Hà Nội: 15°C Hà Nội
Đà Nẵng: 20°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 18°C Thừa Thiên Huế

Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII Đột phá vị thế kinh tế tư nhân

LNV - Từ những năm công cuộc Đổi Mới được triển khai đến nay, vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân, trong đó có kinh tế làng nghề luôn là một vấn đề then chốt được đặc biệt quan tâm trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường nước ta.
Một tin vui rất quan trọng đối với chúng ta: ngày 17/11/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” trong đó đã khẳng định để thực hiện CNH-HĐH, “Nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp FDI có vai trò quan trọng, đột phá” (trích Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 17/11/2022). Đây là một đột phá rất quan trọng về thể chế có ý nghĩa lịch sử, một vận hội mới chưa từng có tạo điều kiện cho làng nghề chúng ta phát huy tiềm năng, đóng góp nhiều hơn nữa trong công cuộc phát
triển đất nước.

ĐỘT PHÁ MỚI TỪ THỰC TIỄN

Thời gian qua, việc thực hiện Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng song vẫn còn nhiều hạn chế, cần có chủ trương của Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời tháo gỡ, như: Tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có xu hướng giảm dần; có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao động chậm được cải thiện, năng lực độc lập, tự chủ thấp. Công nghiệp phát triển thiếu bền vững. Các ngành dịch vụ quan trọng chiếm tỷ trọng nhỏ, mối liên kết với các ngành sản xuất còn yếu, v.v...

Riêng kinh tế tư nhân (trong đó có kinh tế làng nghề) mấy năm gần đây, đã chiếm khoảng 40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, đóng góp khoảng 34% thuế thu nhập doanh nghiệp, cao hơn mức 27,7% của 17 doanh nghiệp Nhà nước, góp phần quan trọng cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; vẫn còn những rào cản, nút thắt cần tháo gỡ để phát triển hơn nữa với tư cách là khu vực kinh tế có tiềm năng to lớn của dân tộc.

Đại hội XIII (năm 2021) đã quyết định: "Tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo". Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước ta đã có thế và lực mới; chúng ta đang xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Bên cạnh đó, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường; nhất là tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần được nhận thức và khai thác. Từ đó đặt ra những yêu cầu thực tiễn cần phải ban hành một Nghị quyết mới để đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII được ban hành đã khẳng định những định hướng để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng nêu trong Văn kiện Đại hội XIII.

Dưới đây, xin tóm tắt những nội dung cốt lõi của Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII ngày 17/11/2022 để làng nghề chúng ta cùng nghiên cứu (những câu đặt trong ngoặc kép là trích từ Nghị quyết 29).

Một là, nhận thức sâu sắc thêm về CNH-HĐH là "quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo". Vai trò, vị trí và tầm quan trọng của CNH-HĐH với sự phát triển kinh tế-xã hội "là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao". Trong quá trình CNH-HĐH đất nước, cần "bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động".

Hai là, để thực hiện thành công CNH-HĐH, yêu cầu then chốt là "phải khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng và địa phương; lợi thế của nền kinh tế đi sau và đang trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang chế tạo, chế biến, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp. Coi trọng phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt, chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu".

Ba là, để phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt quan trọng là nguồn lực từ dân, tại Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII, tư duy lý luận của Đảng về chủ thể và nguồn lực thực hiện CNH, HĐH đã được bổ sung, hoàn chỉnh, xác định “Nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp FDI có vai trò quan trọng, đột phá”. Nghị quyết cũng nhấn mạnh các trọng tâm, trọng điểm, các lĩnh vực ngành nghề cần ưu tiên, nhằm tập trung nguồn lực thực hiện để phát trển các cực tăng trưởng, các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng.

Bốn là, nhấn mạnh vai trò của CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn trong chiến lược CNH-HĐH đất nước, Nghị quyết yêu cầu triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, hạ tầng kết nối nông thôn với đô thị, nhất là hạ tầng thủy lợi, giao thông vận tải, hạ tầng thương mại, kho bãi, bảo quản, chế biến nông sản; đẩy nhanh xây dựng hạ tầng số và dữ liệu số nông nghiệp, nông thôn.

Xin nhấn mạnh: Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII khẳng định “doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo” trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Đây là một đột phá mới, rất quan trọng trong nhiệm vụ đổi mới thể chế xưa nay chưa từng có về vị thế của kinh tế tư nhân; một nhận thức rất mới, cầu thị và thực tế, qua kinh nghiệm nhiều năm xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Kể cả trong Nghị quyết số 10-NQ ngày 3/6/2017 của TW5 Khóa XII “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, khu vực kinh tế tư nhân cũng mới chỉ được xác định là “một động lực quan trọng” của nền kinh tế.

Xin phân tích thêm về nội dung “động lực”, “chủ đạo” của kinh tế làng nghề cùng với kinh tế nhà nước trong vị thế mới.

Chúng ta đều hiểu Kinh tế nhà nước không chỉ gồm doanh nghiệp nhà nước (DNNN) mà bao gồm hai cấu thành sau: (i) Các DN mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và DN mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; DNNN đang nắm giữ những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; (ii) Các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và sở hữu toàn dân như đất đai, rừng, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia...mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Với lực lượng ấy, kinh tế Nhà nước giữ vai trò “động lực”, “chủ đạo” của nền kinh tế là lẽ đương nhiên.

Kinh tế làng nghề là một bộ phận của kinh tế tư nhân-kinh tế dân tộc có mặt ở khắp các vùng trong cả nước, có đặc trưng là nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa của nghề thủ công truyền thống, với các giá trị to lớn về văn hóa, kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Với vai trò “chủ đạo”, kinh tế làng nghề bổ trợ cho KTNN trong những ngành nghề công nghiệp phù trợ, với mạng lưới rộng khắp các hộ kinh doanh làm “vệ tinh” cho KTNN để cùng bảo đảm vai trò chủ dạo. Kinh tế làng nghề còn giữ vai trò “chủ đạo” trong bảo tồn và phát huy giá trị nghề thủ công và nghệ nhân làng nghề. Với vai trò “động lực”; kinh tế làng nghề thúc đẩy thanh niên nông thôn khởi nghiệp, mở mang ngành nghề thủ công, qua đó giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, tạo hệ sinh thái mới trong chấn hưng kinh tế dân tộc, phát huy sức mạnh sáng tạo của làng nghề qua Chương trình OCOP, góp phần xây dựng nông thôn mới.

VẬN HỘI MỚI CHO LÀNG NGHỀ

Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII phác họa con đường CNH-HĐH đưa đất nước đến tương lai hùng cường và thịnh vượng trong mấy chục năm tới đã khẳng định rõ hơn nữa vị trí, vai trò của doanh nghiệp tư nhân – cũng là kinh tế tư nhân, kinh tế dân tộc, trong đó có những cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề. Đây thật sự là một vận hội mới rất thuận lợi để các cơ sở sản xuất kinh doanh, các làng nghề phát triển mạnh mẽ xứng với giá trị văn hóa và tiềm năng to lớn của nghề thủ công nước ta. Xin gợi ý một số việc sau đây:

Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề, để thể hiện xứng với vị thế là một thành phần của “động lực chính, chủ đạo” trong CNH, HĐH đất nước, làng nghề chúng ta có nhiều hoạt động phải thực hiện, trong đó có những việc lâu nay vẫn làm nhưng nay phải đẩy mạnh với tư duy mới, cách làm mới.

Một là, củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề, chủ yếu là các hộ kinh doanh.
Đó là những hoạt động rất quan trọng như: (i) nghiên cứu, điều tra, cập nhật những biến động mới của thị trường (trong nước và nước ngoài) sau những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và nay đang xuất hiện những biến thể mới; tác động của cuộc xung đột Nga-Ukraine; lạm phát trầm trọng ở nhiều nước ... ảnh hưởng đến sức mua và cơ cấu của thị trường; (ii) nghiên cứu đổi mới thiết kế sản phẩm, kiểu dáng, mẫu mã theo thị hiếu mới của người tiêu dùng; (iii) củng cố tổ chức sản xuất kinh doanh, thực hiện “sản xuất xanh”, liên kết theo chuỗi giá trị; (iv) đổi mới xúc tiến thương mại: xây dựng thương hiệu, đăng ký chỉ dẫn địa lý, đặt mã QR Code, đa dạng hóa thị trường; ứng dụng thương mại điện tử... Với các làng nghề, cần xây dựng “làng nghề văn hóa”, tạo lập những tập thể cố kết, gắn bó vì sự nghiệp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của nghề thủ công, góp sức xây dựng nông thôn mới.

Trong khi triển khai các hoạt động trên đây, các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề cần khai thác các chủ trương, chính sách, các đề án khuyến khích phát triển ngành nghề thủ công và làng nghề, như Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ “Về phát triển ngành nghề nông thôn”, “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021- 2030” được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 7/7/2022, trước mắt là những chính sách trực tiếp tháo gỡ khó khăn cho cơ sở sau đại dịch Covid-19. Điều quan trọng là các cơ sở làng nghề cần nắm vững các điều, khoản liên quan, đề xuất các biện pháp để thực hiện đạt kết quả thiết thực.

Hai là, nêu cao khát vọng phát triển, đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp trong làng nghề.

Điều đáng mừng là tại các làng nghề thời gian gần đây, phong trào khởi nghiệp đang phát triển khá sôi nổi. Nhiều bạn trẻ, dù đã tốt nghiệp đại học hoặc trung cấp, đều nhiệt tình, hăng hái về nông thôn lập cơ sở sản xuất kinh doanh, làm việc một cách độc lập và tự chủ, dám nghĩ dám làm, đương đầu thách thức để làm giàu ngay tại quê hương, với tâm niệm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của nghề thủ công và làng nghề. Họ đang rất cần sự trợ giúp của các làng nghề, các hiệp hội ngành hàng, của cơ quan Nhà nước, các tổ chức sự nghiệp trong việc tạo thuận lợi về cơ chế, chính sách (nhất là về vốn, thuế và mặt bằng sản xuất).

Về phía Nhà nước, rất cần cải thiện môi trường kinh doanh mà thực chất là thực hiện quyền tự do kinh doanh, tạo điều kiện cho thanh niên làng nghề khởi nghiệp.

Theo các cơ quan nghiên cứu, thời gian gần đây, việc cải thiện môi trường kinh doanh ở nước ta chưa có nhiều tiến bộ đáng kể. Nếu như Luật Đầu tư phiên bản năm 2014 quy định 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, thì đến Luật Đầu tư phiên bản 2020 đã giảm xuống còn 227 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Nhìn về số lượng thì thấy đã có giảm, tuy nhiên, thực tế vẫn mang nặng tính hình thức hơn là thực chất. Vẫn còn tình trạng “cài cắm” điều kiện kinh doanh trong các thông tư do cấp bộ ban hành; còn những phiền hà, khó khăn trong thủ tục hành chính; sự mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật... khiến cho môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh của người dân. Theo đánh giá của Viện Fraser, tính từ năm 2000 đến nay, xếp hạng tự do kinh tế của Việt Nam luôn nằm ở vị trí dưới 100 trong tổng số 165 nền kinh tế được xếp hạng: năm 2000 Việt Nam xếp thứ 105; năm 2022 xếp thứ 113. Kết quả xếp hạng tự do kinh tế của Quỹ Di sản (Heritage Foundation) cũng tương tự: năm 2022, Việt Nam đứng thứ 84 trên 160 nền kinh tế; trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam chỉ xếp trên Lào (thứ 151) và Campuchia (thứ 106), còn lại đều kém các nước khác (theo VietnamNet, ngày 25/1/2023).

Thực tế cho thấy, tự do kinh doanh cũng đang là mong mỏi tha thiết của làng nghề chúng ta. Vì vậy, Nhà nước cần cải cách một cách thực chất danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; đơn giản hoá, minh bạch về thủ tục hành chính; duy trì sự ổn định của chính sách, khắc phục những bất cập trong quy định pháp luật, v.v...

Tóm lại, Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII ngày 17/11/2022 đã khẳng định vị thế của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, - một bước đột phá có ý nghĩa lịch sử về thể chế, tạo vận hội mới rất quan trọng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề. Rất mong các cơ quan nhà nước, các hiệp hội ngành hàng sớm có sự chỉ đạo, hướng dẫn để Nghị quyết đi vào cuộc sống, giúp cho làng nghề có bước phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.

CGCC. Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

LNV - Nhân dịp Tết Ất Tỵ 2025, ông Đặng Khánh Duy, Tổng giám đốc điều hành (CEO) Công ty TNHH Tân Nhiên - Chủ thể đầu tiên của tỉnh Tây Ninh có sản phẩm đạt OCOP 5 sao đã có những chia sẻ với Tạp chí Làng nghề Việt Nam.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

LNV - Dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngành thủ công, mỹ nghệ Việt Nam vẫn có thể vươn lên khi thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ đô la vào năm 2025 và 6 tỉ đô la vào năm 2030 theo Quyết định đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

LNV - Nghề thủ công truyền thống của các tộc người là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc, qua việc nghiên cứu cũng chính là sự bảo lưu và phát triển bản sắc văn hóa của họ trong cuộc sống hiện đại, đồng thời cũng là sự thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất những giá trị nhân văn cùng những tinh hoa của văn hóa tộc người, đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong đó có các nghề thủ công truyền thống của người Mường Tân Lạc - Hòa Bình.

Tin khác

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

LNV - Ngay từ năm 1958, sản phẩm thủ công của các làng nghề đã được chọn làm mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Trong suốt thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, thị trường xuất khẩu của sản phẩm thủ công chỉ bó hẹp trong các nước Xã hội chủ nghĩa. Đến thời kỳ đổi mới và gỡ bỏ cấm vận, các sản phẩm thủ công mới có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận với các nước Âu, Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công tăng lên nhanh chóng, và nhiều chủng loại mặt hàng mới cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có hơn 5.000 làng nghề và làng có nghề, thu hút gần 10 triệu lao động, mang lại giá trị xuất khẩu hơn 1,7 tỷ USD/năm. Những con số trên cho thấy sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đã mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng đất nước, an sinh xã hội và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.
Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.
Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
TP. HCM: Khánh thành biểu tượng Cột mốc chủ quyền đảo Trường Sa tại TP. Thủ Đức

TP. HCM: Khánh thành biểu tượng Cột mốc chủ quyền đảo Trường Sa tại TP. Thủ Đức

LNV - Sáng ngày 9/2, Ban Quản lý Đường sách thành phố Thủ Đức tổ chức lễ khánh thành biểu tượng “Cột mốc chủ quyền đảo Trường Sa” tại đường Hồ Thị Tư
TP. HCM: Thông tin về tình hình du lịch trong dịp Tết và mục tiêu năm 2025

TP. HCM: Thông tin về tình hình du lịch trong dịp Tết và mục tiêu năm 2025

LNV - Trong dịp Tết Nguyên đán 2025, TP. HCM đón hơn 87.000 lượt khách quốc tế, tăng 16,5% so với năm trước, đồng thời đạt hơn 2 triệu lượt khách tham quan
Nâng sức cạnh tranh sản phẩm OCOP từ yếu tố bản địa

Nâng sức cạnh tranh sản phẩm OCOP từ yếu tố bản địa

OVN - Đến đầu năm 2025, Thanh Hóa đã có hơn 600 sản phẩm OCOP, trong đó có 2 sản phẩm 5 sao quốc gia, hơn 60 sản phẩm 4 sao. Nhiều sản phẩm vươn thị trường rộng khắp cả nước và cả quốc tế nhờ biết phát huy những lợi thế là yếu tố bản địa, đặc trưng.
Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hùng Vĩ: Lễ hội truyền thống là tài nguyên văn hóa tinh thần của dân tộc

Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hùng Vĩ: Lễ hội truyền thống là tài nguyên văn hóa tinh thần của dân tộc

LNV - Lễ hội truyền thống là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tổng hợp, vừa độc đáo, vừa phong phú. Trải qua thời gian, lễ hội gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố không thể thiếu, đáp ứng nhu cầu tâm linh và củng cố ý thức cộng đồng.
Mâm cúng và văn khấn Rằm tháng Giêng 2025

Mâm cúng và văn khấn Rằm tháng Giêng 2025

LNV - Việc dâng lễ bánh trôi nước khi cúng Rằm tháng Giêng là mong muốn mọi việc quanh năm được hanh thông, trôi chảy.
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-61
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-66
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-67
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-91
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-32
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-50
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-33
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-51
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-54
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-75
Giao diện di động