Hà Nội: 24°C Hà Nội
Đà Nẵng: 25°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 25°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 24°C Thừa Thiên Huế

Sơn Đồng làng nghề

LNV - Làng Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc thành phố Hà Nội, xưa kia thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, xứ Đoài. Làng Sơn Đông cách Cầu Giấy - Hà Nội khoảng 15 km về phía Tây, là một làng nghề điêu khắc gỗ truyền thống, làm tượng Phật và đồ thờ Phật giáo nổi tiếng ở Việt Nam.
Đây là một làng cổ ở trung châu Bắc bộ. Dân chúng định cư từ thời Bắc thuộc, đã hơn hai nghìn năm nay. Làng hiện có 6 di tích lịch sử văn hoá được Nhà nước xếp hạng: Đình Sơn Đồng, đền Thượng, chùa Diên Phúc, chùa Kỳ Đà, nhà thờ họ Nguyễn và nhà Cúng Hậu.

Theo Thần phả truyền lại rằng: Vào đời Tiền Lê, có một cặp vợ chồng trẻ rất thương yêu nhau. Cụ ông huý là Nguyễn Đào Vượng cụ bà huý là Nguyễn Thị Tín, quê gốc ở Nghệ An. Họ rất đảm đang, tháo vát. Trên đường đi làm ăn nơi tha hương, các cụ đã lập ấp tại miền Bạch Hạc - Phong Châu (Phú Thọ). Cụ ông chăm chỉ làm ruộng, chăn nuôi. Cụ bà tần tảo buôn bán tơ lụa. Gia sản ngày một sung túc nhưng niềm vui chưa trọn vẹn vì họ chưa có lấy một mụn con.

Nghe nói đền Sài Sơn là nơi cầu tự rất linh thiêng, hai cụ không quản đường xa, đã dong thuyền xuôi sông Thao, ngược sông Hát về đền cầu tự. Cầu được ước thấy, trời sai sứ giả báo tin cho cụ ông rằng sẽ có một vị sao sáng - Một thiên thần giáng sinh làm con họ, để rồi giúp dân cứu nước. Cụ bà thì mơ thấy đã có một ngôi sao sa xuống và mình đã nuốt vào bụng. Sau 12 tháng, một hài nhi khôi ngô, tuấn tú hơn người chào đời, được cha mẹ đặt huý danh là Nguyễn Đào Trực. Ngài lớn lên trong tình yêu thương và dạy dỗ của cha nghiêm, mẹ hiền, lại được các bậc thầy đạo cao đức trọng, trong đó có cả Tiên ông, truyền dạy cho tinh thông cả văn lẫn võ. Khi trưởng thành, ngài là một trang nam tử văn vũ toàn tài, ân đức truyền tụng ngày càng lan xa. Khi cha mẹ lần lượt qua đời, ngài đem chia hết tài sản, tiền bạc, ruộng đồng cho dân chúng.


Nghệ nhân làng nghề Sơn Đồng


Lòng lạnh như tro tàn, không màng danh lợi, ngài đi ngộ thu sợi thuỷ khắp nơi, cuối cùng tìm được đất lành Sơn Đồng, chính với dựng đền thờ ngày nay. Nơi đây cao ráo, địa khí rất vượng, thể đất dồi dào, thanh long bạch hổ đều chầu về, cây cối tốt tươi, dân sinh thuần hậu, thật hiểm có nơi nào được như thế.

Đẹp lòng, ngài thu nhận đệ tử, mở trường dạy học. Ngôi trường được dựng theo hình chữ Nhị. Tiền đường là nhà giảng, hậu đường là thư phòng và sinh hoạt. Phong cách rất phong lưu, nho nhã.
Có kẻ xấu bụng, muốn dâng công kiểm lợi, đã ton hót về triều đình, vu cho Ngài tội xây trường hình chữ Nhị, âm mưu phản nghịch. Do thần lực tiên truyền rất thâm hậu nên ngài đã biết trước. Khi quan quân triều đình sắp kéo tới, ngài bèn sai đệ tử xin rước tượng Phật tử chùa Ma (tên rất lạ?) gần đó về trường, lập đàn tràng lễ Phật, tạm thời biến trường học thành nhà chùa. Quan quân tới nơi, thấy vậy, liền trị tội tên tiểu nhân vu cáo, “sinh sự sự sinh”.


Mấy năm sau, nhà Tống kéo đại quân sang xâm lược nước ta, vận nước lâm nguy. Vua kêu gọi anh tài cùng toàn dân đứng lên cứu nước.

Nhà giáo Nguyễn Đào Trực cùng đệ tử trường Sơn Đồng và toàn dân đã đứng lên, dùng sức người và sức trời giúp vua phá giặc, chém tướng nhà Tống là Hầu Nhân Bảo bắt sống hai phó tướng, đuổi giặc chạy dài về bên kia ải Chi Lăng.

Thiên hạ thái bình, vua phong công hầu cho ngài, nhưng ngài xin không nhận mà tâu rằng: “Bản dân Sơn Đồng, Quốc Oai lành hiền, chất phác, thuần hậu, nhưng còn dốt nát, vụng về lắm. Thần xin trở về tiếp tục khai trường dạy dân làm ăn. Khi nào nước cần thì thần và dân chúng lại xin hết sức phò vua giúp nước.”


Vua chuẩn tấu, ban thưởng rất hậu, cho ngài lui về dạy học như trước, khai hoá dân sinh cả một vùng rộng lớn.

Có lẽ nghề làm tượng Phật cũng do ngài truyền cho dân chúng, từ sự tích mượn tượng Phật chùa Ma?

Qua nhiều biến thiên của lịch sử nước nhà, hàng ngàn năm dân ta phải chịu cảnh cơ hàn từ Bắc thuộc đến Pháp thuộc. Song vẫn là một làng có truyền thống hiếu học và đôi bàn tay tài hoa. Thế nên thời nào cũng có nhiều người đỗ đạt khoa | bảng lừng danh như Thượng thư lưỡng quốc, bảng nhãn thám hoa, Quận công, Tiến sỹ, Cửu phẩm văn giai, Bá Hộ kỹ nghệ. Đời nào cũng có nghệ nhân nối tiếp phát hay nghề tổ tiêu biểu huấn nghiệp như: Cụ Bộ Túc, cụ Bá Đấu, cụ Bá Bơ, cụ Bá Đề, Bả Sáu, Bá Dậu, cụ Kim, cụ Truyền, cụ Chủ Mộ, cụ Hán, Cụ Tường, cụ Thạc, cụ Khẩn, cụ Nhung Thuý...

Các nghệ nhân lớp trẻ tiêu biểu cấp nhà nước như: Nghệ nhân Nguyễn Viết Thạnh, Chủ tịch Hội nghệ nhân, thợ giỏi Tthành phố Hà Nội, Ủy viên thường trực Hiệp hội làng nghề Việt Nam, người đã đào tạo ra nhiều nghệ nhân trẻ cho làng nghề mỹ nghệ Sơn Đồng. Nghệ nhân Làng nghề Việt Nam Nguyễn Trung Nghị, Nguyễn Viết Thắng, Nguyễn Danh Sơn, Nguyễn Trí Dần, Trần Quang Hùng, Nguyễn Viết Huân và còn rất nhiều nghệ nhân, thợ giỏi của làng nghề không sao kể hết. Bao giờ và lúc nào người dân Sơn Đồng cũng tự hào là làng ven đô bách nghệ nghìn năm văn hiến.

Nói đến tượng Sơn Đồng, nhất là tượng Phật - không những vang danh cả nước mà còn vang xa đến nhiều nước trên thế giới. Đến đây, người ta nghe tiếng đục đẽo lách cách khắp làng. Không giống như những làng nghề khác, chỉ toàn người già cố giữ nghề Tổ, Sơn Đồng quy tụ được những lớn thì lớp trẻ kế thừa với tay nghề ngày càng tinh xảo, có em bé mới 3 tuổi đã tập tành các cụp. Thợ Sơn Đồng quanh năm suốt tháng miệt mài tạo nên những pho tượng, họa phẩm từng ăn sâu trong thế giới tâm linh con người: những pho tượng A-di-đà, Di lặc, thần tài, những bức hoành phi câu đối,... Nhìn những sản phẩm của họ, ta dễ liên tưởng đến nét tài hoa của các nghệ nhân đã tạo nên các pho tượng La Hán ở chùa Tây Phương, tượng Phật Bà ở chùa Keo có một không hai...

Năm 1956, hợp tác xã thủ công nghiệp Sơn Đồng ra đời, ứng với 5 nghề truyền thống. Hai nhóm nghề chạm khắc gỗ, sơn mài phải trải nhiều bước thăng trầm nhất. Thời bao cấp, với quan niệm chống mê tín dị đoan, nghề gần như không phát huy được, thậm chí còn bị lãng quên. Những nghệ nhân, thợ giỏi có tâm huyết trong làng thực sự băn khoăn lo lắng. Làm thế nào để nghề truyền thống đã tồn tại trên 1.000 năm nay không bị mai một là một “câu hỏi lớn không lời đáp”, dù họ đã phải trăn trở rất nhiều. Phải mãi sau này, tới năm 1983, gần thời kỳ đổi mới, ông phải Nguyễn Đức Dậu, nghệ nhân từ thời thuộc Pháp mới làm được một việc có tính nhất quyết định. Ông đứng ra tổ chức lớp học nghề chạm khắc gỗ và sơn mài, cốt truyền nghề cho con cháu. 34 học viên ngày đó, bây giờ người là thợ giỏi, người là giáo viên, đang tiếp tục truyền nghề cho lớp trẻ trong làng, trong xã.

Đội ngũ thợ và nghệ nhân của Sơn Đồng chủ yếu trưởng thành được là nhờ vừa làm vừa học. Các thế hệ thầy trò trực tiếp truyền nghề cho nhau. Nhưng phương thức này hạn chế ở chỗ khó mở rộng quy mô và thời gian để trưởng thành khá lâu. Tới nay nhìn lại, gần 30 năm đã trôi qua, từ khóa học này, đa số các học viên đã trở thành các nghệ nhân chủ chốt, các chủ sản xuất lớn ngày nay.
Những năm 1998 - 2002, làng đã mở liền 2 lớp, mỗi lớp có 50 học viên, học trong 18 tháng. Tới nay cũng đã có rất nhiều người trưởng thành. Song kinh phí mở những lớp như thế khá tốn kém. Chi phí cho 1 học viên trong 18 tháng khoảng 10 triệu, tổng kinh phí mở 2 lớp này tới 1 tỷ đồng.

Hiệp hội làng nghề Sơn Đồng đã được thành lập từ năm 2.000, nhưng tới nay hoạt động ít hiệu quả, mới dừng lại ở hình thức. Theo các nghệ nhân và cán bộ của xã, sắp tới, cần kiện toàn và nâng cao năng lực của tổ chức này. Có như vậy mới có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong thời đại gia nhập WTO.

Năm 2007, làng Nghề mỹ nghệ Sơn Đồng được công nhận làng nghề tiêu biểu Việt Nam, được Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bộ Văn hóa Thể thao và Du Lịch và nhiều Bộ, ngành tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen và qua các cuộc triển lãm (gắn với việc xúc tiến thương mại du lịch làng nghề) các nghệ nhân làng nghề Sơn Đồng được tặng thưởng hàng trăm Danh hiệu, Cúp vàng, Huy chương vàng, Tinh hoa Việt Nam và các giải thưởng cao quý khác.

Mấy năm gần đây do phong trào khuyến học, khuyến tài nở rộ ông Nguyễn Nghiêm Đạt dạy và học chữ Hán Nôm thư pháp miễn phí cho con em trong họ ngoài làng với hàng trăm sĩ tử, những ông đồ nhí biết đọc, biết viết và biết nghĩa lí của những con chữ trên hoành phi câu đối. Mang hồn cốt bản sắc tinh hoa văn hoá Việt với hai mục đích là “học để làm người và học để làm nghề”. Nói về Nghệ nhân làng nghề Sơn Đồng thật là:"Mất người chưa thấy dung nhan Phật mà tự tay người Phật hiện ra”.

Bởi các tích về kiến trúc trang trí mỹ thuật của các đạo Tam giác đồng nguyên đã ngấm vào máu thịt người dân Sơn Đồng từ bao đời và hơn thế nữa dân làng nghề người Sơn Đồng có duyên với Phật, được Phật, Thánh khai sáng nghề nghiệp cho biết các thủ tướng tốt, vẻ đẹp của Người, rồi các Nghệ nhân dùng ngôn ngữ điêu khắc thổi hồn vào tác phẩm. Nhà thơ Giang Quân về thăm làng nghề Sơn Đồng tức cảnh viết ...

Gỗ mít vàng ươm trắng ngà lồng ngực
Miệng rộng tại to là ông Di Lạc
Gầy võ Tuyết Sơn đang trầm mặc điều chi
Tựa gối mai già Hiệp Tôn Giả nghĩ suy
Có phải các ông từ chùa Tây mới đến...

Từ thuở sơ khai, các nghệ nhân làng nghề Sơn Đồng đã tham gia thi công nhiều công trình văn hóa thành Đại La, nghề điêu khắc tạc Tượng và đồ thờ sơn son thếp vàng, bạc Sơn Đồng phát triển mạnh từ khi nhà Lý dời đô ra Thăng Long cùng với sự phát triển văn hoá Tam giác đồng nguyên Đạo lão, đạo Thích, Đạo Khổng. Đến nay làng nghề có tới trên 4.000 lao động thường xuyên, thu hút khoảng hơn 1000 lao động ở các địa phương trong cả nước đến học nghề và làm các công đoạn phụ cho làng nghề, ước đạt thu nhập thủ công nghiệp 65% toàn xã, thị phần sản đồ thờ sơn son thếp vàng, bạc phục vụ mảng văn hóa tâm linh của làng phẩm tượng, nghề Sơn Đồng ước chiếm 60% trên toàn quốc, thích ứng với Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, đô thị hoá công nghiệp hoá nông thôn những lao động nhỡ nhàng có công ăn việc làm “ly nông chứ không ly hương”. Tạo việc làm góp phần thiết thực ổn định xã hội và xây dựng quê hương đất nước.

Ngày nay, đến Sơn Đồng vào bất kể thời gian nào trong năm, du khách cũng cảm thấy không khí náo nức như đang lạc bước vào một hội chợ xuân của nghệ thuật điêu khắc gỗ. Chỉ tính riêng tượng nhà Phật đã có bao nhiêu kiểu dáng đa dạng, phong phú được làm tại đây. Ngoài ra còn có vô số các tượng thành, thần, tổ, mẫu,... Rồi câu đối, hoành phi, án thờ, đồ thờ, hạc, ngựa, không biết bao nhiêu chủng loại mà kể, Tất cả đều ánh len màu vàng, tía, hồng, lộng lẫy, rực rỡ trong nắng nhạt nhiều xuân Mỗi sản phẩm vừa mang nét hài hoà, chuẩn mực của cái phổ biến, vừa khắc hoa sinh động những điểm nhấn tài hoa riêng biệt làm nên bản sắc không thể lẫn được của tượng gỗ và đồ thờ Sơn Đồng - một phong cách nghệ thuật đặc sắc, thuần chất của cái nôi văn hoá Mẹ Bắc Việt.

Nghề làm tượng thờ đòi hỏi phải có kỹ nghệ tinh xảo. Tượng thờ Sơn Đồng chuẩn được chế tác từ gỗ mít. Gỗ mít, ngoài chất liệu mềm, dai, dẻo, bền, đẹp, phải chăng ở đây còn có liên quan đến nguồn gốc của cây mít - Ba la mật, từ Tây Trúc theo các nhà sư đi truyền đạo đến đất này? Chùa nào ở đất Bắc chả trồng vài cây mít: vừa tạo cảnh vừa lấy bóng mát; lá dùng làm đế oản cúng Phật, dùng làm bồ kề cúng cháo chúng sinh; quả chín ngon ngọt; thân gỗ già làm tượng, ý nghĩa hơn người đời tưởng nhiều.

Khi thiết kế tượng, người thợ cả cần tính toán kỹ lưỡng làm sao cho khỏi lãng phí gỗ. Từ khâu đẽo phác thảo đến khi lượn những đường soi tinh xảo là cả một công phu tâm huyết, vắt tâm, vắt sức của người thợ - nghệ sỹ làng nghề.

Đến khâu sơn son thiếp bạc, thiếp vàng cũng vậy. Mỗi sản phẩm làm kỹ phải qua gần chục nước sơn. Sơn thế nào cho không gợn, sao cho nhẵn, cho đều, lông nhu kinh nghiệm. Rồi thợ thiếp cũng vậy, làm sao cho gọn, cho sắc nét, không được làm mất, mà còn phải tôn thêm độ tinh xảo của người thợ đục là cả một sự phối hợp nan giải. Không yêu nghề, không tài hoa làm sao có thể làm được điều đó!

Giờ đây về với làng nghề Sơn Đồng người ta sẽ thấy vẻ rộn ràng tấp nập của một làng nghề ăn nên làm ra. Sản phẩm của làng nghề này đã tạo được tiếng vang khắp cả nước, được nhiều người ưa chuộng, nhất là những bức tượng đặt trong các đền chùa, miếu mạo... Đâu đâu cũng thấy người ta ca ngợi nghệ nhân của Sơn Đồng - những bàn tay cần cù, đã cố gìn giữ nghề của cha ông để lại.

Sư cô Thích Giác Ấn
Ban Văn hóa trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm gốm độc bản, vừa nuôi sống gia đình vừa giữ gìn hồn quê qua bao thế hệ.
Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

LNV - Trong nhịp sống sôi động của kinh tế thị trường, không ít làng nghề truyền thống đứng trước nguy cơ bị lãng quên. Thế nhưng, nhờ sự đồng hành của cộng đồng, chính quyền địa phương và sự sáng tạo của người dân, nhiều nghề cổ truyền không chỉ được gìn giữ mà còn trở thành bệ phóng phát triển kinh tế, góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững.
Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

LNV - Nghệ thuật gốm đã in sâu vào bản sắc văn hóa Việt Nam từ hàng nghìn năm trước, là một phần không thể thiếu trong đời sống, tín ngưỡng và thẩm mỹ của người Việt. Từ những chiếc bình gốm Phùng Nguyên, trống đồng Đông Sơn cho đến những chiếc bình gốm hoa lam tinh xảo của Chu Đậu hay bát đĩa gốm Bát Tràng quen thuộc, gốm sứ không chỉ là vật dụng mà còn là biểu tượng của sự khéo léo, óc sáng tạo và tinh thần lao động bền bỉ của người Việt Nam.
Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

LNV - Làng hoa Vạn Thành được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XX bởi người dân từ Hà Nam di cư vào Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Nhờ điều kiện khí hậu mát mẻ và đất đai màu mỡ, Làng hoa Vạn Thành đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong trung tâm sản xuất hoa lớn tại Đà Lạt.
Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

LNV - Đắk Lắk phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm, mở rộng quy mô sản xuất, hướng đến việc kết hợp phát triển du lịch cộng đồng và trải nghiệm, giúp du khách có thể khám phá quy trình làm muối truyền thống.
Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

LNV - Gắn bó với nghề nuôi ong đã gần 10 năm, bắt đầu từ vài chục tổ ong ban đầu, đến nay anh Trần Văn Sửu đã mở rộng lên khoảng 500 tổ, mỗi năm mang lại thu nhập ổn định khoảng 200 triệu đồng – con số không nhỏ đối với một hộ dân vùng ven biển.

Tin khác

Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

LNV - Nhiều du khách trong và ngoài nước thích thú trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu tại chợ nổi Cái Răng.
Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

LNV - Thành phố Hà Nội hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 337 nghề truyền thống đã được công nhận. Các làng nghề đã giúp nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động. Việc phát triển làng nghề không chỉ giữ gìn bản sắc truyền thống, mà còn tạo đòn bẩy trong xây dựng nông thôn mới.
15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

LNV - Trong 2 ngày 9 và 10-9, Đoàn thẩm định của Hội đồng thành phố Hà Nội về xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ năm 2025 đã tổ chức thẩm định thực tế tại cơ sở các cá nhân có hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội năm 2025 tại xã Bát Tràng.
Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

LNV - Trung thu không chỉ là Tết của thiếu nhi, mà còn là ký ức văn hóa của nhiều thế hệ người Việt. Khi đèn lồng nhựa và ánh sáng điện tử ngày càng phổ biến, những giá trị xưa dần phai nhạt. Triển lãm “Lãm” xuất hiện như một nhịp cầu, đưa con người trở về với mùa trăng cổ tích bằng những chiếc đèn giấy dó mộc mạc, bền vững và thấm đẫm hồn Việt.
Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

LNV - Nằm ở phía Tây Nam Hà Nội, xã Bình Minh đang nổi lên như một điểm sáng về phát triển nông nghiệp sinh thái kết hợp với làng nghề truyền thống.
Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

LNV - Tại xã Gia Thuận, tỉnh Đồng Tháp, bên cạnh những cánh đồng lúa xanh bát ngát và những chuyến tàu đánh bắt hải sản tất bật, làng nghề chế biến cá khô đã hình thành và phát triển từ nhiều năm nay, trở thành một trong những ngành nghề mũi nhọn góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. Không chỉ là nét văn hóa truyền thống, nghề chế biến cá khô còn đang mở ra những cơ hội mới về việc làm, nâng cao thu nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng.
Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

LNV - Trong ngôi nhà sàn ba gian giữa núi rừng, già Bhling Bloó (70 tuổi, thôn Bhơ Hôồng, xã Sông Kôn, TP Đà Nẵng) vẫn cần mẫn bên bó tre, mây. Với ông, đan lát không chỉ là kế sinh nhai mà còn là cách để giữ lấy “cái gốc” của người Cơ Tu giữa nhịp sống hiện đại.
Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại của thành phố biển Đà Nẵng, làng cổ Nam Ô vẫn lặng lẽ giữ trong mình những giá trị văn hóa và nghề truyền thống hơn 700 năm tuổi. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, những dấu tích lịch sử gắn với công chúa Huyền Trân, mà còn được biết đến là cái nôi của nghề làm nước mắm – một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, niềm tự hào của cư dân miền biển.
Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

LNV - Trong bối cảnh đô thị hóa và hội nhập, Tây Phương đang từng bước đổi mới, phát huy thế mạnh làng nghề gắn với phát triển du lịch, đồng thời mở rộng không gian công nghiệp và dịch vụ, hướng tới trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng của Thủ đô.
Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

LNV - Nằm ven sông Cầu hiền hòa, làng Thổ Hà (phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh) từ lâu đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước với nghề làm bánh đa nem. Nghề đã tồn tại hàng trăm năm, trở thành nét văn hóa đặc trưng và là niềm tự hào của người dân địa phương.
Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

LNV - Thủ công mỹ nghệ từ lâu được coi là một trong những ngành nghề truyền thống đặc sắc nhất của Thủ đô Hà Nội. Không chỉ mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử, sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn góp phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông thôn và xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường quốc tế nhiều biến động, nhu cầu tiêu dùng trong nước đang trở thành một “nguồn lực mềm” mạnh mẽ, mở ra sức sống mới cho ngành thủ công mỹ nghệ Thủ đô.
An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

LNV - Suốt hàng chục năm qua, nghề chẻ đá tại ấp Hòn Sóc, xã Hòn Đất vẫn được người dân nơi đây duy trì như một phần không thể thiếu trong cuộc sống mưu sinh. Mỗi buổi sáng, cả bãi đá rộng lớn vang lên âm thanh đặc trưng của làng nghề: tiếng máy cắt xèng xèng, tiếng búa tạ nện vào nêm thép cắc cắc, hòa quyện thành nhịp điệu lao động cần cù.
Bánh gio - món ăn truyền thống của người Tày

Bánh gio - món ăn truyền thống của người Tày

LNV - Giữa đại ngàn xanh thẳm của vùng cao Đông Bắc, người Tày vẫn gìn giữ một món bánh giản dị nhưng đậm đà bản sắc – bánh gio. Bánh được làm từ gạo nếp thơm ngâm nước tro vỏ cây, gói trong lá chít và nấu bằng lửa nhỏ. Bánh gio mang hương vị thanh mát, mộc mạc, gắn liền với ký ức mỗi mùa Tết, ngày rằm. Giữa vòng xoay hiện đại, bánh gio vẫn giữ nguyên hương vị truyền thống như cách người Tày gìn giữ bản sắc dân tộc mình một cách tự nhiên, bền bỉ và đầy tự hào.
Nâng tầm đặc sản quê hương

Nâng tầm đặc sản quê hương

LNV - Với khát vọng nâng tầm giá trị đặc sản quê hương từ nguồn nguyên liệu có sẵn, nhiều hộ gia đình đã tạo nên các sản phẩm độc đáo.
Lưu giữ giá trị văn hóa làng nghề mộc Chợ Thủ

Lưu giữ giá trị văn hóa làng nghề mộc Chợ Thủ

LNV - Khi nhắc đến đồ gỗ mỹ nghệ truyền thống là ai cũng biết làng nghề mộc Chợ Thủ ở tỉnh An Giang. Làng nghề mộc Chợ Thủ từ lâu đã trở thành một thương hiệu đồ gỗ uy tín trên thị trường.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

LNV - Khuyến công gắn với định hướng phát triển kinh tế – xã hội Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Bà Rịa – Vũng Tàu xác định công nghiệp là trụ cột chủ lực, chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch cơ cấu từ khai khoáng san
Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

LNV - Trường THCS Nguyễn Trường Tộ là ngôi trường thuộc TOP trường THCS chất lượng tốt ở Hà Nội. Để đạt được những thành tích đáng tự hào ấy, Trường THCS Nguyễn Trường Tộ luôn chú trọng đổi mới việc dạy và học với phương châm ”Lấy học sinh làm trung tâm”,
Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

LNV - Những ngày này, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hải Phòng đang tất bật chuẩn bị cho Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc. Năm nay, lễ hội mang ý nghĩa đặc biệt hơn khi Đền Kiếp Bạc và Chùa Côn Sơn nằm trong quần thể di tích, danh thắng được UNESCO côn
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm g
Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

LNV - Nằm ở vùng trung du giàu truyền thống cách mạng, xã Hoàng Vân (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh) không chỉ được biết đến bởi những dấu ấn lịch sử, mà còn nổi bật với một loại cây đặc sản mang lại giá trị kinh tế cao: trám đen. Cứ vào độ cuối tháng 6 đế
Giao diện di động