, mà chính là yếu tố con người - những người dám nghĩ, dám làm, dám tiên phong.
Đời sống mới ở xã Lê Lợi

Đời sống mới ở xã Lê Lợi

LNV - Sau khi đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2019, xã Lê Lợi (huyện Thường Tín) không ngừng nâng chất các tiêu chí nông thôn mới đã đạt và thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu nông thôn mới nâng cao.
Dự báo, giá xăng, dầu giảm mạnh 6,8 - 7,5% trong ngày 3-7

Dự báo, giá xăng, dầu giảm mạnh 6,8 - 7,5% trong ngày 3-7

LNV - Mô hình dự báo giá xăng, dầu của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) nhận định, tại kỳ điều hành ngày 3-7, giá xăng, dầu bán lẻ có thể giảm 6,8 - 7,5%.
Trí thức trẻ Lê Bảo Hưng đam mê với khát vọng làm giàu trên mảnh đất quê hương

Trí thức trẻ Lê Bảo Hưng đam mê với khát vọng làm giàu trên mảnh đất quê hương

LNV - Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, anh Lê Bảo Hưng, sinh năm 1993, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp chăn nuôi Bảo Hưng (HTX), xã Trường Hà đã khởi nghiệp thành công từ mô hình chăn nuôi an toàn sinh học. Anh là gương điển hình cho lớp trí thức t
Hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao

Hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao

LNV - Bài viết về cách nông nghiệp công nghệ cao nâng cao chất lượng, tăng thu nhập và mở rộng thị trường cho nông dân miền núi phía Bắc Việt Nam.
Giao diện di động