Hà Nội: 23°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 32°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 26°C Thừa Thiên Huế

Bàn về truyền thống

LNV - Mượn cớ đọc các bài trên các báo về việc khôi phục áo dài nam truyền thống. Tôi nhận thấy có nhiều điều cần trao đổi về nhận thức và cách thực hiện ý tưởng này. Câu hỏi đặt ra là tại sao áo dài truyền thống nữ không đứt gãy, không mai một, dù có lúc dừng lại, nhưng chúng vẫn phát triển rực rỡ đến hôm nay và một tương lai không có bất kỳ dấu hiệu cản trở nào chỉ báo dừng lại. Vì sao áo dài nữ hiện đại ngày nay vẫn được tôn vinh, được nhìn nhận, chứng thực một cách tự nhiên là “áo dài truyền thống của phụ nữ Việt Nam” bất cứ đâu trên thế giới. Còn áo dài nam thì không?
Trước khi trao đổi, tôi xin kể một truyền thống nhỏ: Tại sao người Nhật bỏ giày của họ khi vào nhà?

Khoảng 2.300 năm trước, người Nhật bắt đầu đi giày để ra đồng trồng lúa. Họ mang giày để giữ cho đôi chân khô ráo trong những ngày dài ẩm ướt bên ngoài. Và vì vậy, trước khi bước vào nhà vào mỗi buổi tối, họ sẽ tháo giày để tránh mang bùn bẩn vào bên trong nhà.

Nhưng sự sạch sẽ chỉ là một phần của lý do. Người Nhật suy nghĩ về cách ứng xử, khi họ xem ngôi nhà của mình là một nơi thiêng liêng. Truyền thuyết cho rằng nguồn gốc của tập tục truyền thống này đến từ nhà kho, nơi có sàn nâng cao được sử dụng để chứa ngũ cốc trong thời kỳ Minh Trị. Số thóc họ thu được tượng trưng cho quyền lực, vì vậy việc mang chất bẩn vào kho sau một ngày dài được coi là sự sỉ nhục đối với công việc họ đã làm giảm quyền lực của họ. Và ngày nay truyền thống này vẫn được thực hiện trên khắp Nhật Bản, không chỉ trong nhà của mọi người mà ở nhiều nhà hàng, trường học, đền thờ, và thậm chí cả các buổi lễ trà. Truyền thống này đã trở thành một phần của văn hóa Nhật Bản.


Bức họa đám rước thánh ở Bắc Kỳ, thế kỷ 19, cho thấy lối trang phục đàn ông: thân mặc áo dài, dưới bụng mặc quần,
đầu đội khăn xếp.


Tương tự, người Việt xem cơm ăn là hạt ngọc của trời vì vậy các bậc cha mẹ thường dạy con phải ăn hết chén cơm, không được phung phí. Đó cũng là truyền thống trong gia đình và xã hội Việt Nam.
Vậy Truyền thống là gì? Truyền thống là một thuật ngữ cụ thể hơn văn hóa. Hàng trăm, hàng ngàn truyền thống như vậy tạo ra bản sắc các cộng đồng dân cư và hình thành nền văn hóa của họ. Truyền thống thường được sử dụng để mô tả một sự kiện hoặc hoạt động cá nhân, nhóm người... chẳng hạn như tháo giày khi bước vào nhà của người Nhật, ăn hết cơm trong chén... Rõ ràng truyền thống là những ý tưởng và niềm tin được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng không phải là quy tắc, mà là “hướng dẫn”. Mỗi gia đình trong một nền văn hóa nhất định có thể có những truyền thống độc đáo của riêng mình trong khi vẫn chia sẻ những truyền thống chung khác của cộng đồng, dân tộc.

Quay trở lại, những lý do áo dài nam mất dần trong đời sống do “định kiến”, “ảnh hưởng của âu phục” ... chỉ là do người ta tự nghĩ ra để giải thích hoặc gán cho nguyên nhân sự mai một của áo dài nam. Đối với nghề thủ công truyền thống bị mai một cũng vậy, không hoàn toàn do đứt gãy hay sản xuất công nghiệp lấn át. Mấu chốt của việc này rất khác.

Truyền thống mà hầu hết các từ điển đều định nghĩa đơn giản: Truyền thống là phong tục tập quán (hay bất cứ thứ gì) của người đời xưa được người sau làm theo và truyền từ đời này sang đời khác (liên miên bất tận). Mỗi một vùng sẽ có mỗi phong tục tập quán, truyền thống riêng.

Chúng ta cần chú ý nội hàm quan trọng nhất của khái niệm truyền thống là “truyền” như trong “các đời nối dõi không dứt”, như “huyết thống” dòng máu, “truyền thống” liên hệ từ đời này sang đời khác. Ví dụ Chiến quốc sách: “Thiên hạ kế kì thống, thủ kì nghiệp, truyền chi vô cùng”: Thiên hạ nối tiếp các thế hệ, giữ sự nghiệp của mình, truyền lại mãi về sau không dứt.

“Truyền thống”, theo gốc từ Latinh được viết là “Tradio”, gồm động từ “Tradere (traditus) nguyên nghĩa của nó là “truyền lại”, “nhường lại”, “giao lại” và “phân phát”. Do vậy, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất của khái niệm này, truyền thống là sự kế thừa di sản văn hóa xã hội có giá trị được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Áo dài nam không “truyền” lại được thì chỉ còn lại trong bảo tàng để đánh dấu một giai đoạn lịch sự văn hóa (của một công đồng hay giai tầng xã hội của giai đoạn được đề cập).

Truyền thống phải là những gì từ trong quá khứ kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện còn có nhiều tác dụng (hay công năng, chức năng, công dụng; Không có điều này chúng sẽ mất, mai một).

Khái niệm truyền thống, phù hợp với ý tưởng phải là “văn hóa được truyền tải” nghĩa là nhấn mạnh hoặc đề cập cụ thể đến việc truyền tải như một quá trình “sống” - như một trong những việc truyền lại các kỹ năng và kiến thức nghề thủ công - đồng thời đánh giá chúng về giá trị hiện tại và khả năng tồn tại trong tương lại của chúng. Do đó, truyền thống là đại diện cho một nguyên tắc (1) văn hóa truyền tải thành công trong suốt quá trình chuyển đổi, mở rộng và truyền tải (kiến thức và kỹ năng, niềm tin…) dưới hình thức bền vững qua nhiều thế hệ. Không chuyển tải thành công, không trở thành truyền thống. Truyền thống là (2) năng động (hiểu theo nghĩa tiến trình liên tục thay đổi hoặc phát triển) không mâu thuẫn với hiện đại, mà luôn liên quan với nhau. Các cộng đồng có ý thức về cội nguồn lịch sử của mình và đặt cái “cũ” vào các quá trình lựa chọn để tự đổi mới và từ đó chuyển tải những khía cạnh đã được chứng minh, khẵng định và vẫn còn chức năng cũng như những khía cạnh có thể đổi mới trong tương lai. Do đó, khái niệm truyền thống này bao hàm sự tác động lẫn nhau giữa tính năng động và tính liên tục trong quá trình truyền tải.

Đặc trưng của truyền thống là chất lượng của sự sống động và năng động của chúng – theo cách mà chúng đồng thời vừa kỳ vọng vào sự thay đổi có thể xảy ra trong tương lai và vừa mong muốn sự quay trở lại những biến hóa và những thay đổi của lịch sử truyền thống thường có tuổi đời hàng thế kỷ.

Khái niệm mà trong đó yếu tố nhiều thế kỷ, nhiều thế hệ liên tục là cần thiết để nói về tri thức (tập tục, âm nhạc, nghề thủ công...) truyền thống (khác với các trường hợp chỉ thực sự xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn hơn). Yếu tố quan trọng để đi từ việc truyền lại đơn giản sang truyền lại truyền thống là sự lặp lại: Nghĩa là một người khi bắt đầu chuỗi trao truyền sẽ truyền lại kiến thức, nghi lễ, tập tục... dựa trên kinh nghiệm từ cuộc sống của mình cho người kế thừa (người nối nghiệp). Người kế thừa từ tiền bối này, đến lượt họ, truyền lại kiến thức nhận được - sau khi biến chúng thành kiến thức, kinh nghiệm mà chính họ thông qua ứng dụng, thực hành chúng - cho thế hệ thứ ba có ý định áp dụng kiến thức đã có trước. Việc truyền tải kiến thức kinh nghiệm không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, ở đây, cũng không phải là việc tìm kiếm một truyền thống “đích thực, nguyên bản” với bất kỳ ý nghĩa nào (như yêu cầu mặc áo dài nam cho đúng nguyên gốc ngũ thân và chê bai các áo dài nam sáng tạo mới). Vì nếu mối quan tâm của một người nào tập trung vào sự năng động và ứng dụng kiến thức, thì bất kỳ sự dòi hỏi nào để xác định và tìm cách bảo tồn các truyền thống “đích thực” và “không sai lầm” đều bị bác bỏ.

Do đó, các hằng số, hay quang phổ, phạm vi… của một truyền thống nhất định được thể hiện bởi các điều kiện mà chúng là chủ thể - sự truyền tải giữa các cá nhân (hay cộng đồng) qua nhiều thế hệ - các quá trình lựa chọn dựa trên nhu cầu gắn liền với các thế hệ tương ứng, với các ảnh hưởng văn hóa xã hội - chứ không phải bởi nội dung thực tế của chúng về mặt kiến thức và kỹ năng, vì những khía cạnh này (kiến thức và kỹ năng...) thường thay đổi liên tục khi đưa vào thực hành và đời sống. Áo dài nam không phát triển sẽ mai một. Mặt rất quan trọng khác, nghề may áo dài thủ công truyền thống vẫn là nghề thủ công sống động, đồng thời với truyền tải tích cực kết hợp tính năng động của sự thay đổi.

Áo giao lĩnh - Áo dài tứ thân (thế kỉ 17) - Áo dài ngũ thân (thời Vua Gia Long) - Áo dài Lemur (họa sĩ Cát Tường sáng tạo vào năm 1939, đến 1943 thì bị lãng quên.) - Áo dài Lê Phổ (biến thể của áo dài Lemur của họa sĩ Lê Phổ nên được gọi là áo dài Lê Phổ đến những năm 1950, phong cách áo dài Việt Nam đã trở thành trang phục truyền thống nước nhà)- rồi Áo dài Raglan vào năm 1960 do nhà may Dung ở Đakao, Sài Gòn sáng tạo ra. Áo dài tân thời Việt Nam từ những năm 1960 đến nay. Tóm tắt Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ như vậy đều có sự biến đổi to lớn để có sức sống và phát triển với nhiều kiểu dáng, chất liệu từ cổ điển, hiện đại đến phá cách, áo cưới hay áo cách tân tùy hoàn cảnh mà nó xuất hiện. Nhưng dù biến muôn hình vạn trạng thế nào thì chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt vẫn giữ được các nguyên tắc cắt, may thủ công nhưng vẫn uyển chuyển, gợi cảm, kín đáo, cá tính hay cá nhân hóa mà không trang phục nào làm được. Do quá trình “truyền tải thành công” này mà ngày nay áo dài nữ tạo ra niềm tin trong cộng đồng, xã hội, mà cũng sự thích nghi bất tận đó, áo dài truyền thống nữ có một tương lai không chút bụi mờ. Điều rất quan trọng, áo dài nữ có chức năng khá rộng, có thể sử dụng áo dài truyền thống trong lễ hội, tiếp tân, tín ngưỡng, tôn giáo, làm việc hàng ngày. Chức năng càng lớn thì truyền thống càng bền vững. Đặc biệt khác, là không chỉ cộng đồng người Kinh mà các cộng đồng các dân tộc khác đều có thể sử dụng cho dù các dân tộc khác đều có y phục truyền thống riêng.

Sẽ không thuyết phục nếu chúng ta vẫn tiếp tục với các hội thảo, tuyên truyền như cách làm hiện nay. Huế nên khôi phục lại nghề dệt may kinh đô xưa, nơi xuất phát áo dài nam (ngũ thân hoặc có thể khác) như An Giang khôi phục và phát triển các nghề dệt, may truyền thống để sản xuất tiêu dùng trong cộng đồng và xuất khẩu vải và y phục truyền thống tín ngưỡng sang Cambodia và Malaysia. Hãy làm từ gốc chứ không nên hớt ngọn, không thể chỉ khai thác phần vật thể mà không vun trồng cho di sản phi vật thể bởi các yếu tố phi vật thể tạo nên truyền thống. Chúng ta không thể ép buộc mọi người theo ý mình. Mọi di sản văn hóa truyền thống đều phải có chủ, nếu thuộc về công đồng thì phải được sự công nhận, chứng thực của cộng đồng ấy. Mỗi cộng đồng đều có truyền thống riêng.

Hãy tạo điều kiện cho nghề truyền thống có không gian, điều kiện, vật dụng, thiết bị, cơ chế... cho sự sáng tạo. Xin nhớ rằng: việc làm của ngày hôm nay sẽ là truyền thống trong tương lai. Và thế hệ này có thể từ chối một di sản nhưng thế hệ sau sẽ nhận mang chúng, lưu giữ chúng và truyền chúng cho đời sau một khi chúng có giá trị nào đó cho niềm tin, cho cộng đồng và tương lai của truyền thống đó.

Nguyễn Lực
Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

LNV - Dù đã đưa ra nhiều biện pháp, giải pháp, quy định đối với các cơ sở sản xuất tại làng nghề nhưng việc bảo vệ môi trường vẫn đang gây nhiều khó khăn cho các cấp chính quyền quản lý. Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại làng nghề cũng đặt ra nhiều thách thức. Trong đó, việc gia tăng phát triển cả về số lượng làng nghề và loại ngành nghề đã khiến ô nhiễm môi trường cũng ngày càng cao, nhiều nơi vượt quá tầm kiểm soát của các cấp chính quyền quản lý.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

LNV - Nhân dịp Tết Ất Tỵ 2025, ông Đặng Khánh Duy, Tổng giám đốc điều hành (CEO) Công ty TNHH Tân Nhiên - Chủ thể đầu tiên của tỉnh Tây Ninh có sản phẩm đạt OCOP 5 sao đã có những chia sẻ với Tạp chí Làng nghề Việt Nam.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

LNV - Dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngành thủ công, mỹ nghệ Việt Nam vẫn có thể vươn lên khi thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ đô la vào năm 2025 và 6 tỉ đô la vào năm 2030 theo Quyết định đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Tin khác

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

LNV - Nghề thủ công truyền thống của các tộc người là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc, qua việc nghiên cứu cũng chính là sự bảo lưu và phát triển bản sắc văn hóa của họ trong cuộc sống hiện đại, đồng thời cũng là sự thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất những giá trị nhân văn cùng những tinh hoa của văn hóa tộc người, đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong đó có các nghề thủ công truyền thống của người Mường Tân Lạc - Hòa Bình.
Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

LNV - Ngay từ năm 1958, sản phẩm thủ công của các làng nghề đã được chọn làm mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Trong suốt thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, thị trường xuất khẩu của sản phẩm thủ công chỉ bó hẹp trong các nước Xã hội chủ nghĩa. Đến thời kỳ đổi mới và gỡ bỏ cấm vận, các sản phẩm thủ công mới có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận với các nước Âu, Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công tăng lên nhanh chóng, và nhiều chủng loại mặt hàng mới cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có hơn 5.000 làng nghề và làng có nghề, thu hút gần 10 triệu lao động, mang lại giá trị xuất khẩu hơn 1,7 tỷ USD/năm. Những con số trên cho thấy sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đã mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng đất nước, an sinh xã hội và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.
Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.
Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam gửi thư chúc mừng đến hai làng nghề tại Hà Nội

Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam gửi thư chúc mừng đến hai làng nghề tại Hà Nội

LNV - Vừa qua, Làng nghề Gốm Sứ Bát Tràng và Làng nghề Dệt Lụa Hà Đông được Hội đồng Thủ công Thế giới công nhận là thành viên mạng lưới các Thành phố Thủ công Sáng tạo thế giới. Tạp chí Làng nghề Việt Nam xin trân trọng gửi tới độc giả thư chúc mừng của
Phú Thọ: Phát triển sản phẩm OCOP gắn với du lịch

Phú Thọ: Phát triển sản phẩm OCOP gắn với du lịch

LNV - Trong những năm gần đây, ngoài việc phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc vùng Đất Tổ, tỉnh Phú Thọ đã đẩy mạnh khai thác, quảng bá gắn với phát triển du lịch phát triển các sản phẩm, đặc sản địa phương nhằm tăng sức hấp dẫn, thu hút du khách thập phương đến tham quan vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi trên địa bàn tỉnh.
Sản phẩm OCOP làng nghề Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

Sản phẩm OCOP làng nghề Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

LNV - Làng nghề OCOP (Chương trình Mỗi Xã Một Sản Phẩm) từ lâu đã trở thành biểu tượng sống động của sự sáng tạo, khéo léo và tâm huyết. Đây không chỉ là nơi gìn giữ những giá trị truyền thống quý báu mà còn là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, mang lại sự gắn kết giữa các vùng miền.
Nâng cao vị thế sản phẩm OCOP miền núi Quảng Ngãi

Nâng cao vị thế sản phẩm OCOP miền núi Quảng Ngãi

LNV - Thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chủ yếu nông, lâm nghiệp, để tạo nguồn sinh kế ổn định cho người dân, tỉnh đã thực hiện nhiều chương trình trong đó thành công là phát triển sản phẩm OCOP gắn với thế mạnh địa phương.
Căn cứ Tà Thiết - Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt

Căn cứ Tà Thiết - Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt

LNV - Trong những dịp lễ hội, Tết, các ngày kỷ niệm lịch sử quan trọng của đất nước, nếu như các bạn muốn thực hiện một chuyến du khảo, du lịch “Về nguồn”- đến với Bình Phước, về Lộc Ninh thăm căn cứ Tà Thiết là một lựa chọn tuyệt vời.
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-61
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-66
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-67
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-91
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-32
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-50
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-33
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-51
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-54
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-75
Giao diện di động