Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ
Quì (hay vàng quì, bạc quì) là loại nguyên vật liệu quí, sang trọng, đắt tiền, dùng để thếp trên các đồ sơn truyền thống và tranh sơn mài, để vẽ trên giấy dó trong nghề làm giấy sắc. Loại nguyên vật liệu này giữ nguyên chất lượng và đặc tính có ánh kim của vàng, bạc. Do đó, các sản phẩm “sơn son thếp vàng” trở lên quý giá, hấp dẫn, cao sang, huyền ảo. Vàng quì, bạc quì xưa nay chỉ có ý nghĩa thật sự khi được sử dụng đồng thời với sơn ta, nghĩa là thếp chúng trên nền sơn lót (sơn hom, sơn then…). Khi tiến hành sơn thếp, người thợ thổi bột quì vàng, hay quì bạc trên lớp sơn lót chưa khô. Màu sắc hoàng kim làm cho vật phẩm trở nên chói lọi, cao quí. Song chỉ những đồ sơn quan trọng được nghệ nhân cân nhắc kỹ mới được phủ lên nó một lớp hoàng kim óng ảnh của vàng bạc: tượng Phật, tượng Thánh, hoành phi, câu đối, ngai, kiệu, nhang án, chân đèn, ống hương, mâm bồng, cột kèo và cửa võng của đền đài, cung điện, đền miếu...
![]() |
Trại quỳ là giai đoạn đòi hỏi tỉ mẫn và tinh tế nhất. |
Đồ sơn xuất hiện ở Việt Nam khá sớm, vào khoảng 2.500 năm trước đây. Kết luận ấy đã được xác nhận qua kết quả nghiên cứu các di vật khảo cổ học tại các di chỉ Việt Khê, La Đôi, Đường Dù, Xuân La, Minh Đức, Châu Sơn, Vinh Quang... Nhưng kỹ thuật sơn thếp ở nước ta thì ra đời muộn hơn nhiều. Những cổ vật sơn son thếp vàng còn lại đến ngày nay, hầu hết đều có niên đại từ thế kỷ XVII đến XIX, giai đoạn cực thịnh của nghề sơn Việt Nam (xem: Lê Huyên - Nghề sơn cổ truyền Việt Nam, 1995).
Làng Kiêu Kỵ, nơi duy nhất trong cả nước hiện nay có nghề làm vàng, bạc, quì (còn gọi là nghề quì). Cả làng hiện còn hơn 40 gia đình, thu hút hàng trăm người thợ làm nghề dát vàng bạc quì.
Vàng quì Kiêu Kỵ được xuất đi khắp các miền đất nước đáp ứng nhu cầu sơn thếp tượng Phật, đồ thờ, trang trí hoành phi, câu đối, tôn tạo và phục chế công trình kiến trúc cổ...Sản phẩm quí giá này của Kiêu Kỵ cũng xuất khẩu sang Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản và một số nước khác. Nhiều gia đình ở Kiêu Kỵ đã trở nên giàu có nhờ nghề truyền thống này.
Nghề làm vàng quì ở Kiêu Kỵ đã có lịch sử hình thành, phát triển gần 250 năm. Dân làng vô cùng biết ơn công đức và tôn vinh, thờ phụng hai vị Tổ nghề vàng quì của làng: Nguyễn Quí Trị (cuối TK XVIII) và Vũ Danh Thuật (đầu TK.XIX).
Ông Nguyễn Quí Trị, người làng Kiêu Kỵ được dân tôn thờ là ông Tổ nghề dát vàng của Kiêu Kỵ (như đã nêu ở trên). Hằng năm, cứ đến ngày 17/8, dân làng Kiêu Kỵ làm lễ kỷ niệm ông rất trọng thể, để tỏ tấm lòng biết ơn cụ đời đời. Ngày 16 - 17 tháng Tám (âm lịch) có tổ chức hát chèo và tế lễ. Ngày 11 - 12 tháng Giêng làm lễ động thổ để khai tràng, tế lễ. Những gia đình theo nghề Tổ sửa lễ xôi gà đến tràng tế, cầu mong Tổ phù hộ cho sản xuất phát triển, dân làng thịnh vượng. Việc tế Tổ nghề vàng quì có 4 chạ: Chạ Đông, chạ Nam, chạ Đoài và chạ Bắc. Ngày 11 tháng Giêng hằng năm là tế khai tràng; Ngày 16 tháng Tám: tế Cáo kỵ; Ngày 17 tháng Tám: tế lạy (vào đúng ngày giỗ Tổ nghề Nguyễn Quí Trị) tại đình làng, nơi thờ Tổ nghề.
Ông Vũ Danh Thuận là một nhà Nho, vừa là nghệ nhân vừa là nhà doanh nghiệp có tài ở Kiêu Kỵ, thời nhà Nguyễn. Tương truyền, sinh thời ông đã đảm nhận hầu hết việc trang trí thếp vàng nội thất cung điện triều Nguyễn ở Huế. Theo văn bia (chữ Hán) ở Văn Chỉ làng và nhà thờ họ Vũ tại Kiêu Kỵ, ông Vũ Danh Thuận đã để lại nhiều công đức cho dân, được suy tôn là Hậu thần:
“Đến tháng Tám năm Minh Mệnh thứ 6 (1826), các chức sắc lí dịch đặt điều lệ về việc luyện vàng để bán, theo thời giá thu lợi. Từ đó lợi ngày càng nhiều. Tiền lãi dùng để trùng tu chùa chiền, tô tượng. Từ Tam quan, xưởng luyện vàng, ngói lợp đều được thay mới... Xã nhất trí từ tháng Tám năm Ất Dậu về sau, để riêng số tiền lãi luyện vàng, bạc, mỗi tháng 20 quan biếu ông. Ông không nhận mà biếu lại dân. Năm Mậu Tý lụt lớn, vỡ đê, dân đói kém, ông lấy 200 quan vào thành mua gạo về chia đều cho mọi người. Ngày 10 tháng Mười một, xã thu được tiền lãi 800 quan, ông chi 300 quan để các giáp mua trống, kiệu, đồ tế khí; 400 quan chia đều cho 4 khu của xã tuỳ theo số người để làm ăn...Toàn dân rất lấy làm cảm động trước tâm đức của ông. Các viên chức bàn: sau khi ông trăm tuổi, mỗi khi tế Tiên Sư vào hai kỳ Xuân - Thu, thì phải tế ông để được phụ hưởng lễ vật ở xưởng luyện đúng theo nghi thức” (Văn bia - Bản dịch của Trần Văn Mỹ). Đến nay, ông Vũ Danh Thuận được coi là Hậu Tổ nghề của làng nghề vàng quì Kiêu Kỵ.
![]() |
Tay thợ |
Kỹ thuật làm vàng quì ở Kiêu Kỵ hết sức tinh xảo, công phu:
Nguyên liệu để làm quì là vàng bạc nguyên chất: vàng mười (99,99%), bạc thật. Vật liệu bọc lót vàng gồm giấy qùi và vải sơn. Giấy qùi là loại giấy đen đặc biệt, có thể chế từ giấy dó, đặc tính bền dai.
Công cụ sản xuất vàng bạc quì khá đơn giản, chỉ dùng búa, đe, kìm, kéo chuyên dụng.
Trong công nghệ chế tác (dát) vàng bạc quì, quan trọng nhất là tay nghề người thợ thủ công và nguyên liệu. Vàng mười, bạc thật được dát mỏng như tờ giấy, cắt thành từng miếng vuông, to chừng bằng đốt ngón tay ( 1,5 - 2cm). Xếp lần lượt từng miếng vàng, hay bạc này vào tập giấy quì; mỗi miếng đều xếp lót một tờ giấy qùi. Bọc vải sơn bên ngoài tập giấy quì đã xếp từng lớp vàng hay bạc lá đó, thật kín. Người thợ làm quì cầm búa nện đều đều vào tập giấy bọc vải này cho tới khi mảnh vàng hay mảnh bạc giữa hai tờ giấy quì mỏng tanh thành lớp bột mịn, thổi khẽ là tan. Với bàn tay điêu luyện của người thợ, một chỉ vàng dát được tới 1520 lá vàng quì với tổng diện tích vàng quì hơn 2m2.
Khi gở quì, thợ vàng quì Kiêu Kỵ phải ngồi trong màn để tránh gió, bởi sự rung động nhỏ cũng có thể làm bay mất vàng.
Nghề dát vàng bạc quì lâu đời và độc đáo, xưa nay vẫn là niềm tự hào của người làng Kiêu Kỵ, của người Hà Nội.
Việc thờ Tổ nghề làng: Trước kia, khám thờ Tổ sư nghề dát vàng quì Nguyễn Quý Trị được thờ chung trong đền thờ Đức Thành hoàng làng Nguyễn Chế Nghĩa. Nhưng sau khi xây dựng đình thì dân làng rước khám thờ đức Tổ nghề ra thờ ở Hậu cung đình làng. Ở Hậu cung trước đây có bức đại tự: “Tiên sư vị”. Trong khám thờ có bài vị mặt trước ghi: “Kim quì tiên sư thần vị Kiêu Kỵ phụng tự”; mặt sau ghi: “Bát nguyệt thập thất nhật kỵ húy”.
Những bài vị và một số đồ thờ khác đã bị hư hại mất mát, sau lần bị đạn cối của giặc Pháp bắn vào đình năm 1954. Số còn lại thì chuyển vào đền thờ Thành hoàng làng, trong đó có đôi câu đối bằng chữ Hán như sau:
“Đại đạo sinh tài tài tự chí
Tiên sư giáng phúc phúc trùng lai”.
Nghĩa là đạo lớn sinh ra của cải, của cải tự đến. Tiên sư ban phúc phúc thường về. Khác với câu “phúc bất trùng lai” - nghĩa là phúc không đến quá một lần. Tiên sư ban cho nghề chứ không phải cho của. Của cho là hữu hạn. Cho nghề, nghề tạo ra của là vô hạn.
Hiện nay, tại gian giữa của đình làng Kiêu Kỵ được đặt ban thờ và pho tượng cụ Nguyễn Quý Trị (năm 1996).
Vào đời Vua Minh Mạng thời Nguyễn, ở làng có ông Vũ Danh Thuận (nêu trên) – một “Phú gia địch quốc”, đã bỏ tiền ra xây dựng nhà Tràng và là nơi đào tạo thợ, dạy nghề, luyện nghề, vừa là xưởng luyện kim ngân, chấn hưng nghề Tổ. Ông được dân làng bầu làm Hậu thần. Khuôn viên nhà Tràng rộng khoảng 500m2, gồm ba dãy nhà. Nhà chính giữa có Hậu cung bày bàn thờ cụ Tổ nghề Nguyễn Quý Trị.
Năm gian nhà chính, gian giữa đặt một tảng đá làm đe và 1 cái búa. Đó là hai công cụ hành nghề tiêu biểu. Hằng năm vào ngày 12 tháng Giêng, làng làm lễ khai tràng (có người gọi là khai búa hay là khai đá). Sau lễ tục này các nhà làm nghề tổ mới được bắt đầu làm nghề.
Dưới con mắt của các nhà nghiên cứu kinh tế và văn hóa dân gian thì nhà Tràng vừa là nơi sản xuất dạy nghề, học nghề vừa là nơi sinh họat tín ngưỡng của làng nghề mà cụ Vũ Danh Thuận vừa là nhà văn hóa, vừa là nhà doanh nghiệp, chủ đầu tư, vừa là giám đốc điều hành. Cụ có công lớn trong việc chấn hưng nghề vàng quỳ ở làng Kiêu Kỵ vào đầu thế kỷ thứ XIX.
Nhà Tràng đã bị bom Mỹ phá hủy năm 1967.
Tin liên quan

Bước chuyển mới của làng gốm Phù Lãng
09:04 | 14/03/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Hải Dương: Đưa bánh đa Lộ Cương vươn xa
09:49 | 13/03/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Đồng Tháp: Lai Vung bảo tồn, phát triển nghề truyền thống
11:24 | 28/02/2025 Làng nghề, nghệ nhân
Tin mới hơn

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng
10:03 | 21/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống
09:45 | 13/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam
15:44 | 06/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị
11:40 | 01/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề
21:08 | 20/02/2025 Nghiên cứu trao đổi

Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề
19:28 | 13/02/2025 Nghiên cứu trao đổi
Tin khác

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ
15:29 | 21/01/2025 Nghiên cứu trao đổi

Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao
14:44 | 14/01/2025 Nghiên cứu trao đổi

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ
15:28 | 05/01/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ
09:22 | 17/12/2024 Nghiên cứu trao đổi

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững
09:24 | 09/12/2024 Nghiên cứu trao đổi

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình
09:23 | 09/12/2024 Nghiên cứu trao đổi

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu
13:51 | 06/12/2024 Nghiên cứu trao đổi

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam
09:08 | 28/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ
11:00 | 26/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?
08:56 | 14/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu
13:43 | 07/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam
08:50 | 04/11/2024 Nghiên cứu trao đổi

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề
09:26 | 25/10/2024 Nghiên cứu trao đổi

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai
13:48 | 11/10/2024 Nghiên cứu trao đổi

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu
09:55 | 30/09/2024 Nghiên cứu trao đổi

Bình Định có một đô thị ven sông Dinh lung linh in bóng nước
20:37 Nông thôn mới

Thanh Hóa: Bí thư Đoàn xã tiên phong với mô hình nuôi dúi hiệu quả
20:36 Tin tức

Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng dự Lễ khánh thành công trình có mức đầu tư hơn 1.170 tỷ đồng
20:36 Tin tức

Nghệ An có thêm 14 sản phẩm đạt OCOP 4 sao
20:36 OCOP

Khai mạc Tuần lễ Công nghệ Anh tại Đông Nam Á 2025
20:35 Tin tức









