Hà Nội: 16°C Hà Nội
Đà Nẵng: 20°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 19°C Thừa Thiên Huế

Thay đổi thể chế, chính sách là động lực để phát triển làng nghề và sự cần thiết xây dựng “Luật Làng nghề” ở Việt Nam

LNV - “Thể chế” là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo, còn “Chính sách” là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra. Chúng ta sẽ thấy rõ ảnh hưởng của thể chế và chính sách khi theo dõi sự phát triển của làng nghề Việt Nam theo dòng chảy lịch sử dân tộc.


TS. Tôn Gia Hóa; PCT. Hiệp hội làng nghề Việt Nam

Làng nghề Việt Nam được hình thành, phát triển trải qua nhiều hình thái chế độ xã hội nhưng có lẽ sâu sắc và rõ nét nhất là trong thời kỳ chế độ phong kiến tồn tại qua nhiều thế kỷ. Trong nhiều thời đoạn lịch sử, Nhà nước quân chủ tập quyền đã phát huy được tác dụng tích cực của mình, quy tụ và động viên được đông đảo quần chúng nhân dân, tạo nên giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của các làng nghề Việt nam. Điều này được chứng minh qua việc tất cả các làng nghề truyền thống được Nhà nước ta công nhận ngày nay, đều là những làng nghề được hình thành trong giai đoạn đó.


Nhà Đấu Xảo Hà Nội, Hà Nội năm 1902


Giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến quan liêu Việt Nam đã đi vào cuộc khủng hoảng cơ cấu, vì không tạo nên được một cơ sở kinh tế – xã hội nội tại mới. Đó là điều kiện thuận lợi dẫn đến sự can thiệp vũ trang của tư bản thực dân Pháp, tạo nên một cú va đập từ bên ngoài, làm sụp đổ mô hình truyền thống của chế độ phong kiến nhà nước quan liêu Việt Nam. Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc là một nền kinh tế thuộc địa phát triển rất nhanh, các ngành tiểu thủ công nghiệp bản địa đang trên đà suy thoái được Pháp hỗ trợ phát triển. Người Pháp xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh bao trùm toàn bộ lãnh thổ gồm đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay và các đô thị lớn. Thủ công nghiệp Việt Nam từng có quá khứ huy hoàng nhưng đã suy tàn lại được Pháp khuyến khích và khai thác. Chính quyền thuộc địa chủ trương củng cố nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, nhiều khoá tập huấn nghề đã được thực hiện ở các tỉnh Hà Đông, Nam Định và một số nơi khác. Từ năm 1902, Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ là Paul Doumer với chính sách “trọng thương”, đã tổ chức nhiều hội chợ quốc tế ở Hà Nội để giới thiệu các sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp của Bắc Kỳ, cùng với hiện vật văn hóa của Đông Dương và Viễn Đông. Công trình “ Nhà đấu xảo Hà Nội” (Grand Palais Hà Nội) được xây dựng và trở thành công trình bề thế nhất xứ Đông Dương hồi đó. Đây là nơi trưng bày sản phẩm thủ công để so sánh độ tinh xảo và tay nghề của nghệ nhân, góp phần tạo ra công ăn việc làm cho nhiều làng nghề. Cũng nhờ đó mà lần đầu tiên các sản phẩm thủ công tinh xảo của Việt Nam như lụa Hà Đông hay gốm Bát Tràng...được góp mặt trong các hội chợ ở Paris và có cơ hội xâm nhập thị trường châu Âu để từ đó tiến ra nhiều nước khác trên thế giới.

Giai đoạn hòa bình lập lại, từ năm 1954. Việt Nam cùng một lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Nhà nước đề ra chính sách khôi phục tiểu thủ công nghiệp và công thương nghiệp, ban hành nhiều chính sách cho các cơ sở được phát triển sản xuất để phục vụ dân sinh. Hội nghị lần thứ mười sáu (4-1959) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) thông qua hai nghị quyết quan trọng về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh: Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về kinh tế không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh. Đây là thời kỳ hồi phục của ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam và của hệ thống các làng nghề Việt Nam sau thời kỳ chiến tranh. Những nhu cầu tiêu dùng nội địa được đáp ứng bởi những cơ sở Hợp tác xã hoặc cơ sở công tư hợp doanh, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được xuất khẩu sang Liên Xô và các nước đông Âu thuộc phe XHCN dưới hình thức trao đổi, nhận lại bằng máy móc, thiết bị, công trình...phục vụ cho công cuộc tái thiết đất nước.


Làng nghề thu hút du khách


Tuy nhiên với những nhận thức sai lệch về CNXH, thể chế phát triển được chế định có những nội dung không phù hợp với quy luật khách quan, thể hiện ở cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chỉ công nhận sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể, coi sở hữu tư nhân và sở hữu cá thể của hộ nông dân là không phù hợp với bản chất của CNXH; không chấp nhận sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường..., sự chế định không đúng quyền tài sản, quyền làm chủ và tự do sản xuất kinh doanh của các chủ thể, không nhận thức đúng và tôn trọng quy luật kinh tế thị trường, không tôn trọng đầy đủ lợi ích kinh tế chính đáng của các chủ thể sản xuất kịnh doanh. Chính điều này đã làm triệt tiêu động lực phát triển - nguyên nhân cơ bản của cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội vào cuối những năm 1970 - đầu những năm 1980, dẫn đến khởi đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986. Đây là giai đoạn rất khó khăn của nghành tiểu thủ công nghiệp cũng như của các làng nghề trong cả nước, nhất là khi Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan rã của các nước XHCN Đông Âu. Hàng thủ công Mỹ Nghệ Việt Nam mất một thị trường xuất khẩu quan trọng, các làng nghề lúc đó hoạt động dưới hình thức các HTX tiểu thủ công nghiệp lao đao, thậm chí đình trệ sản xuất.

Công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986, đã đặt những nguyên tắc mang tính nền móng, xây dựng một thể chế phát triển mới, trọng tâm là đặt mục tiêu xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm nội dung cốt lõi của thể chế phát triển.… Thể chế này khuyến khích tự do cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và quan trọng nhất là công nhận kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước, xác lập và bảo vệ quyền tự do sản xuất kinh doanh, tôn trọng và bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng; xác lập thể chế kinh tế thị trường; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đặt mỗi con người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh trở thành chủ thể của chính mình. Điều này khiến các làng nghề Việt Nam như được “cởi trói”, các nghệ nhân, thợ thủ công, các HTX tiểu thủ công nghiệp đã tìm được không gian để sáng tạo trong lao động sản xuất, sản phẩm của các làng nghề lại một lần nữa có dịp giới thiệu qua các hội chợ, triển lãm trong nước và quốc tế. Hàng thủ công mỹ nghệ Việt nam đã có mặt ở 106 nước trên thế giới.

Đại hội XI của Đảng xác định “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính” là một đột phá chiến lược. Đến nghị quyết của BCHTW khóa XII của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã nhấn mạnh phải “Hoàn thiện thể chế kinh tế đi đôi với hoàn thiện thể chế chính trị”; phải “Cơ bản bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường, sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững”. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; Khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Liên tục trong các kỳ Đại hội gần đây, Đảng ta luôn khẳng định tiếp tục hoàn thiện thể chế là một trong ba khâu đột phá, đó là: (1) Hoàn thiện thể chế; (2) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (3) Xây dựng kết cấu hạ tầng.

Các Nghị quyết của Đảng về thay đổi và hoàn thiện các thể chế về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế đã tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của các làng nghề Việt nam. Từ sự phát triển tự phát trước năm 2000, các làng nghề Việt nam dần đã được định hình, phân loại để hỗ trợ phát triển thông qua những chính sách về tài chính, đầu tư công cho cơ sở hạ tầng cũng như công tác đào tạo nguồn nhân lực, quảng bá sản phầm.... Hệ thống chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại hay suy vong của các làng nghề, thậm chí còn có thể làm tiêu vong cả một làng nghề truyền thống nếu sự tồn tại của nó không hiệu quả. Ví dụ như trường hợp các làng nghề sản xuất pháo trước đây và một số làng nghề tái chế...

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 132/2000/QĐ-TTG ngày 24 tháng 11 năm 2000 về một số chính sách phát triển Ngành nghề nông thôn là một trong những quyết định đầu tiên điều chỉnh các vấn đề liên quan đến ngành nghề nông thôn và làng nghề. Sau Quyết định này, nhiều vấn đề của Làng nghề dần được quan tâm, giải quyết từng bước, như các vấn đề về mặt bằng sản xuất, tín dụng, bảo vệ môi trường.... Đặc biệt Quyết định này cũng lần đầu tiên đặt ra vấn đề cần phải có chính sách tôn vinh nghệ nhân trong các làng nghề. Những năm sau đó, Chính Phủ đã ban hành và sửa đổi nhiều chính sách liên quan như: Nghị định khuyến khích phát triển Công nghiệp nông thôn năm 2004 (gọi tắt là “Khuyến Công”); Nghị định về phát triển nghành nghề nông thôn năm 2006, lần đầu tiên đưa ra các tiêu chí để công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống, nghề truyền thống, qua đó có những chính sách hỗ trợ cụ thể, quy định xây dựng chương trình “Bảo tồn và phát triển làng nghề”; Năm 2018, Chính phủ đã ban hành một Nghị định mới để thay thế ( Nghị định số: 52/2018/NĐ-CP về Phát triển ngành nghề nông thôn), quy định dành kinh phí từ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, hỗ trợ các dự án, đề án, kế hoạch, mô hình thuộc chương trình”Bảo tồn và phát triển làng nghề”. Đây thực sự là cơ hội để các làng nghề có được nguồn đầu tư, hỗ trợ phát triển trong giai đoạn hiện tại. Các chính sách của Chính phủ lần lượt ra đời suốt 20 năm trở lại đây đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của các làng nghề Việt Nam theo hướng tích cực. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc cần giải quyết, đó là: (1) Vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề; (2) Vấn đề gìn giữ các giá trị văn hóa của các làng nghề; (3) Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và tôn vinh nghệ nhân, những “Báu vật nhân văn sống” của xã hội; (4) Vấn đề phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của người lao động tại các làng nghề; (5) Khẳng định vai trò hoạt động của hội, hiệp hội nghề nghiệp trong các làng nghề.

Cũng còn một khó khăn khác, đó là vấn đề “quản lý nhà nước đối với làng nghề”: Làng nghề trước hết là một đơn vị dân cư, chịu sự điều chỉnh của các luật lệ hành chính, làng nghề lại đồng thời là một khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp đa ngành, bắt nguồn từ những hoạt động thời vụ, phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp nên lại đồng thời chịu sự quản lý của nhiều Bộ ngành từ trung ương đến địa phương. Mặc dù Chính phủ đã có sự phân công, giao cho Bộ NN&PTNT thống nhất quản lý lĩnh vực làng nghề, nhưng thực tế vẫn còn sự chồng chéo nhiệm vụ với Bộ Công Thương, cũng như sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước với địa phương. Thực tế, đây là vấn đề khó và cần luôn được điều chỉnh để làng nghề được thụ hưởng đầy đủ những ưu đãi của Nhà nước trong công cuộc bảo tồn và phát triển làng nghề.

Có một số đề xuất dưới đây để xây dựng một hệ thống thể chế hỗ trợ cho sự phát triển bề vững của làng nghề:

- Xây dựng Luật về Làng nghề: Sự phát triển của làng nghề Việt Nam đến giai đoạn này đã bộc lộ rõ những vấn đề cần được phát huy, cũng như nhiều vấn đề cần được giải quyết thích đáng. Luật về làng Nghề sẽ điều chỉnh mối quan hệ giữa “phát triển” và “gìn giữ, bảo tồn” trên quan điểm hài hòa lợi ích cộng đồng với lợi ích Quốc gia. Luật làng nghề là một đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các làng nghề Việt nam.

- Xây dựng Luật về Hội: Đây là xu hướng khách quan của đời sống xã hội, một số hội, đoàn thể có tham gia vào hệ thống chính trị, do đó phải làm rõ các tổ chức (trong đó có Hội) nào là tổ chức chính trị? Các tổ chức nào là tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức nào chỉ thuần túy là tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp và xã hội tự nguyện, thiện nguyện (?!). Những sinh hoạt trong cộng đồng làng nghề hiện nay, nhất là các làng nghề truyền thống, hầu hết đều dựa vào sự gắn kết trong các hôi, hiệp hội nghề nghiệp từ trung ương đến địa phương. Luật về Hội sẽ giúp cho các làng nghề phát huy được tính tự chủ, mở rộng liên kết, đoàn kết cộng đồng làng xã vì sự phát triển của quê hương, nâng cao đời sống của thợ thủ công.

- Trên cơ sở các đạo luật, cần cụ thể hóa bằng các cơ chế chính sách và thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan. Cần đẩy mạnh cải cách hành chính để đảm bảo thực hiện các cơ chế chính sách đã ban hành, khắc phục những rào cản, cơ chế “xin-cho” ảnh hưởng đến sự phát triển các làng nghề. Đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với nhau và với địa phương, tập trung nguồn lực xã hội để làng nghề Việt Nam phát triển một cách bền vững.

TS. Tôn Gia Hóa
PCT. Hiệp hội làng nghề Việt Nam

Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ

Tin liên quan

Tin mới hơn

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

LNV - Dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngành thủ công, mỹ nghệ Việt Nam vẫn có thể vươn lên khi thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ đô la vào năm 2025 và 6 tỉ đô la vào năm 2030 theo Quyết định đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

LNV - Nghề thủ công truyền thống của các tộc người là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc, qua việc nghiên cứu cũng chính là sự bảo lưu và phát triển bản sắc văn hóa của họ trong cuộc sống hiện đại, đồng thời cũng là sự thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất những giá trị nhân văn cùng những tinh hoa của văn hóa tộc người, đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong đó có các nghề thủ công truyền thống của người Mường Tân Lạc - Hòa Bình.
Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

LNV - Ngay từ năm 1958, sản phẩm thủ công của các làng nghề đã được chọn làm mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Trong suốt thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, thị trường xuất khẩu của sản phẩm thủ công chỉ bó hẹp trong các nước Xã hội chủ nghĩa. Đến thời kỳ đổi mới và gỡ bỏ cấm vận, các sản phẩm thủ công mới có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận với các nước Âu, Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công tăng lên nhanh chóng, và nhiều chủng loại mặt hàng mới cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có hơn 5.000 làng nghề và làng có nghề, thu hút gần 10 triệu lao động, mang lại giá trị xuất khẩu hơn 1,7 tỷ USD/năm. Những con số trên cho thấy sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đã mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng đất nước, an sinh xã hội và nâng cao đời sống cho nhân dân.

Tin khác

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.
Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.
Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Lễ hội mua sắm nông sản, quảng bá văn hóa gắn kết du lịch tại Sóc Sơn

Lễ hội mua sắm nông sản, quảng bá văn hóa gắn kết du lịch tại Sóc Sơn

LNV - Tối 20/12, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại, Du lịch TP. Hà Nội (HPA) chủ trì, phối hợp với UBND huyện Sóc Sơn và các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức Lễ hội mua sắm năm 2024, với chủ đề Lễ hội mua sắm nông sản, quảng bá văn hóa gắn kết du lịc
Khai mạc chương trình Kết nối sản phẩm OCOP thường kỳ tại TP. HCM

Khai mạc chương trình Kết nối sản phẩm OCOP thường kỳ tại TP. HCM

OVN - Sáng ngày 20/12, tại trụ sở Văn phòng Liên cơ quan Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã diễn ra lễ khai mạc chương trình “Kết nối sản phẩm OCOP thường kỳ tại TP. HCM” với chủ đề “Lễ Hội Nông Sản”.
Tạp chí Làng nghề Việt Nam kỷ niệm 13 năm Ngày xuất bản số đầu tiên

Tạp chí Làng nghề Việt Nam kỷ niệm 13 năm Ngày xuất bản số đầu tiên

LNV - Ngày 20/12/2024, tại Hà Nội, Tạp chí Làng nghề Việt Nam – Cơ quan của Trung ương Hiệp Hội Làng nghề Việt Nam tổ chức kỉ niệm 13 năm Ngày xuất bản số báo đầu tiên (22/12/2011 – 22/12/2024). Tổng kết công tác năm 2024 – Triển khai công tác năm 2025.
Hoài Đức (Hà Nội): La Phù nâng cấp hạ tầng đáp ứng kịp thời phát triển kinh tế

Hoài Đức (Hà Nội): La Phù nâng cấp hạ tầng đáp ứng kịp thời phát triển kinh tế

LNV - La Phù ngày nay, làng nghề dệt kim đã mai một. Thay vào đó, dịch vụ thương mại đang phát triển và đóng góp đáng kể vào xây dựng địa phương. La Phù có thu nhập bình quân đầu người cao nhất huyện Hoài Đức với 105 triệu đồng/người/năm. Do vậy, La Phù c
Nông nghiệp xanh gắn với bảo vệ môi trường ở Đồng bằng sông Cửu Long

Nông nghiệp xanh gắn với bảo vệ môi trường ở Đồng bằng sông Cửu Long

LNV - Nông nghiệp xanh là định hướng phát triển bền vững của vùng Đồng bằng sông Cửu Long khi giúp nâng cao chất lượng, bảo vệ môi trường, đồng thời tạo sinh kế ổn định cho người dân. Để làm được điều này, chuyên gia cho rằng việc bảo vệ môi trường phải được tích hợp chặt chẽ với các chương trình nâng cao chuỗi giá trị.
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động