Hà Nội: 21°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 30°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

LNV - Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm (Hà Nội) có hai nghề truyền thống là dát vàng bạc quì và may đồ da đã có từ lâu đời. Làm vàng bạc quì là một nghề truyền thống, chế biến vàng thật, bạc thật thành bột vàng, bạc (gọi là quì) bằng phương pháp sản xuất thủ công lâu đời, độc đáo.

Quì (hay vàng quì, bạc quì) là loại nguyên vật liệu quí, sang trọng, đắt tiền, dùng để thếp trên các đồ sơn truyền thống và tranh sơn mài, để vẽ trên giấy dó trong nghề làm giấy sắc. Loại nguyên vật liệu này giữ nguyên chất lượng và đặc tính có ánh kim của vàng, bạc. Do đó, các sản phẩm “sơn son thếp vàng” trở lên quý giá, hấp dẫn, cao sang, huyền ảo. Vàng quì, bạc quì xưa nay chỉ có ý nghĩa thật sự khi được sử dụng đồng thời với sơn ta, nghĩa là thếp chúng trên nền sơn lót (sơn hom, sơn then…). Khi tiến hành sơn thếp, người thợ thổi bột quì vàng, hay quì bạc trên lớp sơn lót chưa khô. Màu sắc hoàng kim làm cho vật phẩm trở nên chói lọi, cao quí. Song chỉ những đồ sơn quan trọng được nghệ nhân cân nhắc kỹ mới được phủ lên nó một lớp hoàng kim óng ảnh của vàng bạc: tượng Phật, tượng Thánh, hoành phi, câu đối, ngai, kiệu, nhang án, chân đèn, ống hương, mâm bồng, cột kèo và cửa võng của đền đài, cung điện, đền miếu...

Trại quỳ là giai đoạn đòi hỏi tỉ mẫn và tinh tế nhất.
Trại quỳ là giai đoạn đòi hỏi tỉ mẫn và tinh tế nhất.

Đồ sơn xuất hiện ở Việt Nam khá sớm, vào khoảng 2.500 năm trước đây. Kết luận ấy đã được xác nhận qua kết quả nghiên cứu các di vật khảo cổ học tại các di chỉ Việt Khê, La Đôi, Đường Dù, Xuân La, Minh Đức, Châu Sơn, Vinh Quang... Nhưng kỹ thuật sơn thếp ở nước ta thì ra đời muộn hơn nhiều. Những cổ vật sơn son thếp vàng còn lại đến ngày nay, hầu hết đều có niên đại từ thế kỷ XVII đến XIX, giai đoạn cực thịnh của nghề sơn Việt Nam (xem: Lê Huyên - Nghề sơn cổ truyền Việt Nam, 1995).

Làng Kiêu Kỵ, nơi duy nhất trong cả nước hiện nay có nghề làm vàng, bạc, quì (còn gọi là nghề quì). Cả làng hiện còn hơn 40 gia đình, thu hút hàng trăm người thợ làm nghề dát vàng bạc quì.

Vàng quì Kiêu Kỵ được xuất đi khắp các miền đất nước đáp ứng nhu cầu sơn thếp tượng Phật, đồ thờ, trang trí hoành phi, câu đối, tôn tạo và phục chế công trình kiến trúc cổ...Sản phẩm quí giá này của Kiêu Kỵ cũng xuất khẩu sang Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản và một số nước khác. Nhiều gia đình ở Kiêu Kỵ đã trở nên giàu có nhờ nghề truyền thống này.

Nghề làm vàng quì ở Kiêu Kỵ đã có lịch sử hình thành, phát triển gần 250 năm. Dân làng vô cùng biết ơn công đức và tôn vinh, thờ phụng hai vị Tổ nghề vàng quì của làng: Nguyễn Quí Trị (cuối TK XVIII) và Vũ Danh Thuật (đầu TK.XIX).

Ông Nguyễn Quí Trị, người làng Kiêu Kỵ được dân tôn thờ là ông Tổ nghề dát vàng của Kiêu Kỵ (như đã nêu ở trên). Hằng năm, cứ đến ngày 17/8, dân làng Kiêu Kỵ làm lễ kỷ niệm ông rất trọng thể, để tỏ tấm lòng biết ơn cụ đời đời. Ngày 16 - 17 tháng Tám (âm lịch) có tổ chức hát chèo và tế lễ. Ngày 11 - 12 tháng Giêng làm lễ động thổ để khai tràng, tế lễ. Những gia đình theo nghề Tổ sửa lễ xôi gà đến tràng tế, cầu mong Tổ phù hộ cho sản xuất phát triển, dân làng thịnh vượng. Việc tế Tổ nghề vàng quì có 4 chạ: Chạ Đông, chạ Nam, chạ Đoài và chạ Bắc. Ngày 11 tháng Giêng hằng năm là tế khai tràng; Ngày 16 tháng Tám: tế Cáo kỵ; Ngày 17 tháng Tám: tế lạy (vào đúng ngày giỗ Tổ nghề Nguyễn Quí Trị) tại đình làng, nơi thờ Tổ nghề.

Ông Vũ Danh Thuận là một nhà Nho, vừa là nghệ nhân vừa là nhà doanh nghiệp có tài ở Kiêu Kỵ, thời nhà Nguyễn. Tương truyền, sinh thời ông đã đảm nhận hầu hết việc trang trí thếp vàng nội thất cung điện triều Nguyễn ở Huế. Theo văn bia (chữ Hán) ở Văn Chỉ làng và nhà thờ họ Vũ tại Kiêu Kỵ, ông Vũ Danh Thuận đã để lại nhiều công đức cho dân, được suy tôn là Hậu thần:

“Đến tháng Tám năm Minh Mệnh thứ 6 (1826), các chức sắc lí dịch đặt điều lệ về việc luyện vàng để bán, theo thời giá thu lợi. Từ đó lợi ngày càng nhiều. Tiền lãi dùng để trùng tu chùa chiền, tô tượng. Từ Tam quan, xưởng luyện vàng, ngói lợp đều được thay mới... Xã nhất trí từ tháng Tám năm Ất Dậu về sau, để riêng số tiền lãi luyện vàng, bạc, mỗi tháng 20 quan biếu ông. Ông không nhận mà biếu lại dân. Năm Mậu Tý lụt lớn, vỡ đê, dân đói kém, ông lấy 200 quan vào thành mua gạo về chia đều cho mọi người. Ngày 10 tháng Mười một, xã thu được tiền lãi 800 quan, ông chi 300 quan để các giáp mua trống, kiệu, đồ tế khí; 400 quan chia đều cho 4 khu của xã tuỳ theo số người để làm ăn...Toàn dân rất lấy làm cảm động trước tâm đức của ông. Các viên chức bàn: sau khi ông trăm tuổi, mỗi khi tế Tiên Sư vào hai kỳ Xuân - Thu, thì phải tế ông để được phụ hưởng lễ vật ở xưởng luyện đúng theo nghi thức” (Văn bia - Bản dịch của Trần Văn Mỹ). Đến nay, ông Vũ Danh Thuận được coi là Hậu Tổ nghề của làng nghề vàng quì Kiêu Kỵ.

Tay thợ
Tay thợ

Kỹ thuật làm vàng quì ở Kiêu Kỵ hết sức tinh xảo, công phu:

Nguyên liệu để làm quì là vàng bạc nguyên chất: vàng mười (99,99%), bạc thật. Vật liệu bọc lót vàng gồm giấy qùi và vải sơn. Giấy qùi là loại giấy đen đặc biệt, có thể chế từ giấy dó, đặc tính bền dai.

Công cụ sản xuất vàng bạc quì khá đơn giản, chỉ dùng búa, đe, kìm, kéo chuyên dụng.

Trong công nghệ chế tác (dát) vàng bạc quì, quan trọng nhất là tay nghề người thợ thủ công và nguyên liệu. Vàng mười, bạc thật được dát mỏng như tờ giấy, cắt thành từng miếng vuông, to chừng bằng đốt ngón tay ( 1,5 - 2cm). Xếp lần lượt từng miếng vàng, hay bạc này vào tập giấy quì; mỗi miếng đều xếp lót một tờ giấy qùi. Bọc vải sơn bên ngoài tập giấy quì đã xếp từng lớp vàng hay bạc lá đó, thật kín. Người thợ làm quì cầm búa nện đều đều vào tập giấy bọc vải này cho tới khi mảnh vàng hay mảnh bạc giữa hai tờ giấy quì mỏng tanh thành lớp bột mịn, thổi khẽ là tan. Với bàn tay điêu luyện của người thợ, một chỉ vàng dát được tới 1520 lá vàng quì với tổng diện tích vàng quì hơn 2m2.

Khi gở quì, thợ vàng quì Kiêu Kỵ phải ngồi trong màn để tránh gió, bởi sự rung động nhỏ cũng có thể làm bay mất vàng.

Nghề dát vàng bạc quì lâu đời và độc đáo, xưa nay vẫn là niềm tự hào của người làng Kiêu Kỵ, của người Hà Nội.

Việc thờ Tổ nghề làng: Trước kia, khám thờ Tổ sư nghề dát vàng quì Nguyễn Quý Trị được thờ chung trong đền thờ Đức Thành hoàng làng Nguyễn Chế Nghĩa. Nhưng sau khi xây dựng đình thì dân làng rước khám thờ đức Tổ nghề ra thờ ở Hậu cung đình làng. Ở Hậu cung trước đây có bức đại tự: “Tiên sư vị”. Trong khám thờ có bài vị mặt trước ghi: “Kim quì tiên sư thần vị Kiêu Kỵ phụng tự”; mặt sau ghi: “Bát nguyệt thập thất nhật kỵ húy”.

Những bài vị và một số đồ thờ khác đã bị hư hại mất mát, sau lần bị đạn cối của giặc Pháp bắn vào đình năm 1954. Số còn lại thì chuyển vào đền thờ Thành hoàng làng, trong đó có đôi câu đối bằng chữ Hán như sau:

“Đại đạo sinh tài tài tự chí

Tiên sư giáng phúc phúc trùng lai”.

Nghĩa là đạo lớn sinh ra của cải, của cải tự đến. Tiên sư ban phúc phúc thường về. Khác với câu “phúc bất trùng lai” - nghĩa là phúc không đến quá một lần. Tiên sư ban cho nghề chứ không phải cho của. Của cho là hữu hạn. Cho nghề, nghề tạo ra của là vô hạn.

Hiện nay, tại gian giữa của đình làng Kiêu Kỵ được đặt ban thờ và pho tượng cụ Nguyễn Quý Trị (năm 1996).

Vào đời Vua Minh Mạng thời Nguyễn, ở làng có ông Vũ Danh Thuận (nêu trên) – một “Phú gia địch quốc”, đã bỏ tiền ra xây dựng nhà Tràng và là nơi đào tạo thợ, dạy nghề, luyện nghề, vừa là xưởng luyện kim ngân, chấn hưng nghề Tổ. Ông được dân làng bầu làm Hậu thần. Khuôn viên nhà Tràng rộng khoảng 500m2, gồm ba dãy nhà. Nhà chính giữa có Hậu cung bày bàn thờ cụ Tổ nghề Nguyễn Quý Trị.

Năm gian nhà chính, gian giữa đặt một tảng đá làm đe và 1 cái búa. Đó là hai công cụ hành nghề tiêu biểu. Hằng năm vào ngày 12 tháng Giêng, làng làm lễ khai tràng (có người gọi là khai búa hay là khai đá). Sau lễ tục này các nhà làm nghề tổ mới được bắt đầu làm nghề.

Dưới con mắt của các nhà nghiên cứu kinh tế và văn hóa dân gian thì nhà Tràng vừa là nơi sản xuất dạy nghề, học nghề vừa là nơi sinh họat tín ngưỡng của làng nghề mà cụ Vũ Danh Thuận vừa là nhà văn hóa, vừa là nhà doanh nghiệp, chủ đầu tư, vừa là giám đốc điều hành. Cụ có công lớn trong việc chấn hưng nghề vàng quỳ ở làng Kiêu Kỵ vào đầu thế kỷ thứ XIX.

Nhà Tràng đã bị bom Mỹ phá hủy năm 1967.

TS. Lưu Minh Trị Nguyên - PCT UBND TP. Hà Nội

Tin liên quan

Giữ lửa nghề truyền thống ở Hồng Dân

Giữ lửa nghề truyền thống ở Hồng Dân

LNV - Trên mảnh đất xã Hồng Dân, những làng nghề truyền thống như mộc, rèn, đan đát, dệt chiếu, làm bánh tráng… vẫn lặng lẽ duy trì qua bao thế hệ. Dù phải đối mặt với cơn lốc cạnh tranh từ sản phẩm công nghiệp hiện đại, những làng nghề này vẫn chưa lụi tàn. Có được điều đó là nhờ sự bền lòng, tình yêu nghề và tâm huyết gìn giữ văn hoá truyền thống của người dân nơi đây.
Gìn giữ nghề mây tre đan truyền thống

Gìn giữ nghề mây tre đan truyền thống

LNV - Từ bao đời nay, hình ảnh cây tre đã gắn liền với làng quê Việt Nam, đặc biệt ở các vùng quê phía Đông của Đắk Lắk. Những lũy tre xanh không chỉ là biểu tượng văn hóa mà còn là nguồn nguyên liệu quý cho các làng nghề thủ công truyền thống, trong đó có làng nghề mây tre đan.
Nghề truyền thống nơi cực nam Tổ quốc

Nghề truyền thống nơi cực nam Tổ quốc

LNV - Nhiều người ngạc nhiên khi nói về những nghề và làng nghề truyền thống ở vùng đất mới phía địa đầu cực Nam Tổ quốc. Nhưng không hề nói quá một chút nào khi khẳng định, những nghề truyền thống đã góp nên hương sắc độc đáo, riêng có của Cà Mau.

Tin mới hơn

Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Hà Nội

Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Hà Nội

LNV - Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, sự phát triển của các làng nghề thủ công mỹ nghệ đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức. Làm thế nào để những giá trị truyền thống này không bị mai một mà còn vươn xa hơn nữa, định vị được thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước?
Chung tay hành động vì thương hiệu Việt – quyết liệt chống hàng giả, hàng nhái và gian lận thương mại

Chung tay hành động vì thương hiệu Việt – quyết liệt chống hàng giả, hàng nhái và gian lận thương mại

LNV - Trong tiến trình hội nhập quốc tế, thương hiệu không chỉ là tài sản của doanh nghiệp mà còn là biểu tượng của uy tín quốc gia. Bảo vệ thương hiệu Việt chính là bảo vệ niềm tin của người tiêu dùng. Tuy nhiên, song song với những thành tựu đáng ghi nhận về phát triển kinh tế, tình trạng hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại vẫn đang diễn biến phức tạp, gây tổn hại nặng nề cho doanh nghiệp và làm méo mó môi trường kinh doanh.
Sáng tạo đổi mới tư duy phát triển sản phẩm thủ công truyền thống đưa sản phẩm “made in Việt Nam” ra thế giới

Sáng tạo đổi mới tư duy phát triển sản phẩm thủ công truyền thống đưa sản phẩm “made in Việt Nam” ra thế giới

LNV - Việt Nam hiện có hàng trăm nghề thủ công khác nhau, hầu hết đều có truyền thống từ lâu đời, có những nghề đã phát triển từ mấy nghìn năm trước như đúc đồng, gốm, dệt, đan mây tre..., có những nghề phát triển rực rỡ trong khoảng 6, 7 thế kỷ nay như điêu khắc, thêu, chạm bạc, khảm trai…, cũng có những nghề mới hình thành từ mấy chục năm như ren, dệt thảm, hoa lụa ....
Cần một chiến lược tổng thể để ngành thủ công mỹ nghệ tỉnh Phú Thọ phát triển sau sáp nhập

Cần một chiến lược tổng thể để ngành thủ công mỹ nghệ tỉnh Phú Thọ phát triển sau sáp nhập

LNV - Sau khi thực hiện việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp xã và huyện theo Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của Chính phủ vào năm 2025, tỉnh Phú Thọ đã hình thành một hệ thống quản lý hành chính tinh gọn hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quy hoạch lại vùng nguyên liệu, phát triển sản xuất thủ công mỹ nghệ (TCMN) theo hướng bền vững và chuyên sâu.
Phong tặng các Danh hiệu Làng nghề Việt Nam: Tôn vinh tinh hoa nghề truyền thống, khuyến khích lao động sáng tạo

Phong tặng các Danh hiệu Làng nghề Việt Nam: Tôn vinh tinh hoa nghề truyền thống, khuyến khích lao động sáng tạo

LNV - Hiệp hội Làng nghề Việt Nam tổ chức phong tặng Danh hiệu Làng nghề Việt Nam lần thứ XII, dự kiến vào đầu tháng 12 năm nay, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam (2005- 2025), Phóng viên Tạp chí Làng nghề Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn NGƯT Trịnh Quốc Đạt, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.
Phát huy tiềm năng, thế mạnh ngành thủ công mỹ nghệ trong phát triển du lịch Hà Nội

Phát huy tiềm năng, thế mạnh ngành thủ công mỹ nghệ trong phát triển du lịch Hà Nội

LNV - Hà Nội vừa là một thủ đô của các ngành nghề thủ công mỹ nghệ đặc sắc, vừa là trung tâm du lịch lớn của đất nước.

Tin khác

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị thẩm mỹ, sáng tạo

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị thẩm mỹ, sáng tạo

LNV - Các nghệ nhân không chỉ gìn giữ bản sắc truyền thống, mà còn tạo ra các dòng sản phẩm công mỹ nghệ mang tính nghệ thuật cao, có khả năng tiếp cận thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ ngày càng đa dạng của người tiêu dùng toàn cầu.
Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.
Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Chuyển đổi bao bì xanh để nâng tầm giá trị sản phẩm OCOP

Chuyển đổi bao bì xanh để nâng tầm giá trị sản phẩm OCOP

OVN - Điện Biên đang triển khai chương trình chuyển đổi bao bì thân thiện môi trường cho các sản phẩm OCOP, thay thế chai nhựa bằng chai sành, thủy tinh hoặc vật liệu dễ tái chế. Đây là bước đi thiết thực nhằm giảm rác thải nhựa, nâng cao giá trị sản phẩm
Những nghệ nhân thổi hồn cho "Tinh hoa Thu Hà Nội"

Những nghệ nhân thổi hồn cho "Tinh hoa Thu Hà Nội"

LNV - Tại Hội chợ Mùa Thu 2025, không gian “Tinh hoa Thu Hà Nội” trở thành điểm nhấn độc đáo, nơi hội tụ hơn 30 nghệ nhân tiêu biểu đại diện cho các làng nghề truyền thống của Thủ đô.
Người thầy Mo và hành trình giữ lửa văn hóa Mường

Người thầy Mo và hành trình giữ lửa văn hóa Mường

LNV - Nơi chân núi Khụ Khênh, xã Thượng Cốc (Phú Thọ), vẫn vang vọng tiếng chiêng Mường qua từng mùa lúa chín. Ở đó, Nghệ nhân Nhân dân Bùi Văn Minh – người thầy Mo của bản Mường đã dành cả đời để sưu tầm, gìn giữ và truyền lại linh hồn văn hóa dân tộc ch
Gấp rút công tác chuẩn bị cho Festival bảo tồn và phát triển làng nghề quốc tế năm 2025

Gấp rút công tác chuẩn bị cho Festival bảo tồn và phát triển làng nghề quốc tế năm 2025

Chiều 31/10, tại trụ sở UBND thành phố Hà Nội (số 12 phố Lê Lai, phường Hoàn Kiếm), UBND thành phố Hà Nội tổ chức cuộc họp Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Festival Bảo tồn và Phát triển làng nghề quốc tế năm 2025
Vật Lại sau sáp nhập: Diện mạo mới từ sức bật nông thôn mới

Vật Lại sau sáp nhập: Diện mạo mới từ sức bật nông thôn mới

LNV - Sau khi được thành lập trên cơ sở sáp nhập 5 xã gồm Thái Hòa, Phú Sơn, Vật Lại, Đồng Thái và Phú Châu, xã Vật Lại đang từng bước khẳng định vị thế là vùng phát triển năng động, bền vững của khu vực trung du phía Tây Thủ đô. Với diện tích tự nhiên hơ
Giao diện di động