Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 25°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 27°C Thừa Thiên Huế

Đẩy mạnh thu hút đầu tư cụm công nghiệp, công nghiệp làng nghề, tạo đà phát triển các cơ sở công nghiệp nông thôn

LNV - Lãnh đạo Sở Công thương Hà Nội cho biết: “Hiện trên địa bàn Thành phố có 70 CCN hoạt động tại 17 quận, huyện và thị xã với tổng diện tích theo quy hoạch là 1.686 ha, trong đó, có 1.392 ha được đầu tư xây dựng hạ tầng, hoạt động ổn định. Các CCN đã thu hút khoảng 3.864 cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho 60 nghìn lao động, nộp ngân sách Nhà nước khoảng 1.100 tỷ đồng/năm.
1. Lịch sử vấn đề - thuật ngữ khái niệm

Mô hình cụm công nghiệp (CCN) được sử dụng ngày càng nhiều trên thế giới nhằm tận dụng các lợi thế cạnh tranh bên ngoài để hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng và địa phương. Có nhiều cách hiểu khác nhau về CCN. Theo Marshall (1926), Weber (1978), Ohlin (1933) và Hoover (1948), các doanh nghiệp tập trung tại một khu vực địa lý nằm tận dụng lợi ích kinh tế theo quy mô. Các cách hiểu về CCN hiện nay đều có điểm chung coi CCN là một thể chế tạo ra sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp chứ không đơn thuần chỉ coi CCN là một khu vực kỹ thuật có hạ tầng hiện đại. Sonobe và Otsuka (2006) coi CCN là sự tập trung về mặt địa lý của các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc có liên quan với nhau trong một khu vực nhỏ. Khái niệm cụm công nghiệp này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của các làng nghề ở Việt Nam.

Tại một sô nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia… những mô hình về CCN Làng nghề đã xuất hiện khá nhiều và có hiệu quả.Còn tại Việt Nam trong mấy năm gần đây, vấn đề CCN và CCN làng nghề đã đặt ra cho phát triển nông thôn mới như là một nội dung cấp thiết. Trên phạm vi 63 tinh, thành trên cả nước đã coi đây là một mô hình phát triển công nghiệp địa phương hiệu quả đáp ứng nhiều mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội…


Phương án phát triển CCN là việc sắp xếp, phân bố không gian phát triển các CCN hợp lý gắn với các chính sách, giải pháp quản lý, đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn cấp tỉnh trong từng thời kỳ trên cơ sở bảo vệ môi trường, tiết kiệm, hiệu quả sử dụng đất và các nguồn lực, tài nguyên khác của địa phương. Phương án phát triển CCN là một nội dung của quy hoạch tỉnh, được xây dựng, tích hợp vào quy hoạch tỉnh theo pháp luật quy hoạch. Đây là những mục tiêu cơ bản của việc xây dựng CCN và CCN làng nghề.

Về thuật ngữ, khái niệm có khoảng 12.900.000 kết quả (0,48 giây) với nhiều cách diễn đạt khác nhau, có quan niệm cho rằng đây là “cụm tiểu thủ công nghiệp” (QĐ 880/QĐ-TTg, ngày 9/6/2014) dự án qui hoạch CCN- Tiểu thủ công nghiệp tại Thái Nguyên. Có cách diễn đạt vắn tắt là “cụm làng nghề” hoặc đâu đó lại lẫn lộn với “khu công nghiệp tập trung” … Để thống nhất về quan niệm, văn bản số 68/2017NĐ-CP đã nêu và có sự phân biệt nhất định giữa “cụm công nghiệp” và Cụm công nghiệp làng nghề.

CCN là nơi sản xuất, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được đầu tư xây dựng nhằm thu hút, di dời các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác vào đầu tư sản xuất kinh doanh.

CCN làng nghề là CCN phục vụ di dời, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, cơ sở sản xuất hộ gia đình, cá nhân trong làng nghề nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, phát triển nghề, làng nghề ở địa phương. (theo văn bản số 68/2017NĐ-CP).

2. Thực trạng thu hút đầu tư tại CCN và CCN làng nghề

Hiện nay, cả nước có 968 CCN đã được thành lập, phân bố tại 63 tỉnh, thành phố (với tổng diện tích chiếm đất gần 31.000 ha). Đến năm 2020 của cả nước có 1.467 CCN với tổng diện tích 48.899 ha. Số CCN tập trung nhiều ở vùng Duyên hải miền Trung, vùng Đồng bằng Sông Hồng, vùng Đông Nam Bộ.

Theo tổng hợp từ các địa phương, tính đến nay tổng vốn đã đầu tư hạ tầng của các CCN là 15.762 tỷ đồng; Hình thức đầu tư hạ tầng chủ yếu là cuốn chiếu (vừa đầu tư hạ tầng vừa cho thuê đất). Cả nước có 721 CCN đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng với tổng diện tích xấp xỉ 20.056 ha. Có 472 CCN (với tổng diện tích khoảng 13.273ha) đã được phê duyệt dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật với tổng mức vốn đầu tư 44.891 tỷ đồng (trung bình 3,4 tỷ đồng/ha), đã và đang tiến hành đầu tư hạ tầng. Tuy nhiên, quá trình xây dựng CCN và CCN làng nghề đã bộc lộ những khó khăn vướng mắc ngay từ văn bản 68/NĐ-CP 2017 với nội dung cụ thể cần được làm tôt hơn: “Dự kiến nhu cầu mặt bằng sản xuất để thu hút đầu tư, di dời vào CCN, hiện trạng sử dụng đất, nguồn vốn đầu tư, tiến độ đầu tư hạ tầng, khả năng kết nối với hạ tầng bên ngoài, tư cách pháp nhân, năng lực của chủ đầu tư, dự báo tác động, biện pháp xử lý môi trường …

Chủ trương đầu tư xây dựng hạ tầng các CCN sẽ tận dụng và phát huy được lợi thế về đất đai, nguồn nguyên liệu, tay nghề lao động sẵn có tại nông thôn; Góp phần di dời các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu dân cư, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt tại các làng nghề nông thôn; Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, thu nhập ở nông thôn thông qua thu hút các dự án đầu tư, tạo ra việc làm cho lao động nông thôn, duy trì phát triển nghề, làng nghề truyền thống, các sản phẩm mới ở nông thôn. Tuy nhiên những nội dung đó chưa có hiệu quả cao như ý muốn. Nhiều nơi còn lúng túng, khi triển khai gặp nhiều khó khăn vướng mắc và tiến độ rất chậm.

Hà Nội là nơi có nhiều làng nghề nhất cả nước khi thực hiện chủ trương xây dựng CCN và CCN làng nghề thì triển khai còn chậm do nhiều nguyên nhân khách quan. Lãnh đạo Sở Công thương Hà Nội cho biết: “Hiện trên địa bàn Thành phố có 70 CCN hoạt động tại 17 quận, huyện và thị xã với tổng diện tích theo quy hoạch là 1.686 ha, trong đó, có 1.392 ha được đầu tư xây dựng hạ tầng, hoạt động ổn định. Các CCN đã thu hút khoảng 3.864 cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho 60 nghìn lao động, nộp ngân sách Nhà nước khoảng 1.100 tỷ đồng/năm. Trong đó có 26 CCN có các hạng mục công trình hạ tầng tương đối đồng bộ như các CCN: Quất Động mở rộng, Ngọc Hồi, Từ Liêm, thị trấn Phùng…, giúp sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp làng nghề chuyên nghiệp, hiệu quả hơn, đóng góp tích cực cho kinh tế Thủ đô.” Tuy nhiên, mới có CCN làng nghề Đại Thắng và CCN làng nghề Phú Túc (huyện Phú Xuyên) được khởi công, còn lại hầu hết đều chưa hoàn thành giải phóng mặt bằng. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do quy định của văn bản pháp luật, có trên 10ha đất lúa phải trình Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương chuyển đổi, trong khi đó đến nay mới có 2/20 cụm có văn bản chấp thuận chủ trương.

Để có thể khởi công 41 cụm công nghiệp còn lại theo đúng tiến độ đề ra, các cấp, ngành, địa phương của thành phố cần thực hiện tốt Kế hoạch số 89/KH-UBND của UBND Thành phố Hà Nội về khắc phục những hạn chế, khuyết điểm về đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp còn chậm tiến độ trên địa bàn. Trong đó, tập trung triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp UBND Thành phố đã chỉ đạo để tháo gỡ từng "nút thắt" đang ảnh hưởng đến tiến độ khởi công xây dựng các dự án CCN, phù hợp với điều kiện thực tế.

3. Một số nguyên nhân chính cần được bàn luận

Thứ nhất, nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng trên là do quy định của văn bản pháp luật, một số điều khoản không khả thi, chúng ta đã kịp thời có văn bản 66/2020/NĐ-CP về thay đổi một số điều của nghị định số 68/2017/NĐ-CP.

Thứ hai, do việc quy hoạch CCN dàn trải, chỉ chú trọng về số lượng, chưa gắn với phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật... đã dẫn đến những bất cập.

Nghị định 68/2017/NĐ-CP đã tạo hành lang pháp lý thống nhất, rõ ràng hơn, góp phần thu hút đầu tư phát triển công nghiệp ở địa phương. Tuy nhiên, việc chấp hành một số nội dung, quy định của Nghị định 68 tại một số địa phương còn chưa nghiêm túc, đầy đủ. Nhiều địa phương vẫn còn gặp khó trong việc triển khai Nghị định này như Quy định về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch phát triển CCN nay không còn phù hợp với Luật Quy hoạch nên việc lựa chọn chu đầu tư cần được hướng dẫn cụ thể hơn.

Để khắc phục tình trạng này “Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các Bộ, ngành để xây dựng, hoàn thiện thể chế, quản lý, hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động liên quan đến CCN; thường xuyên cung cấp thông tin, trao đổi và phối hợp trong việc quản lý Nhà nước về CCN. Đồng thời, Bộ sẽ tăng cường kiểm tra, quản lý chặt chẽ, đúng quy định đối với phát triển CCN tại các địa phương từ khâu quy hoạch, thành lập, đầu tư xây dựng hạ tầng đến hoạt động
của các CCN”.

Theo ông Đàm Tiến Thắng PGĐ Sở Công thương HN, nguyên nhân nữa là do phê duyệt tại các thời điểm khác nhau nên mặc dù có nhiều CCN đã nằm trong quy hoạch phát triển, nhưng khi triển khai thành lập cụm theo Nghị định 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 lại “vướng” vào một số diện tích đất không phải của CCN, hoặc mục đích sử dụng đất chưa được cập nhật.

Thứ ba, là đầu tư hạ tầng chưa đồng bộ, ô nhiễm môi trường, tình trạng chậm tiến độ hoặc không triển khai thực hiện dự án… Quan niệm về hạ tầng phiến diện không chỉ là đường xá giao thông, điện, nước sạch; hệ thống tiêu, thoát nước khắc phục ô nhiễm môi trường… mà còn là hệ thông ngân hàng, mặt bằng sản xuất, hạ tầng kỹ thuật máy móc, khi hội nhập với CMCN 4.0 đòi hỏi hạ tầng thông tin – internet thuận tiện…

Tóm lại, việc triển khai chủ trương xây dựng CCN và CCN làng nghề chưa đạt yêu cầu về tiến độ chưa phát huy hiệu quả như mong muốn. …Không ít vấn đề về chính sách, về các loại quy hoạch chồng chéo, về quản lý nhà nước trong đất đai cần điều chỉnh, bổ sung thì mới thu hút đầu tư hiệu quả cho các CCN và CCN làng nghề.

4. Kiến nghị và giải pháp

Thứ nhất, di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu dân cư, có thể đáp ứng nhu cầu về mặt bằng sản xuất, nhưng với tập quán thói quen của làng nghề lâu đời chưa thích ứng cần được sự tự nguyện và hiểu biết thấu đáo. Do đó việc tuyên truyền vận động trong quá trình thực hiện là cần thiết.

Thứ hai, thu hút các nhà đầu tư xây dựng hạ tầng, coi đây là ưu tiên số một. Mặc dù, công tác giải phóng mặt bằng luôn là khâu khó nhất.

Thứ ba, tăng cường trách nhiệm quản lý của các cấp có khu CCN, thực tế cho thấy không ít CCN bị “biến dạng” – “không ít địa phương đã tập trung xây dựng các CCN làng nghề để đưa các cơ sở sản xuất ra khỏi khu dân cư. Nhưng thực tế, số hộ dân chịu di dời khá khiêm tốn. Trong khi đó, nhiều CCN nếu không trở thành các bãi cỏ ùm tùm, bỏ hoang phí thì lại biến tướng trở thành các khu dân cư, dịch vụ sầm uất với tràn lan vi phạm.” (SGGP Thứ Ba, 31/5/2022)

Thứ tư, Nhà nước các cấp cần có chính sách tài chính thông thoáng khuyến khích với CCN và CCN làng nghề. Việc đền bù để lấy đất chưa thoả đáng nên nhiều nơi chưa giải phóng mặt bằng đúng tiến độ. Người dân lâu nay quen với quy mô sản xuất hộ gia đình, nhưng khi di chuyển lên CCN phải có tiền thuê đất, kinh phí xây xưởng và nhiều vấn đề phát sinh khác. Đây chính là những rào cản khiến nhiều hộ sản xuất dù rất muốn chuyển vào CCN nhưng đành chịu. Cùng với đó, các cơ quan chức năng ở địa phương cũng chưa thực sự quyết liệt trong việc xử lý những cơ sở gây ô nhiễm.

Thứ năm, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội trong quá trình xây dựng CCN nói chung và các giải pháp thu hút đầu tư phát triển CCN và CCN làng nghề nói riêng. Thực tiễn mấy thập niên khởi sắc, chấn hưng làng nghề Việt Nam cho thấy, các tổ chức xã hội là cầu nối quan trọng tạo mối liên kết kép giữa làng nghề với Nhà nước với các nhà khoa học với các doanh nhân, giữa kinh tế với xã hội và văn hoá, giữa truyền thống và hiện đại hài hoà, ngày càng có nhiều sản phẩm nâng tầm giá trị vật thể và phi vật thể.

Trong Quyết định số 801/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phú ban hành ngày 07 tháng 7 năm 2022 về việc phê duyệt “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030” có nội dung ghi rõ: “Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp căn cứ chức năng, nhiệm vụ và điều lệ hoạt động chủ động, tích cực phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các địa phương và các cơ quan liên quan tuyên truyền, vận động người dân, doanh nghiệp và hội viên tham gia thực hiện bảo tồn và phát triển làng nghề. Tổ chức thực hiện các hoạt động cụ thể phù hợp với nội dung, nhiệm vụ Chương trình; tham gia giám sát việc thực hiện Chương trình theo quy định của pháp luật.

Có 7/8 dự án ưu tiên bằng ngân sách Nhà nước để bảo tồn và phát triển các giá trị của nghề, làng nghề từ nay đến năm 2030 đều khẳng định vai trò của
các Hiệp hội.

T.sỹ Nguyễn Vi Khải
Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.
Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.

Tin khác

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

LNV - Tạp chí Làng Nghề Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng” của đồng chí Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH T.W Đảng cộng sản Việt Nam.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Lào Cai chung tay vì mái ấm bền vững, không ai bị bỏ lại phía sau

Lào Cai chung tay vì mái ấm bền vững, không ai bị bỏ lại phía sau

LNV - Với cách làm sáng tạo, rõ người rõ việc, tỉnh Lào Cai đã trở thành điểm sáng trong cả nước trong thực hiện xóa nhà tạm, nhà dột nát, góp phần nâng cao đời sống người dân, lan tỏa tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái.
Nghệ An bứt phá với gần 750 sản phẩm OCOP

Nghệ An bứt phá với gần 750 sản phẩm OCOP

OVN - Những năm gần đây, tỉnh Nghệ An đang khẳng định vị thế của mình trên bản đồ OCOP toàn quốc. Với gần 750 sản phẩm OCOP đạt chuẩn từ 3 sao trở lên, Nghệ An không chỉ nằm trong top đầu cả nước về số lượng sản phẩm được công nhận, mà còn ghi dấu ấn nhờ
Nông thôn Tây Bắc: Ứng dụng công nghệ số, đòn bẩy đưa sản phẩm OCOP Điện Biên vươn xa

Nông thôn Tây Bắc: Ứng dụng công nghệ số, đòn bẩy đưa sản phẩm OCOP Điện Biên vươn xa

OVN - Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, chuyển đổi số đang mở ra cánh cửa mới cho phát triển kinh tế nông thôn, đặc biệt là với các sản phẩm OCOP. Ở Điện Biên, việc đưa sản phẩm OCOP lên các sàn thương mại điện tử (TMĐT), tận dụng các nền tảng m
Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

LNV - Tại xã Gia Thuận, tỉnh Đồng Tháp, bên cạnh những cánh đồng lúa xanh bát ngát và những chuyến tàu đánh bắt hải sản tất bật, làng nghề chế biến cá khô đã hình thành và phát triển từ nhiều năm nay, trở thành một trong những ngành nghề mũi nhọn góp phần
Nuôi cá lồng gắn với phát triển du lịch trên lòng hồ sông Đà

Nuôi cá lồng gắn với phát triển du lịch trên lòng hồ sông Đà

LNV - Hồ Hòa Bình, tỉnh Phú Thọ có diện tích hơn 8.892 ha mặt nước dành cho phát triển thủy sản, tổng diện tích mặt nước tiềm năng cho thủy sản trên 14.560 ha. Với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và nguồn thủy sản phong phú, đa dạng trên vùng hồ thủy điện H
Giao diện di động