Hà Nội: 24°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 34°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 23°C Thừa Thiên Huế

Đẩy mạnh thu hút đầu tư cụm công nghiệp, công nghiệp làng nghề, tạo đà phát triển các cơ sở công nghiệp nông thôn

LNV - Lãnh đạo Sở Công thương Hà Nội cho biết: “Hiện trên địa bàn Thành phố có 70 CCN hoạt động tại 17 quận, huyện và thị xã với tổng diện tích theo quy hoạch là 1.686 ha, trong đó, có 1.392 ha được đầu tư xây dựng hạ tầng, hoạt động ổn định. Các CCN đã thu hút khoảng 3.864 cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho 60 nghìn lao động, nộp ngân sách Nhà nước khoảng 1.100 tỷ đồng/năm.
1. Lịch sử vấn đề - thuật ngữ khái niệm

Mô hình cụm công nghiệp (CCN) được sử dụng ngày càng nhiều trên thế giới nhằm tận dụng các lợi thế cạnh tranh bên ngoài để hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng và địa phương. Có nhiều cách hiểu khác nhau về CCN. Theo Marshall (1926), Weber (1978), Ohlin (1933) và Hoover (1948), các doanh nghiệp tập trung tại một khu vực địa lý nằm tận dụng lợi ích kinh tế theo quy mô. Các cách hiểu về CCN hiện nay đều có điểm chung coi CCN là một thể chế tạo ra sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp chứ không đơn thuần chỉ coi CCN là một khu vực kỹ thuật có hạ tầng hiện đại. Sonobe và Otsuka (2006) coi CCN là sự tập trung về mặt địa lý của các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc có liên quan với nhau trong một khu vực nhỏ. Khái niệm cụm công nghiệp này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của các làng nghề ở Việt Nam.

Tại một sô nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia… những mô hình về CCN Làng nghề đã xuất hiện khá nhiều và có hiệu quả.Còn tại Việt Nam trong mấy năm gần đây, vấn đề CCN và CCN làng nghề đã đặt ra cho phát triển nông thôn mới như là một nội dung cấp thiết. Trên phạm vi 63 tinh, thành trên cả nước đã coi đây là một mô hình phát triển công nghiệp địa phương hiệu quả đáp ứng nhiều mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội…


Phương án phát triển CCN là việc sắp xếp, phân bố không gian phát triển các CCN hợp lý gắn với các chính sách, giải pháp quản lý, đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn cấp tỉnh trong từng thời kỳ trên cơ sở bảo vệ môi trường, tiết kiệm, hiệu quả sử dụng đất và các nguồn lực, tài nguyên khác của địa phương. Phương án phát triển CCN là một nội dung của quy hoạch tỉnh, được xây dựng, tích hợp vào quy hoạch tỉnh theo pháp luật quy hoạch. Đây là những mục tiêu cơ bản của việc xây dựng CCN và CCN làng nghề.

Về thuật ngữ, khái niệm có khoảng 12.900.000 kết quả (0,48 giây) với nhiều cách diễn đạt khác nhau, có quan niệm cho rằng đây là “cụm tiểu thủ công nghiệp” (QĐ 880/QĐ-TTg, ngày 9/6/2014) dự án qui hoạch CCN- Tiểu thủ công nghiệp tại Thái Nguyên. Có cách diễn đạt vắn tắt là “cụm làng nghề” hoặc đâu đó lại lẫn lộn với “khu công nghiệp tập trung” … Để thống nhất về quan niệm, văn bản số 68/2017NĐ-CP đã nêu và có sự phân biệt nhất định giữa “cụm công nghiệp” và Cụm công nghiệp làng nghề.

CCN là nơi sản xuất, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được đầu tư xây dựng nhằm thu hút, di dời các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác vào đầu tư sản xuất kinh doanh.

CCN làng nghề là CCN phục vụ di dời, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, cơ sở sản xuất hộ gia đình, cá nhân trong làng nghề nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, phát triển nghề, làng nghề ở địa phương. (theo văn bản số 68/2017NĐ-CP).

2. Thực trạng thu hút đầu tư tại CCN và CCN làng nghề

Hiện nay, cả nước có 968 CCN đã được thành lập, phân bố tại 63 tỉnh, thành phố (với tổng diện tích chiếm đất gần 31.000 ha). Đến năm 2020 của cả nước có 1.467 CCN với tổng diện tích 48.899 ha. Số CCN tập trung nhiều ở vùng Duyên hải miền Trung, vùng Đồng bằng Sông Hồng, vùng Đông Nam Bộ.

Theo tổng hợp từ các địa phương, tính đến nay tổng vốn đã đầu tư hạ tầng của các CCN là 15.762 tỷ đồng; Hình thức đầu tư hạ tầng chủ yếu là cuốn chiếu (vừa đầu tư hạ tầng vừa cho thuê đất). Cả nước có 721 CCN đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng với tổng diện tích xấp xỉ 20.056 ha. Có 472 CCN (với tổng diện tích khoảng 13.273ha) đã được phê duyệt dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật với tổng mức vốn đầu tư 44.891 tỷ đồng (trung bình 3,4 tỷ đồng/ha), đã và đang tiến hành đầu tư hạ tầng. Tuy nhiên, quá trình xây dựng CCN và CCN làng nghề đã bộc lộ những khó khăn vướng mắc ngay từ văn bản 68/NĐ-CP 2017 với nội dung cụ thể cần được làm tôt hơn: “Dự kiến nhu cầu mặt bằng sản xuất để thu hút đầu tư, di dời vào CCN, hiện trạng sử dụng đất, nguồn vốn đầu tư, tiến độ đầu tư hạ tầng, khả năng kết nối với hạ tầng bên ngoài, tư cách pháp nhân, năng lực của chủ đầu tư, dự báo tác động, biện pháp xử lý môi trường …

Chủ trương đầu tư xây dựng hạ tầng các CCN sẽ tận dụng và phát huy được lợi thế về đất đai, nguồn nguyên liệu, tay nghề lao động sẵn có tại nông thôn; Góp phần di dời các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu dân cư, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt tại các làng nghề nông thôn; Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, thu nhập ở nông thôn thông qua thu hút các dự án đầu tư, tạo ra việc làm cho lao động nông thôn, duy trì phát triển nghề, làng nghề truyền thống, các sản phẩm mới ở nông thôn. Tuy nhiên những nội dung đó chưa có hiệu quả cao như ý muốn. Nhiều nơi còn lúng túng, khi triển khai gặp nhiều khó khăn vướng mắc và tiến độ rất chậm.

Hà Nội là nơi có nhiều làng nghề nhất cả nước khi thực hiện chủ trương xây dựng CCN và CCN làng nghề thì triển khai còn chậm do nhiều nguyên nhân khách quan. Lãnh đạo Sở Công thương Hà Nội cho biết: “Hiện trên địa bàn Thành phố có 70 CCN hoạt động tại 17 quận, huyện và thị xã với tổng diện tích theo quy hoạch là 1.686 ha, trong đó, có 1.392 ha được đầu tư xây dựng hạ tầng, hoạt động ổn định. Các CCN đã thu hút khoảng 3.864 cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho 60 nghìn lao động, nộp ngân sách Nhà nước khoảng 1.100 tỷ đồng/năm. Trong đó có 26 CCN có các hạng mục công trình hạ tầng tương đối đồng bộ như các CCN: Quất Động mở rộng, Ngọc Hồi, Từ Liêm, thị trấn Phùng…, giúp sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp làng nghề chuyên nghiệp, hiệu quả hơn, đóng góp tích cực cho kinh tế Thủ đô.” Tuy nhiên, mới có CCN làng nghề Đại Thắng và CCN làng nghề Phú Túc (huyện Phú Xuyên) được khởi công, còn lại hầu hết đều chưa hoàn thành giải phóng mặt bằng. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do quy định của văn bản pháp luật, có trên 10ha đất lúa phải trình Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương chuyển đổi, trong khi đó đến nay mới có 2/20 cụm có văn bản chấp thuận chủ trương.

Để có thể khởi công 41 cụm công nghiệp còn lại theo đúng tiến độ đề ra, các cấp, ngành, địa phương của thành phố cần thực hiện tốt Kế hoạch số 89/KH-UBND của UBND Thành phố Hà Nội về khắc phục những hạn chế, khuyết điểm về đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp còn chậm tiến độ trên địa bàn. Trong đó, tập trung triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp UBND Thành phố đã chỉ đạo để tháo gỡ từng "nút thắt" đang ảnh hưởng đến tiến độ khởi công xây dựng các dự án CCN, phù hợp với điều kiện thực tế.

3. Một số nguyên nhân chính cần được bàn luận

Thứ nhất, nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng trên là do quy định của văn bản pháp luật, một số điều khoản không khả thi, chúng ta đã kịp thời có văn bản 66/2020/NĐ-CP về thay đổi một số điều của nghị định số 68/2017/NĐ-CP.

Thứ hai, do việc quy hoạch CCN dàn trải, chỉ chú trọng về số lượng, chưa gắn với phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật... đã dẫn đến những bất cập.

Nghị định 68/2017/NĐ-CP đã tạo hành lang pháp lý thống nhất, rõ ràng hơn, góp phần thu hút đầu tư phát triển công nghiệp ở địa phương. Tuy nhiên, việc chấp hành một số nội dung, quy định của Nghị định 68 tại một số địa phương còn chưa nghiêm túc, đầy đủ. Nhiều địa phương vẫn còn gặp khó trong việc triển khai Nghị định này như Quy định về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch phát triển CCN nay không còn phù hợp với Luật Quy hoạch nên việc lựa chọn chu đầu tư cần được hướng dẫn cụ thể hơn.

Để khắc phục tình trạng này “Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các Bộ, ngành để xây dựng, hoàn thiện thể chế, quản lý, hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động liên quan đến CCN; thường xuyên cung cấp thông tin, trao đổi và phối hợp trong việc quản lý Nhà nước về CCN. Đồng thời, Bộ sẽ tăng cường kiểm tra, quản lý chặt chẽ, đúng quy định đối với phát triển CCN tại các địa phương từ khâu quy hoạch, thành lập, đầu tư xây dựng hạ tầng đến hoạt động
của các CCN”.

Theo ông Đàm Tiến Thắng PGĐ Sở Công thương HN, nguyên nhân nữa là do phê duyệt tại các thời điểm khác nhau nên mặc dù có nhiều CCN đã nằm trong quy hoạch phát triển, nhưng khi triển khai thành lập cụm theo Nghị định 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 lại “vướng” vào một số diện tích đất không phải của CCN, hoặc mục đích sử dụng đất chưa được cập nhật.

Thứ ba, là đầu tư hạ tầng chưa đồng bộ, ô nhiễm môi trường, tình trạng chậm tiến độ hoặc không triển khai thực hiện dự án… Quan niệm về hạ tầng phiến diện không chỉ là đường xá giao thông, điện, nước sạch; hệ thống tiêu, thoát nước khắc phục ô nhiễm môi trường… mà còn là hệ thông ngân hàng, mặt bằng sản xuất, hạ tầng kỹ thuật máy móc, khi hội nhập với CMCN 4.0 đòi hỏi hạ tầng thông tin – internet thuận tiện…

Tóm lại, việc triển khai chủ trương xây dựng CCN và CCN làng nghề chưa đạt yêu cầu về tiến độ chưa phát huy hiệu quả như mong muốn. …Không ít vấn đề về chính sách, về các loại quy hoạch chồng chéo, về quản lý nhà nước trong đất đai cần điều chỉnh, bổ sung thì mới thu hút đầu tư hiệu quả cho các CCN và CCN làng nghề.

4. Kiến nghị và giải pháp

Thứ nhất, di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu dân cư, có thể đáp ứng nhu cầu về mặt bằng sản xuất, nhưng với tập quán thói quen của làng nghề lâu đời chưa thích ứng cần được sự tự nguyện và hiểu biết thấu đáo. Do đó việc tuyên truyền vận động trong quá trình thực hiện là cần thiết.

Thứ hai, thu hút các nhà đầu tư xây dựng hạ tầng, coi đây là ưu tiên số một. Mặc dù, công tác giải phóng mặt bằng luôn là khâu khó nhất.

Thứ ba, tăng cường trách nhiệm quản lý của các cấp có khu CCN, thực tế cho thấy không ít CCN bị “biến dạng” – “không ít địa phương đã tập trung xây dựng các CCN làng nghề để đưa các cơ sở sản xuất ra khỏi khu dân cư. Nhưng thực tế, số hộ dân chịu di dời khá khiêm tốn. Trong khi đó, nhiều CCN nếu không trở thành các bãi cỏ ùm tùm, bỏ hoang phí thì lại biến tướng trở thành các khu dân cư, dịch vụ sầm uất với tràn lan vi phạm.” (SGGP Thứ Ba, 31/5/2022)

Thứ tư, Nhà nước các cấp cần có chính sách tài chính thông thoáng khuyến khích với CCN và CCN làng nghề. Việc đền bù để lấy đất chưa thoả đáng nên nhiều nơi chưa giải phóng mặt bằng đúng tiến độ. Người dân lâu nay quen với quy mô sản xuất hộ gia đình, nhưng khi di chuyển lên CCN phải có tiền thuê đất, kinh phí xây xưởng và nhiều vấn đề phát sinh khác. Đây chính là những rào cản khiến nhiều hộ sản xuất dù rất muốn chuyển vào CCN nhưng đành chịu. Cùng với đó, các cơ quan chức năng ở địa phương cũng chưa thực sự quyết liệt trong việc xử lý những cơ sở gây ô nhiễm.

Thứ năm, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội trong quá trình xây dựng CCN nói chung và các giải pháp thu hút đầu tư phát triển CCN và CCN làng nghề nói riêng. Thực tiễn mấy thập niên khởi sắc, chấn hưng làng nghề Việt Nam cho thấy, các tổ chức xã hội là cầu nối quan trọng tạo mối liên kết kép giữa làng nghề với Nhà nước với các nhà khoa học với các doanh nhân, giữa kinh tế với xã hội và văn hoá, giữa truyền thống và hiện đại hài hoà, ngày càng có nhiều sản phẩm nâng tầm giá trị vật thể và phi vật thể.

Trong Quyết định số 801/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phú ban hành ngày 07 tháng 7 năm 2022 về việc phê duyệt “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030” có nội dung ghi rõ: “Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp căn cứ chức năng, nhiệm vụ và điều lệ hoạt động chủ động, tích cực phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các địa phương và các cơ quan liên quan tuyên truyền, vận động người dân, doanh nghiệp và hội viên tham gia thực hiện bảo tồn và phát triển làng nghề. Tổ chức thực hiện các hoạt động cụ thể phù hợp với nội dung, nhiệm vụ Chương trình; tham gia giám sát việc thực hiện Chương trình theo quy định của pháp luật.

Có 7/8 dự án ưu tiên bằng ngân sách Nhà nước để bảo tồn và phát triển các giá trị của nghề, làng nghề từ nay đến năm 2030 đều khẳng định vai trò của
các Hiệp hội.

T.sỹ Nguyễn Vi Khải
Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.
Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.
Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Tin khác

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

LNV - Ðại hội XIII của Ðảng xác định rõ: Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

LNV - Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm (Hà Nội) có hai nghề truyền thống là dát vàng bạc quì và may đồ da đã có từ lâu đời. Làm vàng bạc quì là một nghề truyền thống, chế biến vàng thật, bạc thật thành bột vàng, bạc (gọi là quì) bằng phương pháp sản xuất thủ công lâu đời, độc đáo.
Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình số 04-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVII về "Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành Nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân giai đoạn 2021-2025".
Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

LNV - Theo ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ NN-PTNT, Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ nhiều năm, tuy nhiên có thời điểm chúng ta sản xuất đại trà, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Vì vậy, thời gian tới phải nâng tầm hơn nữa cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

LNV - Đẩy mạnh việc tuyên truyền làm cho doanh nghiệp, hộ sản xuất, hộ kinh doanh dịch vụ hiểu và quan tâm về maketing và bán hàng online
Nghề và Làng nghề truyền thống

Nghề và Làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề, làng có nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo ra nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em; giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Tuần Văn hoá, Du lịch, Thương mại Vạn Phúc 2024 có nhiều điểm mới

Tuần Văn hoá, Du lịch, Thương mại Vạn Phúc 2024 có nhiều điểm mới

LNV - Với mục tiêu đẩy mạnh hơn nữa công tác quảng bá nghề dệt lụa truyền thống, tăng cường các hoạt động du lịch, giới thiệu đến du khách các hoạt động ngành nghề đa dạng của địa phương, chiều ngày 22-11, Ủy ban Nhân dân phường Vạn Phúc (quận Hà Đông, TP Hà Nội) tổ chức Hội nghị thông tin về công tác tổ chức tuần văn hóa du lịch thương mại làng nghề Vạn Phúc năm 2024.
Nhiều hoạt động kỷ niệm 20 năm Khu phố cổ Hà Nội là Di tích lịch sử Quốc gia

Nhiều hoạt động kỷ niệm 20 năm Khu phố cổ Hà Nội là Di tích lịch sử Quốc gia

LNV - Nhân chào mừng kỷ niệm 19 năm ngày Di sản văn hoá Việt Nam (23/11/2005 - 23/11/2024), kỷ niệm 20 năm Khu phố cổ Hà Nội được công nhận Di tích lịch sử Quốc gia và 20 năm hoạt động của Không gian đi bộ trên địa bàn quận (2004 - 2024), UBND quận Hoàn K
Phú Yên: Những người thầy gieo chữ nơi vùng cao Phú Mỡ

Phú Yên: Những người thầy gieo chữ nơi vùng cao Phú Mỡ

LNV - Nhiều năm qua, các thầy cô giáo đang tác công tác giảng dạy tại điểm trường Phú Hải (thuộc Trường Tiểu học Phú Mỡ) thôn Phú Hải, xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên hằng ngày vẫn miệt mài gieo từng con chữ và tình yêu thương cho các em học sinh
Bình Định: Người có uy tín, già làng tiên phong trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia

Bình Định: Người có uy tín, già làng tiên phong trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia

LNV - Thời gian qua, các dự án, tiểu dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 trên địa bàn tỉnh Bình Định thực hiện thành công đều có sự đóng góp đáng ghi
Bình Định: Hai tượng sư tử đá thành Đồ Bàn là bảo vật quốc gia

Bình Định: Hai tượng sư tử đá thành Đồ Bàn là bảo vật quốc gia

LNV - Ngày 21/11, tại Bảo tàng Bình Định diễn ra Lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về công nhận bảo vật quốc gia hai tượng sư tử đá thành Đồ Bàn và giới thiệu các bảo vật quốc gia tỉnh Bình Định. Đây là hoạt động hướng đến Ngày Di sản Văn hoá
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động