Hà Nội: 25°C Hà Nội
Đà Nẵng: 29°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 29°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 29°C Thừa Thiên Huế

Thay đổi thể chế, chính sách là động lực để phát triển làng nghề và sự cần thiết xây dựng “Luật Làng nghề” ở Việt Nam

LNV - “Thể chế” là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo, còn “Chính sách” là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra. Chúng ta sẽ thấy rõ ảnh hưởng của thể chế và chính sách khi theo dõi sự phát triển của làng nghề Việt Nam theo dòng chảy lịch sử dân tộc.


TS. Tôn Gia Hóa; PCT. Hiệp hội làng nghề Việt Nam

Làng nghề Việt Nam được hình thành, phát triển trải qua nhiều hình thái chế độ xã hội nhưng có lẽ sâu sắc và rõ nét nhất là trong thời kỳ chế độ phong kiến tồn tại qua nhiều thế kỷ. Trong nhiều thời đoạn lịch sử, Nhà nước quân chủ tập quyền đã phát huy được tác dụng tích cực của mình, quy tụ và động viên được đông đảo quần chúng nhân dân, tạo nên giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của các làng nghề Việt nam. Điều này được chứng minh qua việc tất cả các làng nghề truyền thống được Nhà nước ta công nhận ngày nay, đều là những làng nghề được hình thành trong giai đoạn đó.


Nhà Đấu Xảo Hà Nội, Hà Nội năm 1902


Giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến quan liêu Việt Nam đã đi vào cuộc khủng hoảng cơ cấu, vì không tạo nên được một cơ sở kinh tế – xã hội nội tại mới. Đó là điều kiện thuận lợi dẫn đến sự can thiệp vũ trang của tư bản thực dân Pháp, tạo nên một cú va đập từ bên ngoài, làm sụp đổ mô hình truyền thống của chế độ phong kiến nhà nước quan liêu Việt Nam. Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc là một nền kinh tế thuộc địa phát triển rất nhanh, các ngành tiểu thủ công nghiệp bản địa đang trên đà suy thoái được Pháp hỗ trợ phát triển. Người Pháp xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh bao trùm toàn bộ lãnh thổ gồm đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay và các đô thị lớn. Thủ công nghiệp Việt Nam từng có quá khứ huy hoàng nhưng đã suy tàn lại được Pháp khuyến khích và khai thác. Chính quyền thuộc địa chủ trương củng cố nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, nhiều khoá tập huấn nghề đã được thực hiện ở các tỉnh Hà Đông, Nam Định và một số nơi khác. Từ năm 1902, Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ là Paul Doumer với chính sách “trọng thương”, đã tổ chức nhiều hội chợ quốc tế ở Hà Nội để giới thiệu các sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp của Bắc Kỳ, cùng với hiện vật văn hóa của Đông Dương và Viễn Đông. Công trình “ Nhà đấu xảo Hà Nội” (Grand Palais Hà Nội) được xây dựng và trở thành công trình bề thế nhất xứ Đông Dương hồi đó. Đây là nơi trưng bày sản phẩm thủ công để so sánh độ tinh xảo và tay nghề của nghệ nhân, góp phần tạo ra công ăn việc làm cho nhiều làng nghề. Cũng nhờ đó mà lần đầu tiên các sản phẩm thủ công tinh xảo của Việt Nam như lụa Hà Đông hay gốm Bát Tràng...được góp mặt trong các hội chợ ở Paris và có cơ hội xâm nhập thị trường châu Âu để từ đó tiến ra nhiều nước khác trên thế giới.

Giai đoạn hòa bình lập lại, từ năm 1954. Việt Nam cùng một lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Nhà nước đề ra chính sách khôi phục tiểu thủ công nghiệp và công thương nghiệp, ban hành nhiều chính sách cho các cơ sở được phát triển sản xuất để phục vụ dân sinh. Hội nghị lần thứ mười sáu (4-1959) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) thông qua hai nghị quyết quan trọng về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh: Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về kinh tế không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh. Đây là thời kỳ hồi phục của ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam và của hệ thống các làng nghề Việt Nam sau thời kỳ chiến tranh. Những nhu cầu tiêu dùng nội địa được đáp ứng bởi những cơ sở Hợp tác xã hoặc cơ sở công tư hợp doanh, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được xuất khẩu sang Liên Xô và các nước đông Âu thuộc phe XHCN dưới hình thức trao đổi, nhận lại bằng máy móc, thiết bị, công trình...phục vụ cho công cuộc tái thiết đất nước.


Làng nghề thu hút du khách


Tuy nhiên với những nhận thức sai lệch về CNXH, thể chế phát triển được chế định có những nội dung không phù hợp với quy luật khách quan, thể hiện ở cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chỉ công nhận sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể, coi sở hữu tư nhân và sở hữu cá thể của hộ nông dân là không phù hợp với bản chất của CNXH; không chấp nhận sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường..., sự chế định không đúng quyền tài sản, quyền làm chủ và tự do sản xuất kinh doanh của các chủ thể, không nhận thức đúng và tôn trọng quy luật kinh tế thị trường, không tôn trọng đầy đủ lợi ích kinh tế chính đáng của các chủ thể sản xuất kịnh doanh. Chính điều này đã làm triệt tiêu động lực phát triển - nguyên nhân cơ bản của cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội vào cuối những năm 1970 - đầu những năm 1980, dẫn đến khởi đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986. Đây là giai đoạn rất khó khăn của nghành tiểu thủ công nghiệp cũng như của các làng nghề trong cả nước, nhất là khi Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan rã của các nước XHCN Đông Âu. Hàng thủ công Mỹ Nghệ Việt Nam mất một thị trường xuất khẩu quan trọng, các làng nghề lúc đó hoạt động dưới hình thức các HTX tiểu thủ công nghiệp lao đao, thậm chí đình trệ sản xuất.

Công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986, đã đặt những nguyên tắc mang tính nền móng, xây dựng một thể chế phát triển mới, trọng tâm là đặt mục tiêu xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm nội dung cốt lõi của thể chế phát triển.… Thể chế này khuyến khích tự do cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và quan trọng nhất là công nhận kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước, xác lập và bảo vệ quyền tự do sản xuất kinh doanh, tôn trọng và bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng; xác lập thể chế kinh tế thị trường; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đặt mỗi con người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh trở thành chủ thể của chính mình. Điều này khiến các làng nghề Việt Nam như được “cởi trói”, các nghệ nhân, thợ thủ công, các HTX tiểu thủ công nghiệp đã tìm được không gian để sáng tạo trong lao động sản xuất, sản phẩm của các làng nghề lại một lần nữa có dịp giới thiệu qua các hội chợ, triển lãm trong nước và quốc tế. Hàng thủ công mỹ nghệ Việt nam đã có mặt ở 106 nước trên thế giới.

Đại hội XI của Đảng xác định “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính” là một đột phá chiến lược. Đến nghị quyết của BCHTW khóa XII của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã nhấn mạnh phải “Hoàn thiện thể chế kinh tế đi đôi với hoàn thiện thể chế chính trị”; phải “Cơ bản bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường, sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững”. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; Khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Liên tục trong các kỳ Đại hội gần đây, Đảng ta luôn khẳng định tiếp tục hoàn thiện thể chế là một trong ba khâu đột phá, đó là: (1) Hoàn thiện thể chế; (2) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (3) Xây dựng kết cấu hạ tầng.

Các Nghị quyết của Đảng về thay đổi và hoàn thiện các thể chế về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế đã tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của các làng nghề Việt nam. Từ sự phát triển tự phát trước năm 2000, các làng nghề Việt nam dần đã được định hình, phân loại để hỗ trợ phát triển thông qua những chính sách về tài chính, đầu tư công cho cơ sở hạ tầng cũng như công tác đào tạo nguồn nhân lực, quảng bá sản phầm.... Hệ thống chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại hay suy vong của các làng nghề, thậm chí còn có thể làm tiêu vong cả một làng nghề truyền thống nếu sự tồn tại của nó không hiệu quả. Ví dụ như trường hợp các làng nghề sản xuất pháo trước đây và một số làng nghề tái chế...

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 132/2000/QĐ-TTG ngày 24 tháng 11 năm 2000 về một số chính sách phát triển Ngành nghề nông thôn là một trong những quyết định đầu tiên điều chỉnh các vấn đề liên quan đến ngành nghề nông thôn và làng nghề. Sau Quyết định này, nhiều vấn đề của Làng nghề dần được quan tâm, giải quyết từng bước, như các vấn đề về mặt bằng sản xuất, tín dụng, bảo vệ môi trường.... Đặc biệt Quyết định này cũng lần đầu tiên đặt ra vấn đề cần phải có chính sách tôn vinh nghệ nhân trong các làng nghề. Những năm sau đó, Chính Phủ đã ban hành và sửa đổi nhiều chính sách liên quan như: Nghị định khuyến khích phát triển Công nghiệp nông thôn năm 2004 (gọi tắt là “Khuyến Công”); Nghị định về phát triển nghành nghề nông thôn năm 2006, lần đầu tiên đưa ra các tiêu chí để công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống, nghề truyền thống, qua đó có những chính sách hỗ trợ cụ thể, quy định xây dựng chương trình “Bảo tồn và phát triển làng nghề”; Năm 2018, Chính phủ đã ban hành một Nghị định mới để thay thế ( Nghị định số: 52/2018/NĐ-CP về Phát triển ngành nghề nông thôn), quy định dành kinh phí từ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, hỗ trợ các dự án, đề án, kế hoạch, mô hình thuộc chương trình”Bảo tồn và phát triển làng nghề”. Đây thực sự là cơ hội để các làng nghề có được nguồn đầu tư, hỗ trợ phát triển trong giai đoạn hiện tại. Các chính sách của Chính phủ lần lượt ra đời suốt 20 năm trở lại đây đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của các làng nghề Việt Nam theo hướng tích cực. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc cần giải quyết, đó là: (1) Vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề; (2) Vấn đề gìn giữ các giá trị văn hóa của các làng nghề; (3) Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và tôn vinh nghệ nhân, những “Báu vật nhân văn sống” của xã hội; (4) Vấn đề phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của người lao động tại các làng nghề; (5) Khẳng định vai trò hoạt động của hội, hiệp hội nghề nghiệp trong các làng nghề.

Cũng còn một khó khăn khác, đó là vấn đề “quản lý nhà nước đối với làng nghề”: Làng nghề trước hết là một đơn vị dân cư, chịu sự điều chỉnh của các luật lệ hành chính, làng nghề lại đồng thời là một khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp đa ngành, bắt nguồn từ những hoạt động thời vụ, phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp nên lại đồng thời chịu sự quản lý của nhiều Bộ ngành từ trung ương đến địa phương. Mặc dù Chính phủ đã có sự phân công, giao cho Bộ NN&PTNT thống nhất quản lý lĩnh vực làng nghề, nhưng thực tế vẫn còn sự chồng chéo nhiệm vụ với Bộ Công Thương, cũng như sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước với địa phương. Thực tế, đây là vấn đề khó và cần luôn được điều chỉnh để làng nghề được thụ hưởng đầy đủ những ưu đãi của Nhà nước trong công cuộc bảo tồn và phát triển làng nghề.

Có một số đề xuất dưới đây để xây dựng một hệ thống thể chế hỗ trợ cho sự phát triển bề vững của làng nghề:

- Xây dựng Luật về Làng nghề: Sự phát triển của làng nghề Việt Nam đến giai đoạn này đã bộc lộ rõ những vấn đề cần được phát huy, cũng như nhiều vấn đề cần được giải quyết thích đáng. Luật về làng Nghề sẽ điều chỉnh mối quan hệ giữa “phát triển” và “gìn giữ, bảo tồn” trên quan điểm hài hòa lợi ích cộng đồng với lợi ích Quốc gia. Luật làng nghề là một đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các làng nghề Việt nam.

- Xây dựng Luật về Hội: Đây là xu hướng khách quan của đời sống xã hội, một số hội, đoàn thể có tham gia vào hệ thống chính trị, do đó phải làm rõ các tổ chức (trong đó có Hội) nào là tổ chức chính trị? Các tổ chức nào là tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức nào chỉ thuần túy là tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp và xã hội tự nguyện, thiện nguyện (?!). Những sinh hoạt trong cộng đồng làng nghề hiện nay, nhất là các làng nghề truyền thống, hầu hết đều dựa vào sự gắn kết trong các hôi, hiệp hội nghề nghiệp từ trung ương đến địa phương. Luật về Hội sẽ giúp cho các làng nghề phát huy được tính tự chủ, mở rộng liên kết, đoàn kết cộng đồng làng xã vì sự phát triển của quê hương, nâng cao đời sống của thợ thủ công.

- Trên cơ sở các đạo luật, cần cụ thể hóa bằng các cơ chế chính sách và thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan. Cần đẩy mạnh cải cách hành chính để đảm bảo thực hiện các cơ chế chính sách đã ban hành, khắc phục những rào cản, cơ chế “xin-cho” ảnh hưởng đến sự phát triển các làng nghề. Đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với nhau và với địa phương, tập trung nguồn lực xã hội để làng nghề Việt Nam phát triển một cách bền vững.

TS. Tôn Gia Hóa
PCT. Hiệp hội làng nghề Việt Nam

Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ

Tin liên quan

Tin mới hơn

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.

Tin khác

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

LNV - Tạp chí Làng Nghề Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng” của đồng chí Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH T.W Đảng cộng sản Việt Nam.
Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

LNV - Trải qua hàng trăm năm lịch sử, các làng nghề không chỉ mang nhiều giá trị về mặt kinh tế mà còn là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc và mang đậm dấu ấn của kiến trúc truyền thống Việt Nam. Khai thác tiềm năng của làng nghề để thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch đang được coi là một trong những hướng đi triển vọng của đất nước. Tuy nhiên, làng nghề truyền thống trong thời kỳ đổi mới cũng đang đặt ra những thách thức đặc biệt là bảo tồn và phát triển về không gian kiến trúc.
Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

LNV - Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam từ lâu đã được biết đến với những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa, nghệ thuật truyền thống, thể hiện tài hoa của những nghệ nhân làng nghề. Tuy nhiên, khi bước vào thời đại hội nhập và toàn cầu hóa, để giữ vững được thị trường trong nước và cạnh tranh với các sản phẩm quốc tế, các doanh nghiệp và làng nghề phải tìm ra cách tiếp cận hiệu quả hơn thông qua chiến lược marketing xuất khẩu.
Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em, giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có những hướng đi bền vững.
Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

LNV - Vượt ra khỏi vai trò vỏ bọc bên ngoài, bao bì sản phẩm còn là câu chuyện thương hiệu và thông điệp mà nhà sản xuất muốn gửi gắm. Vì vậy, thiết kế bao bì không chỉ đòi hỏi sự sáng tạo, mà còn cần sự hiểu biết sâu sắc về sản phẩm, thị trường và khách hàng.
Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

LNV - Dù đã đưa ra nhiều biện pháp, giải pháp, quy định đối với các cơ sở sản xuất tại làng nghề nhưng việc bảo vệ môi trường vẫn đang gây nhiều khó khăn cho các cấp chính quyền quản lý. Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại làng nghề cũng đặt ra nhiều thách thức. Trong đó, việc gia tăng phát triển cả về số lượng làng nghề và loại ngành nghề đã khiến ô nhiễm môi trường cũng ngày càng cao, nhiều nơi vượt quá tầm kiểm soát của các cấp chính quyền quản lý.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

LNV - Nhân dịp Tết Ất Tỵ 2025, ông Đặng Khánh Duy, Tổng giám đốc điều hành (CEO) Công ty TNHH Tân Nhiên - Chủ thể đầu tiên của tỉnh Tây Ninh có sản phẩm đạt OCOP 5 sao đã có những chia sẻ với Tạp chí Làng nghề Việt Nam.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

LNV - Nếu phải xác định một điểm khởi đầu cho hành trình chuyển đổi số tại huyện Phú Xuyên, thì đó không phải là hạ tầng, công nghệ hay những con số đầu tư hàng chục tỷ đồng, mà chính là yếu tố con người - những người dám nghĩ, dám làm, dám tiên phong.
Đời sống mới ở xã Lê Lợi

Đời sống mới ở xã Lê Lợi

LNV - Sau khi đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2019, xã Lê Lợi (huyện Thường Tín) không ngừng nâng chất các tiêu chí nông thôn mới đã đạt và thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu nông thôn mới nâng cao.
Dự báo, giá xăng, dầu giảm mạnh 6,8 - 7,5% trong ngày 3-7

Dự báo, giá xăng, dầu giảm mạnh 6,8 - 7,5% trong ngày 3-7

LNV - Mô hình dự báo giá xăng, dầu của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) nhận định, tại kỳ điều hành ngày 3-7, giá xăng, dầu bán lẻ có thể giảm 6,8 - 7,5%.
Trí thức trẻ Lê Bảo Hưng đam mê với khát vọng làm giàu trên mảnh đất quê hương

Trí thức trẻ Lê Bảo Hưng đam mê với khát vọng làm giàu trên mảnh đất quê hương

LNV - Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, anh Lê Bảo Hưng, sinh năm 1993, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp chăn nuôi Bảo Hưng (HTX), xã Trường Hà đã khởi nghiệp thành công từ mô hình chăn nuôi an toàn sinh học. Anh là gương điển hình cho lớp trí thức t
Hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao

Hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao

LNV - Bài viết về cách nông nghiệp công nghệ cao nâng cao chất lượng, tăng thu nhập và mở rộng thị trường cho nông dân miền núi phía Bắc Việt Nam.
Giao diện di động