Hà Nội: 31°C Hà Nội
Đà Nẵng: 28°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 32°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 28°C Thừa Thiên Huế

Những lợi ích, thuận lợi khó khăn trong xây dựng và phát triển nhãn hiệu tập thể và chỉ dẫn địa lý

LNV - Thời gian qua, Nhãn hiệu tập thể đang dần chứng minh vai trò quan trọng trong phát triển các làng nghề, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động sản xuất, thương mại và nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm làng nghề của Việt Nam. Nhãn hiệu tập thể đã và đang nhận được sự quan tâm rất lớn của các bộ, ngành và địa phương, số lượng sản phẩm được bảo hộ nhãn hiệu tập thể tăng nhanh.
1. Nhãn hiệu tập thể:

Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.

Có thể hiểu nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu chung của tập thể, các thành viên của tập thể đó đều được sử dụng và quảng bá cho sản phẩm của mình. Tập thể ở đây có thể là hợp tác xã, hội làng nghề, tổ hợp tác, tổng công ty, các hội nghề khác, ….Bên cạnh quyền được sử dụng nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm của mình, các thành viên phải có nghĩa vụ tuân thủ quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể.

Thông thường, nhãn hiệu tập thể hay đi liền với tên địa danh để chỉ sản phẩm có xuất xứ từ địa phương và vùng lãnh thổ mang địa danh đó. Việt Nam từ lâu là một nước có nhiều làng nghề, mỗi vùng miền đều có nét đặc trưng riêng về điều kiện tự nhiên, với đặc thù bản địa gắn liền với những nét văn hóa đặc trưng nên sản phẩm làm ra có những nét đặc thù riêng của từng vùng miền mà vùng khác không thể có được hoặc sản phẩm có chất lượng không giống nhau. Việc chọn lựa và bảo hộ nhãn hiệu tập thể đi liền với tên địa danh chắc chắn sẽ đem đến nhiều lợi ích cho tập thể và cho các thành viên của tập thể. Danh tiếng và chất lượng của sản phẩm xuất xứ từ vùng mang địa danh chắc chắn sẽ nhanh chóng được người tiêu dùng gần xa đón nhận.


Hơn nữa, sản phẩm có gắn nhãn hiệu sẽ giúp người tiêu dùng nhận biết và ghi nhớ nhiều hơn về sản phẩm đó. Ngoài ra, nhãn hiệu tập thể có tên địa danh đi kèm khi gắn trên sản phẩm cũng được coi là dấu hiệu đảm bảo về mặt chất lượng cho người tiêu dùng vì rằng danh tiếng về sản phẩm từ vùng địa danh đó đã được khẳng định theo thời gian.

Nói chung, nhãn hiệu tập thể được xem là phương thức hiệu quả để các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các hợp tác xã, các làng nghề, hội ngành nghề, … quảng bá sản phẩm của tập thể ra thị trường, qua đó giúp đỡ từng hội viên phát triển sản phẩm của mình. Nếu không có tập thể, từng cá nhân chắc khó có nhãn hiệu riêng cho sản phẩm của mình, và như vậy sản phẩm làm ra sẽ không thể bán với giá cao do người tiêu dùng không tin tưởng.

2. Lợi ích của “nhãn hiệu tập thể” đối với sản phẩm làng nghề:

Thứ nhất, được Nhà nước hỗ trợ và tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các làng nghề, các hội ngành nghề trong cả nước bảo tồn và phát triển nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm đặc trưng của vùng. Các đề án xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho các địa phương được trung ương và điạ phương hỗ trợ về kinh phí xây dựng, quảng bá và đăng ký bảo hộ nên mang đến nhiều lợi ích cho các hội viên tham gia hội và sử dụng nhãn hiệu tập thể

Thứ hai, các hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình có nghề, các làng nghề… do không có nhiều kinh phí nên không thể xây dựng và phát triển nhãn hiệu hay thương hiệu riêng cho mình. Việc tham gia hội và sử dụng nhãn hiệu tập thể sẽ giúp các hộ gia đình dễ tiêu thụ sản phẩm làm ra hơn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc tràn ngập thị trường nên sản phẩm không có nhãn hiệu thường rất khó tiêu thụ.

Thứ ba, hội viên cùng sử dụng nhãn hiệu tập thể chỉ tốn một chi phí cho việc đăng ký và quảng bá nhãn hiệu, nhưng lại có được nhãn hiệu để nhiều người cùng sử dụng cho sản phẩm của mình, qua đó nâng cao giá trị sản phẩm của vùng góp phần cải thiện được đời sống cho các hội viên.

Thứ tư, tham gia tập thể, các làng nghề, hội ngành nghề, … ngoài việc các hội viên có được nhãn hiệu tập thể để quảng bá cho sản phẩm của mình, hội viên sẽ được tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật, được tập huấn và hỗ trợ thường xuyên về kỹ năng, được chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm với nhau, được hỗ trợ các giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, … nên sản phẩm làm ra sẽ đảm bảo chất lượng đồng đều, năng suất cao nên rất được giá, đời sống người dân làng nghề qua đó được cải thiện. Ngược lại, nếu sản xuất đơn lẻ, người dân làng nghề sẽ gặp nhiều khó khăn.

Thứ năm, khả năng tiếp cận thị trường lớn nhiều hơn - Phần lớn các sản phẩm làng nghề ít có khả năng tiếp cận với thị trường lớn vì không có nhãn hiệu. Các hộ sản xuất cáclàng nghề thường bán lại cho thương lái tại địa phương hoặc tiêu thụ tại chỗ nên giá bán thường không cao. Khi tham gia với cộng đồng, sản phẩm làm ra của hội viên tập hợp lại được nhiều hơn nên có thể cung cấp ổn định cho các thành phố lớn nên sẽ bán được giá hơn.

Thứ sáu, với mọi loại hàng hóa, sản phẩm có thương hiệu và thông tin rõ ràng luôn luôn có giá cao hơn sản phẩm không có thương hiệu và các sản phẩm làng nghề không là một ngoại lệ. Ngày nay người tiêu dùng chỉ an tâm khi sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng nên sản phẩm không có thương hiệu thì khó tiêu thụ và cạnh tranh trên thị trường.

Thứ bảy, nhãn hiệu tập thể là công cụ tiếp thị và quảng bá các sản phẩm mang đặc trưng của một vùng nhất định nhanh nhất thị trường. Lợi thế về địa danh đã được khẳng định nên sản phẩm dễ dàng được người tiêu dùng đón nhận.

3. Nhãn hiệu sẽ trở thành hàng rào chắc chắn giúp chống lại nạn hàng giả, hàng kém chất lượng.

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam hiện nay có trên 5.400 làng nghề, góp tỷ trọng lớn trong 1,7 tỷ USD tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ mỗi năm. Trong những năm vừa qua, các địa phương đã tạo ra nhiều cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tại làng nghề phát triển.

Trong đó, sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ để xây dựng thương hiệu, định vị cho sản phẩm làng nghề là một trong những giải pháp tốt, được nhiều địa phương thực hiện. Tuy nhiên, một số làng nghề dù đã xây dựng được nhãn hiệu tập thể, nhưng vẫn chưa bảo vệ và khai thác hiệu quả.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nhãn hiệu là cách để các làng nghề thể hiện sức mạnh của thương hiệu, tạo điều kiện xuất khẩu sản phẩm ra nhiều quốc gia trên thế giới.
Nhãn hiệu sẽ trở thành hàng rào chắc chắn giúp chống lại nạn hàng giả, hàng kém chất lượng. Do đó, cùng với sự hỗ trợ của ngành chức năng, các hộ dân làng nghề cần đổi mới tư duy, chủ động đề xuất xây dựng nhãn hiệu tập thể và có ý thức gắn lợi ích cá nhân với lợi ích chung để cùng phát triển trong quá trình khai thác, quản lý, phát triển nhãn hiệu tập thể. Có như vậy, các làng nghề mới giữ vững được vị thế và khẳng định được tên tuổi trên thị trường.

4. Những hạn chế trong xây dựng hồ sơ đăng ký nhãn hiệu tập thể:

Thời gian qua, Nhãn hiệu tập thể đang dần chứng minh vai trò quan trọng trong phát triển các làng nghề, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động sản xuất, thương mại và nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm làng nghề của Việt Nam. Nhãn hiệu tập thể đã và đang nhận được sự quan tâm rất lớn của các bộ, ngành và địa phương, số lượng sản phẩm được bảo hộ nhãn hiệu tập thể tăng nhanh.

Tuy nhiên, hiện vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn để có thể xây dựng, quản lý và phát triển các nhãn hiệu tập thể.

Khó khăn đầu tiên có thể kể đến đó là chưa có tiêu chí hoặc phương pháp rõ ràng trong việc lựa chọn hình thức bảo hộ: Chỉ dẫn địa lý (CDĐL), Nhãn hiệu tập thể (NHTT) hay Nhãn hiệu chứng nhận (NHCN), đặc biệt là đối với các CDĐL.

Cụ thể: đối với việc đăng ký CDĐL cần dựa vào điều kiện của sản phẩm như: danh tiếng, chất lượng đặc thù của sản phẩm do điều kiện địa lý quyết định. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm lựa chọn dấu hiệu đăng ký chưa được biết đến rộng rãi, không phải là tên gọi truyền thống, đã được sử dụng trong thương mại, dẫn đến những khó khăn trong công tác thẩm định hồ sơ đăng ký cũng như việc sử dụng, phát triển nhãn hiệu đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm.

Tiếp theo là về chủ thể đăng ký bảo hộ SHTT. Đối với các NHTT, nhiều địa phương lựa chọn các tổ chức chính trị - xã hội (Hội nông dân, Hội phụ nữ) làm chủ sở hữu, gây khó khăn trong công tác quản lý, phát triển bởi NHTT không gắn với mục tiêu hoạt động, chức năng, nhiệm vụ được giao của tổ chức. Đối với NHCN thì chủ yếu là các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là UBND huyện, các phòng chuyên môn, thiếu chức năng và năng lực về chứng nhận sản phẩm, chưa có sự tách biệt giữa quản lý nhà nước và mối quan hệ dân sự theo quy định của Luật SHTT. Đối với các CDĐL, đây là một đối tượng đặc biệt, yêu cầu cao về chuyên môn SHTT, do đó nhiều địa phương giao cho UBND huyện, Chi cục thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ sở hữu gây khó khăn cho các chủ thể trong hoạt động xây dựng hồ sơ, quy định và tổ chức bộ máy quản lý các CDĐL.

Tiếp theo là vấn đề lựa chọn sản phẩm để bảo hộ chưa gắn với thực tiễn và yêu cầu sản xuất, kinh doanh ở địa phương, cũng như nhu cầu của thị trường. Sản phẩm bảo hộ thường là các sản phẩm nguyên liệu thô, rất ít sản phẩm chế biến, hoặc những sản phẩm không gắn với truyền thống. Điều này làm hạn chế sự gia tăng giá trị cho sản phẩm tương xứng với tiềm năng và danh tiếng của các làng nghề, địa phương.

Ngoài ra, việc lựa chọn các tiêu chí bảo hộ trong CDĐL, NHCN hay điều kiện bảo hộ NHTT vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, đặc biệt là chưa gắn với: Sử dụng các tiêu chí phổ biến, không phải là các tiêu chí mang đặc trưng, gắn liền với điều kiện địa lý của sản phẩm; Tiêu chí chất lượng không có tính khả thi trong kiểm soát (tiêu chí về vi lượng, tiêu chí không sử dụng được bằng phương pháp cảm quan, phải sử dụng phân tích bằng kỹ thuật chuyên sâu - phòng thí nghiệm...); Sử dụng các tiêu chí tự nguyện như TCVN, VIETGAP, GLOBALGAP...

Một trong những hạn chế lớn nhất trong xây dựng hồ sơ đăng ký nhãn hiệu tập thể có thể đề cập tới là quy trình kỹ thuật, phương pháp sản xuất được lựa chọn mang tính phổ cập, chưa quan tâm đến các yếu tố truyền thống, đặc trưng riêng đối với các sản phẩm. Do đó dẫn đến những khó khăn trong hoạt động kiểm soát, đặc biệt là chưa đáp ứng các yêu cầu để bảo hộ ở nước ngoài như: Nhật Bản, EU...

TS Nguyễn Thị Tòng
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ứng dụng Mỹ thuật sản phẩm Làng nghề Việt Nam

Một số đề xuất về xây dựng, quản lý nhãn hiệu tập thể:

+ Theo đề xuất của các chuyên gia, các tổ chức, tập thể cần có sự quản lý tốt, khai thác hiệu quả nhãn hiệu tập thể. Ngoài ra, các làng nghề cần có chính sách quy hoạch các cơ sở để từ đó tạo nên quy mô sản xuất lớn hơn, đồng bộ hơn, có sự kết nối tốt giữa các cơ sở trong và ngoài làng nghề.
+ Bên cạnh đó, cũng cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các hộ sản xuất về tầm quan trọng của nhãn hiệu tập thể. Từ đó, chính họ sẽ là những người trực tiếp quản lý nhãn hiệu tập thể, xây dựng và phát triển thương hiệu tốt hơn cho chính các sản phẩm của làng nghề.
+ Tăng cường công tác đào tạo, nâng cao năng lực: trong đó cần xây dựng và bổ sung các nội dung đào tạo, tập huấn về quản trị và phát triển nhãn hiệu tập thể trong các chương trình tập huấn, nâng cao năng lực cho các HTX, cán bộ quản lý HTX, làng nghề, đào tạo nghề nông thôn. Xác định năng lực quản trị và phát triển thương hiệu làng nghề là một nội dung chính trong chương trình đào tạo, nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hội/hiệp hội, đặc biệt là năng lực xúc tiến thương mại.
+ Đối với hoạt động xây dựng hồ sơ đăng ký bảo hộ: việc lựa chọn hình thức bảo hộ (CDĐL, NHTT, NHCN) cần dựa trên điều kiện (quy mô, đặc thù về sản phẩm, chất lượng...), yêu cầu của từng hình thức bảo hộ để quyết định. Đặc biệt là đối với các CDĐL, sản phẩm được lựa chọn cần có danh tiếng, chất lượng đặc thù gắn với điều kiện của làng nghề, địa phương, kỹ thuật truyền thống, dấu hiệu được lựa chọn để bảo hộ phải gắn với hoạt động sản xuất, thương mại.

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Công nhận làng Việt Hải là điểm du lịch cộng đồng

Công nhận làng Việt Hải là điểm du lịch cộng đồng

LNV - UBND TP Hải Phòng vừa chính thức công nhận làng Việt Hải (đặc khu Cát Hải) là Điểm du lịch cộng đồng. Đây được xem là bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng, gắn với định hướng chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.
Người lính năm xưa trở thành nông dân điển hình hôm nay

Người lính năm xưa trở thành nông dân điển hình hôm nay

LNV - Trở về sau những năm tháng quân ngũ, cựu chiến binh Dương Đình Tuấn (xã Quỳnh Văn, Nghệ An) vẫn miệt mài gắn bó với ruộng đồng, chuồng trại. Với sự cần cù và tinh thần học hỏi, ông đã trở thành tấm gương điển hình trong phát triển nông nghiệp, góp p
Lễ hội chọi trâu truyền thống Đồ Sơn 2025 được truyền hình trực tiếp trên VTVgo

Lễ hội chọi trâu truyền thống Đồ Sơn 2025 được truyền hình trực tiếp trên VTVgo

LNV - Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn 2025 tổ chức từ 22/9 đến 7/10, phần Hội diễn ra ngày 30/9, truyền hình trực tiếp trên VTVgo và các nền tảng số.
Quảng Ninh: Rực rỡ cờ hoa chào mừng Đại hội Đảng bộ

Quảng Ninh: Rực rỡ cờ hoa chào mừng Đại hội Đảng bộ

LNV - Những ngày này, không khí chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2025 - 2030 đang rộn ràng khắp nơi. Từng tuyến đường, con phố, các công trình trên địa bàn tỉnh đang khoác lên mình sắc màu rực rỡ của cờ hoa, của các biểu ngữ, pa nô, áp phích; tạo nên khí thế phấn khởi, tràn đầy niềm tin, sẵn sàng cho một kỳ Đại hội thành công rực rỡ.
Tổng Bí thư và chuyện "chống cô đơn cho người cao tuổi, sáng đón đi, chiều đưa về"

Tổng Bí thư và chuyện "chống cô đơn cho người cao tuổi, sáng đón đi, chiều đưa về"

LNV - Một đề xuất rất mới mẻ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân vừa được Tổng Bí thư Tô Lâm gợi ý, khi ông phát biểu tại hội nghị triển khai 4 nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị hôm qua.
Giao diện di động