Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII Đột phá vị thế kinh tế tư nhân
triển đất nước.
Thời gian qua, việc thực hiện Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng song vẫn còn nhiều hạn chế, cần có chủ trương của Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời tháo gỡ, như: Tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có xu hướng giảm dần; có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao động chậm được cải thiện, năng lực độc lập, tự chủ thấp. Công nghiệp phát triển thiếu bền vững. Các ngành dịch vụ quan trọng chiếm tỷ trọng nhỏ, mối liên kết với các ngành sản xuất còn yếu, v.v...
Riêng kinh tế tư nhân (trong đó có kinh tế làng nghề) mấy năm gần đây, đã chiếm khoảng 40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, đóng góp khoảng 34% thuế thu nhập doanh nghiệp, cao hơn mức 27,7% của 17 doanh nghiệp Nhà nước, góp phần quan trọng cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; vẫn còn những rào cản, nút thắt cần tháo gỡ để phát triển hơn nữa với tư cách là khu vực kinh tế có tiềm năng to lớn của dân tộc.
Đại hội XIII (năm 2021) đã quyết định: "Tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo". Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước ta đã có thế và lực mới; chúng ta đang xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Bên cạnh đó, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường; nhất là tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần được nhận thức và khai thác. Từ đó đặt ra những yêu cầu thực tiễn cần phải ban hành một Nghị quyết mới để đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII được ban hành đã khẳng định những định hướng để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng nêu trong Văn kiện Đại hội XIII.
Dưới đây, xin tóm tắt những nội dung cốt lõi của Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII ngày 17/11/2022 để làng nghề chúng ta cùng nghiên cứu (những câu đặt trong ngoặc kép là trích từ Nghị quyết 29).
Một là, nhận thức sâu sắc thêm về CNH-HĐH là "quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo". Vai trò, vị trí và tầm quan trọng của CNH-HĐH với sự phát triển kinh tế-xã hội "là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao". Trong quá trình CNH-HĐH đất nước, cần "bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động".
Hai là, để thực hiện thành công CNH-HĐH, yêu cầu then chốt là "phải khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng và địa phương; lợi thế của nền kinh tế đi sau và đang trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang chế tạo, chế biến, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp. Coi trọng phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt, chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu".
Ba là, để phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt quan trọng là nguồn lực từ dân, tại Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII, tư duy lý luận của Đảng về chủ thể và nguồn lực thực hiện CNH, HĐH đã được bổ sung, hoàn chỉnh, xác định “Nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp FDI có vai trò quan trọng, đột phá”. Nghị quyết cũng nhấn mạnh các trọng tâm, trọng điểm, các lĩnh vực ngành nghề cần ưu tiên, nhằm tập trung nguồn lực thực hiện để phát trển các cực tăng trưởng, các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng.
Bốn là, nhấn mạnh vai trò của CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn trong chiến lược CNH-HĐH đất nước, Nghị quyết yêu cầu triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, hạ tầng kết nối nông thôn với đô thị, nhất là hạ tầng thủy lợi, giao thông vận tải, hạ tầng thương mại, kho bãi, bảo quản, chế biến nông sản; đẩy nhanh xây dựng hạ tầng số và dữ liệu số nông nghiệp, nông thôn.
Xin nhấn mạnh: Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII khẳng định “doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo” trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Đây là một đột phá mới, rất quan trọng trong nhiệm vụ đổi mới thể chế xưa nay chưa từng có về vị thế của kinh tế tư nhân; một nhận thức rất mới, cầu thị và thực tế, qua kinh nghiệm nhiều năm xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Kể cả trong Nghị quyết số 10-NQ ngày 3/6/2017 của TW5 Khóa XII “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, khu vực kinh tế tư nhân cũng mới chỉ được xác định là “một động lực quan trọng” của nền kinh tế.
Xin phân tích thêm về nội dung “động lực”, “chủ đạo” của kinh tế làng nghề cùng với kinh tế nhà nước trong vị thế mới.
Chúng ta đều hiểu Kinh tế nhà nước không chỉ gồm doanh nghiệp nhà nước (DNNN) mà bao gồm hai cấu thành sau: (i) Các DN mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và DN mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; DNNN đang nắm giữ những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; (ii) Các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và sở hữu toàn dân như đất đai, rừng, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia...mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Với lực lượng ấy, kinh tế Nhà nước giữ vai trò “động lực”, “chủ đạo” của nền kinh tế là lẽ đương nhiên.
Kinh tế làng nghề là một bộ phận của kinh tế tư nhân-kinh tế dân tộc có mặt ở khắp các vùng trong cả nước, có đặc trưng là nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa của nghề thủ công truyền thống, với các giá trị to lớn về văn hóa, kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Với vai trò “chủ đạo”, kinh tế làng nghề bổ trợ cho KTNN trong những ngành nghề công nghiệp phù trợ, với mạng lưới rộng khắp các hộ kinh doanh làm “vệ tinh” cho KTNN để cùng bảo đảm vai trò chủ dạo. Kinh tế làng nghề còn giữ vai trò “chủ đạo” trong bảo tồn và phát huy giá trị nghề thủ công và nghệ nhân làng nghề. Với vai trò “động lực”; kinh tế làng nghề thúc đẩy thanh niên nông thôn khởi nghiệp, mở mang ngành nghề thủ công, qua đó giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, tạo hệ sinh thái mới trong chấn hưng kinh tế dân tộc, phát huy sức mạnh sáng tạo của làng nghề qua Chương trình OCOP, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII phác họa con đường CNH-HĐH đưa đất nước đến tương lai hùng cường và thịnh vượng trong mấy chục năm tới đã khẳng định rõ hơn nữa vị trí, vai trò của doanh nghiệp tư nhân – cũng là kinh tế tư nhân, kinh tế dân tộc, trong đó có những cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề. Đây thật sự là một vận hội mới rất thuận lợi để các cơ sở sản xuất kinh doanh, các làng nghề phát triển mạnh mẽ xứng với giá trị văn hóa và tiềm năng to lớn của nghề thủ công nước ta. Xin gợi ý một số việc sau đây:
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề, để thể hiện xứng với vị thế là một thành phần của “động lực chính, chủ đạo” trong CNH, HĐH đất nước, làng nghề chúng ta có nhiều hoạt động phải thực hiện, trong đó có những việc lâu nay vẫn làm nhưng nay phải đẩy mạnh với tư duy mới, cách làm mới.
Một là, củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề, chủ yếu là các hộ kinh doanh.
Đó là những hoạt động rất quan trọng như: (i) nghiên cứu, điều tra, cập nhật những biến động mới của thị trường (trong nước và nước ngoài) sau những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và nay đang xuất hiện những biến thể mới; tác động của cuộc xung đột Nga-Ukraine; lạm phát trầm trọng ở nhiều nước ... ảnh hưởng đến sức mua và cơ cấu của thị trường; (ii) nghiên cứu đổi mới thiết kế sản phẩm, kiểu dáng, mẫu mã theo thị hiếu mới của người tiêu dùng; (iii) củng cố tổ chức sản xuất kinh doanh, thực hiện “sản xuất xanh”, liên kết theo chuỗi giá trị; (iv) đổi mới xúc tiến thương mại: xây dựng thương hiệu, đăng ký chỉ dẫn địa lý, đặt mã QR Code, đa dạng hóa thị trường; ứng dụng thương mại điện tử... Với các làng nghề, cần xây dựng “làng nghề văn hóa”, tạo lập những tập thể cố kết, gắn bó vì sự nghiệp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của nghề thủ công, góp sức xây dựng nông thôn mới.
Trong khi triển khai các hoạt động trên đây, các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề cần khai thác các chủ trương, chính sách, các đề án khuyến khích phát triển ngành nghề thủ công và làng nghề, như Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ “Về phát triển ngành nghề nông thôn”, “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021- 2030” được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 7/7/2022, trước mắt là những chính sách trực tiếp tháo gỡ khó khăn cho cơ sở sau đại dịch Covid-19. Điều quan trọng là các cơ sở làng nghề cần nắm vững các điều, khoản liên quan, đề xuất các biện pháp để thực hiện đạt kết quả thiết thực.
Hai là, nêu cao khát vọng phát triển, đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp trong làng nghề.
Điều đáng mừng là tại các làng nghề thời gian gần đây, phong trào khởi nghiệp đang phát triển khá sôi nổi. Nhiều bạn trẻ, dù đã tốt nghiệp đại học hoặc trung cấp, đều nhiệt tình, hăng hái về nông thôn lập cơ sở sản xuất kinh doanh, làm việc một cách độc lập và tự chủ, dám nghĩ dám làm, đương đầu thách thức để làm giàu ngay tại quê hương, với tâm niệm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của nghề thủ công và làng nghề. Họ đang rất cần sự trợ giúp của các làng nghề, các hiệp hội ngành hàng, của cơ quan Nhà nước, các tổ chức sự nghiệp trong việc tạo thuận lợi về cơ chế, chính sách (nhất là về vốn, thuế và mặt bằng sản xuất).
Về phía Nhà nước, rất cần cải thiện môi trường kinh doanh mà thực chất là thực hiện quyền tự do kinh doanh, tạo điều kiện cho thanh niên làng nghề khởi nghiệp.
Theo các cơ quan nghiên cứu, thời gian gần đây, việc cải thiện môi trường kinh doanh ở nước ta chưa có nhiều tiến bộ đáng kể. Nếu như Luật Đầu tư phiên bản năm 2014 quy định 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, thì đến Luật Đầu tư phiên bản 2020 đã giảm xuống còn 227 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Nhìn về số lượng thì thấy đã có giảm, tuy nhiên, thực tế vẫn mang nặng tính hình thức hơn là thực chất. Vẫn còn tình trạng “cài cắm” điều kiện kinh doanh trong các thông tư do cấp bộ ban hành; còn những phiền hà, khó khăn trong thủ tục hành chính; sự mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật... khiến cho môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh của người dân. Theo đánh giá của Viện Fraser, tính từ năm 2000 đến nay, xếp hạng tự do kinh tế của Việt Nam luôn nằm ở vị trí dưới 100 trong tổng số 165 nền kinh tế được xếp hạng: năm 2000 Việt Nam xếp thứ 105; năm 2022 xếp thứ 113. Kết quả xếp hạng tự do kinh tế của Quỹ Di sản (Heritage Foundation) cũng tương tự: năm 2022, Việt Nam đứng thứ 84 trên 160 nền kinh tế; trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam chỉ xếp trên Lào (thứ 151) và Campuchia (thứ 106), còn lại đều kém các nước khác (theo VietnamNet, ngày 25/1/2023).
Thực tế cho thấy, tự do kinh doanh cũng đang là mong mỏi tha thiết của làng nghề chúng ta. Vì vậy, Nhà nước cần cải cách một cách thực chất danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; đơn giản hoá, minh bạch về thủ tục hành chính; duy trì sự ổn định của chính sách, khắc phục những bất cập trong quy định pháp luật, v.v...
Tóm lại, Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII ngày 17/11/2022 đã khẳng định vị thế của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, - một bước đột phá có ý nghĩa lịch sử về thể chế, tạo vận hội mới rất quan trọng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề. Rất mong các cơ quan nhà nước, các hiệp hội ngành hàng sớm có sự chỉ đạo, hướng dẫn để Nghị quyết đi vào cuộc sống, giúp cho làng nghề có bước phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
CGCC. Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam
Tin liên quan
Tin mới hơn

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ
15:29 | 21/01/2025 Nghiên cứu trao đổi

Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao
14:44 | 14/01/2025 Nghiên cứu trao đổi

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ
15:28 | 05/01/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ
09:22 | 17/12/2024 Nghiên cứu trao đổi

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững
09:24 | 09/12/2024 Nghiên cứu trao đổi

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình
09:23 | 09/12/2024 Nghiên cứu trao đổi
Tin khác

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu
13:51 | 06/12/2024 Nghiên cứu trao đổi

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam
09:08 | 28/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ
11:00 | 26/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?
08:56 | 14/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu
13:43 | 07/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam
08:50 | 04/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề
09:26 | 25/10/2024 Nghiên cứu trao đổi

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai
13:48 | 11/10/2024 Nghiên cứu trao đổi

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu
09:55 | 30/09/2024 Nghiên cứu trao đổi

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước
11:18 | 16/09/2024 Nghiên cứu trao đổi

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch
17:27 | 13/09/2024 Nghiên cứu trao đổi

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc
11:04 | 11/09/2024 Nghiên cứu trao đổi

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực
11:21 | 10/09/2024 Nghiên cứu trao đổi

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)
10:44 | 01/08/2024 Nghiên cứu trao đổi

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề
15:14 | 26/07/2024 Nghiên cứu trao đổi

TP. HCM: Khánh thành biểu tượng Cột mốc chủ quyền đảo Trường Sa tại TP. Thủ Đức
13:50 Tin tức

TP. HCM: Thông tin về tình hình du lịch trong dịp Tết và mục tiêu năm 2025
13:49 Tin tức

Nâng sức cạnh tranh sản phẩm OCOP từ yếu tố bản địa
10:23 OCOP

Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hùng Vĩ: Lễ hội truyền thống là tài nguyên văn hóa tinh thần của dân tộc
10:16 Văn hóa - Xã hội

Mâm cúng và văn khấn Rằm tháng Giêng 2025
10:06 Văn hóa - Xã hội









