Hà Nội: 33°C Hà Nội
Đà Nẵng: 32°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 32°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 32°C Thừa Thiên Huế

Nghề thủ công và làng nghề ở Việt Nam

LNV - Về tầm quan trọng của lý luận cũng như quan hệ giữa lý luận và hoạt động thực tiễn, từ nhiều năm nay, các chuyên gia, nhà nghiên cứu đã có những đúc kết có tính kinh điển; song đối với làng nghề chúng ta ngày nay, đây vẫn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu cấn đi sâu nghiên cứu để có nhận thức sâu sắc hơn và vận dụng hiệu quả hơn trong thực tế.
Từ khi thành lập (2005) đến nay, trong khuôn khổ hoạt động của mình, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, có một số bài nghiên cứu có giá trị các tác giả Nguyễn Vi Khải, Tôn Gia Hóa, Lê Việt Trường. Đáng chú ý một công trình có tính lý luận là Tiểu luận “Giá trị nghề thủ công và làng nghề” của Nhà nghiên cứu Nguyễn Lực, Phó chủ tịch Hội đồng Tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đang trong quá trình hoàn chỉnh. Tuy vậy, nhìn chung, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghề thủ công và làng nghề trong Hiệp hội vẫn còn quá yếu, chưa trở thành chủ trương. (Xin lưu ý: bài này chỉ bàn trong phạm vi Hiệp hội, không bàn về các nghiên cứu bên ngoài).




Dưới đây, xin nêu lên một số gợi ý đề làng nghề chúng ta cùng suy nghĩ; cũng là kiến nghị với lãnh đạo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam và ba viện nghiên cứu trực thuộc Hiệp hội: Viện Nghiên cứu Ứng dụng mỹ thuật sản phẩm làng nghề Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hướng nghiệp Hội nhập quốc tế, Viện Nghiên cứu Thị trường và Truyền thông quốc tế.

LÝ LUẬN SOI ĐƯỜNG CHO THỰC TIỄN

Trước tiên, xin ghi lại những kiến thức cơ bản đã được các nhà nghiên cứu đúc kết xung quanh mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn để chúng ta có thêm nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của lý luận trong hoạt động của
Hiệp hội.

Một là, “Lý luận” là gì ? Lý luận là một hệ thống các quan điểm phản ánh thực tiễn, được thể hiện dưới dạng hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối hoàn chỉnh có tính logic chặt chẽ về các mối liên hệ cơ bản và các quy luật của hiện thực khách quan. Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn.

Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố, điều kiện trong các hình thức thực tiễn; từ đó tính quy luật của thực tiễn được khái quát dưới hình thức lý luận. Chính vì vậy, tổng kết thực tiễn để hoàn thiện lý luận và lý luận soi đường cho thực tiễn để kiểm chứng và đồng thời tiếp tục được hoàn thiện từ thực tiễn; cũng tức là lý luận có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn.

Hai là, “Thực tiễn” là gì? Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người: có con người mới có thực tiễn, bởi con người hoạt động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động với thế giới xung quanh .

Về vai trò của thực tiễn đối với lý luận: Thực tiễn là cơ sở của lý luận: thông qua hoạt động thực tiễn, những thuộc tính, quan hệ, tính chất, cấu trúc của sự vật được phản ánh, hình thành tri thức kinh nghiệm, được con người hệ thống hoá, khái quát hoá hình thành nên lý luận. Thực tiễn làm cho xã hội ngày càng phát triển, trí tuệ ngày càng cao hơn, khả năng nhận thức và khái quát lý luận ngày càng tốt hơn, qua đó, hệ thống lý luận ngày càng hoàn thiện và phát triển. Vì vây, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự phù hợp hay không phù hợp của lý luận.

Ba là, “Vai trò của lý luận đối với thực tiễn”. Lý luận là “kim chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo hoạt động thực tiễn vì lý luận nắm bắt được quy luật vận động và phát triển của hiện thực. Lý luận giúp cho việc xác định mục tiêu, phương hướng, điều chỉnh hoạt động thực tiễn theo đúng mục tiêu đã xác định và vạch ra phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn, làm cho hoạt động trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát, hiệu quả thấp.

Xin ghi lại quan điểm của Hồ Chủ tịch về tầm quan trọng của lý luận. Trong cuốn "Sửa đổi lối làm việc" (1947), Người đã viết: "Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” .Theo Người, có những cán bộ khinh lý luận thường là những người cán bộ, đảng viên cũ, làm được việc, những cán bộ thường đã nhiều tuổi, có nhiều năm công tác, nhưng do ngại học hỏi, do coi thường lý luận, họ cho rằng giải quyết công việc chỉ cần trên kinh nghiệm là đủ. Người chỉ rõ: "Kinh nghiệm của họ tuy tốt nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi… Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ".

Trong thời đại ngày nay, khi trong làng nghề chúng ta, đang có xu hướng thực dụng, chỉ chú trọng những hoạt động bề nổi, hình thức, trong khi đó xem nhẹ, thậm chí coi thường lý luận, lười đọc, lười nghiên cứu, thì những lời dạy của tiền nhân vẫn có ý
nghĩa thời sự.


HAI TÁC PHẨM CỦA THỜI TRƯỚC

Ngược dòng lịch sử, có thể thấy từ hàng chục năm trước, trong chế độ xã hội cũ, đã có nhiều nhà nghiên cứu sớm nhận rõ giá trị của nghề thủ công đối với nền kinh tế cũng như đời sống của dân cư làng xã. Đã có những công trình nghiên cứu có giá trị về lý luận và thực tiễn. Dưới đây, xin giới thiệu tóm tắt hai tác phẩm nổi bật.

Cuốn Les Industries Familiales de Hadong (Nghề truyền thống Hà Đông) của Hoàng Trọng Phu, bản tiếng Việt in năm 1932. Hoàng Trọng Phu (1872 – 1946) quê ở làng Đông Thái, xã Việt Yên hạ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1888, Hoàng Trọng Phu được chính quyền thuộc địa Pháp cử sang học trường Thuộc địa (École Coloniale) tại Paris (Pháp). Năm 1897, ông làm Án sát Bắc Ninh, giảng dạy trường Hậu bổ rồi Tổng đốc Ninh Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên). Năm 1906, ông làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông đến năm 1937 thì về hưu và mất năm 1946.

Hoàng Trọng Phu là người đã dành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu và phát triển các nghề truyền thống ở tỉnh Hà Đông Ông nhìn thấy không chỉ các giá trị văn hóa độc đáo của các nghề, làng nghề mà cả ý nghĩa, vai trò kinh tế của các nghề đối với đời sống nhân dân. Ông đã viết cuốn Les Industries Familiales de Hadong (Nghề truyền thống Hà Đông) mô tả chi tiết về các làng nghề truyền thống của tỉnh Hà Đông, thống kê được toàn tỉnh Hà Đông có 136 ngành nghề thủ công với nhiều sản phẩm nổi tiếng, nhất là ngành tơ lụa, khảm trai, thêu ren. Trong Lời nói đầu của cuốn sách, đề ngày 15-7-1932, ông viết: “Trong các tỉnh ở Bắc Kỳ, hình như Hà Đông tập hợp được phần lớn các nghề có tầm quan trọng đặc biệt bởi sự đa dạng và sự phát triển của ngành nghề. Những đồ dùng bằng đồi mồi, đồ gỗ, và nhất là the lụa và hàng thêu của Hà Đông được tất cả người sành ưa chuộng”.

Hoàng Trọng Phu cũng đã đóng góp nhiều công sức phát triển các làng nghề, góp phần giải quyết vấn đề dân sinh, khôi phục các làng nghề cho tỉnh Hà Đông vốn đã nổi tiếng với "the La, lụa Vạn, chồi Phùng". Ông quan tâm phát triển làng nghề lụa Vạn Phúc trở thành một “mô hình” kiểu mẫu về kinh tế làng nghề thủ công. Để tôn vinh và quảng bá sản phẩm, ông mở bảo tàng mỹ nghệ cho các nghệ nhân ở La Cả, La Khê. Ông mời nghệ nhân điêu khắc gỗ Nguyễn Văn Đông ở làng Nhân Hiền, phủ Thường Tín về làm Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Bách nghệ; thành lập Hội Tiểu canh nông công nghệ Hà Đông. Ông cử các phái đoàn mang sản phẩm thủ công (the, lụa, mây tre đan) tham dự triển lãm tại Paris (Pháp). Ông còn chọn các nghệ nhân đưa sang Trung Quốc học nghề lụa tơ tằm, sang Nhật học sơn mài, nghề mộc, nghề bạc.

Cuốn “Les paysans du delta tonkinois) của Pierre Gourou” (Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ) viết năm 1936, bản dịch tiếng Việt của Nxb Trẻ, năm 2004. Pierre Gourou (1900 - 1999) là Thạc sĩ sử học và địa lý học, Tiến sĩ văn chương, Ủy viên thông tấn Viện Viễn đông Bác cổ Pháp, cũng đã từng là giáo sư đại học ở Hà Nội, có nhiều công trình nghiên cứu về Việt Nam như: Bắc Kỳ (1931), Nhà ở Việt Nam - miền Tây và Trung Trung Kỳ (1936), Sử dụng đất ở Đông Dương thuộc Pháp (1940), Đất và người ở Viễn Đông (1940), Lúa và văn minh (1984)... Ông đã thực hiện nhiều cuộc điều tra trên thực địa, tiếp xúc với nông dân, chú ý đến cấu trúc gia đình, tín ngưỡng tôn giáo…

Tác phẩm “Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ” là một tác phẩm đặc sắc nghiên cứu về châu thổ sông Hồng, cái nôi của nền văn minh Việt Nam. Riêng về nghề thủ công, theo Pierre Gourou, đồng bằng Bắc Bộ thời đó có 108 nghề thủ công, trong đó có chín nghề cơ bản, đó là: nghề dệt; nghề chế biến thực phẩm; nghề đan lát; nghề mộc; nghề sản xuất vôi, gạch, ngói, thợ nề; nghề làm giấy, vàng mã; nghề rèn, đúc, chế biến kim loại; nghề làm nông cụ; nghề gốm. Thợ thủ công chuyên nghiệp vùng này thời đó có khoảng 250.000 người, chiếm 6,8% dân số; nếu kể cả số lao động không chuyên thì chiếm khoảng 8% dân số. Trong đó, tỉnh Hà Đông có số lao động thủ công đông nhất, lên đến 65.000 người, tỉnh Thái Bình có 32.000 người. Xét về ngành nghề, nghề dệt chiếm số đông, lên tới 54.200 thợ; chế biến thực phẩm có 54.000 thợ, nghề đan lát 41.000 thợ, nghề mộc có
31.200 thợ...

Có thể khẳng định: mặc dù cuốn sách “Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ” được xuất bản vào những năm 30 của thế kỷ trước, nhưng đến nay, nó vẫn là một công trình nghiên cứu có giá trị về lý luận và tực tiễn mang tính thời sự, vì vùng đất này vẫn là nơi tập trung nhất cả nước lưu giữ những tinh hoa của nghề thủ công truyền thống nước ta.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Ngày nay, thực tiễn càng ngày càng khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của lý luận: lý luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, xác định phương pháp, biện pháp thực hiện, liên kết, tập hợp lực lượng tạo thành sức mạnh to lớn cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của các cá nhân và xã hội.

Đối với nghề thủ công và làng nghề chúng ta, vai trò của lý luận cần được coi như một đòi hỏi cấp bách, cũng có thể nói là có ý nghĩa sống còn. Thực tiễn ấy đang rất cần tổng kết, phân tích, nghiên cứu, đúc kết một cách hệ thống để hình thành những vấn đề có tính lý luận định hướng cho các hoạt động từ nay về sau. Trên thế giới, đang có rất nhiều vấn đề mới trong lý luận về nghề thủ công so với tư duy xưa nay; vần đề đặt ra cho chúng ta chính là cần những nhận thức mới về lý luận cho phù hợp với những thay đổi của thế giới đối với di sản văn hóa phi vật thể mà nghề thủ công là một đại diện quan trọng. Nếu không, sự tụt hậu về lý luận không phải là nguy cơ mà đã là hiện thực và sản phẩm của làng nghề chúng ta không thể bắt kịp nhu cầu của thị trường đang thay đổi nhanh chóng, kể cả trong nước và nước ngoài.

Xin lưu ý: bài viết này phân biệt hai phạm trù “nghề thủ công” và “làng nghề”, trong đó, quan trọng nhất là “nghề thủ công”, vì đó là “hồn cốt” của làng nghề, nhân tố hình thành các làng nghề truyền thống, là sự thể hiện cụ thể của tinh hoa văn hóa nghề thủ công, có sự khác biệt của mỗi vùng, miền, góp phần vào nền văn hóa đa dạng của nước ta. Hơn thế nữa, điều cần nhấn mạnh là do sản phẩm thủ công được kết tinh bằng tâm hồn, trí tuệ, khối óc và bàn tay của mỗi nghệ nhân, mang bản sắc của nghệ nhân, do đó, nghề thủ công luôn phát triển, luôn sáng tạo, không có điểm dừng. “Nghề thủ công” đã được UNESCO tôn vinh là “Di sản Văn hóa phi vật thể”, ngày nay vẫn được bảo tồn ngay tại các nước công nghiệp phát triển vì đó là những nghề dùng các nguyên vật liệu thân thiện với môi trường, theo xu hướng “sản xuất xanh”, “tiêu dùng xanh” của xã hội mới.

Hiện nay, chúng ta đang phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nêu cao khát vọng xây dựng đất nước hùng cường với những mục tiêu cụ thể cho từng cơ sở sản xuất kinh doanh. Tình hình mới về kinh tế-xã hội của nước ta cũng như trên thế giới trải qua những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, những khó khăn về năng lượng, lạm phát, giá cả tăng cao, nhu cầu tiêu dùng của người dân thay đổi, v.v... đang đặt ra những yêu cầu mới. Trong các làng nghề, mọi hoạt động cũng đang diễn ra hết sức phong phú; các ngành nghề thủ công cũng đang phát triển đa dạng và sản phẩm thủ công cũng đang phát triển với nhiều mẫu mã, kiểu dáng mới trong thị trường sôi động với những nhu cầu mới. Tình hình trên đây đang đòi hỏi đẩy mạnh hơn nữa việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về nghề thủ công và làng nghề để có những cơ sở nền tảng “soi đường” cho các cơ sở sản xuất kinh doanh cũng như làng nghề trong bước phát triển mới.

Rất mong có những bài nghiên cứu, tổng kết thực tiễn sâu sắc hơn về nghề thủ công như: sự phát triển của nghề thủ công theo chiều dài lịch sử của nước ta; giá trị văn hóa của nghề thủ công nước ta, có thể nghiên cứu sâu về những nghề tiêu biểu, ở một số vùng tiêu biểu: tính dân tộc và tính hiện đại, so sánh với nghề thủ công các nước trên thế giới; vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, hình thành đội ngũ nghệ nhân; nghề thủ công nước ta trong hội nhập quốc tế, đóng góp vào kho tàng lý luận về nghề thủ công thế giới; v.v...

Đối với làng nghề, xin hãy chú ý những vấn đề lý luận quan trọng như: sự chuyển biến và phát triển của làng nghề trong lịch sử (có thể đi sâu vào một số làng nghề tiêu biểu); những truyền thống của làng, xã cần gìn giữ và phát huy; vấn đề bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa làng nghề, tổ chức các lễ hội, tôn vinh các vị Tổ nghề; môi trường kinh doanh (các yếu tố chính trị, luật pháp, kinh tế, văn hóa, xã hội...) cho các làng nghề; vấn đề xây dựng “làng nghề văn hóa” trong công cuộc xây dựng nông thôn mới; v.v...

Riêng với Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, xin kiến nghị một số việc cụ thể như sau:

- Hiệp hội khuyến khích, động viên các nhà nghiên cứu trong Hiệp hội, nhất là giao nhiệm vụ cho các viện trực thuộc nghiên cứu những vấn đề lý luận về nghề thủ công và làng nghề;
- Chủ động mở rộng quan hệ, mời các chuyên gia, nhà nghiên cứu, các trường đại học, các viện nghiên cứu trong cả nước và hợp tác với nước ngoài cùng nghiên cứu đề tài này;
- Tổ chức nhiều cuộc “Hội thảo lý luận và thực tiễn” chuyên đề về nghề thủ công và làng nghề, quy tụ các nhà nghiên cứu trong và ngoài Hiệp hội; khuyến khích xuất bản các ấn phẩm về đề tài này;

Với Tạp chí Làng nghề Việt Nam, xin kiến nghị:

- Nâng cao hơn nữa chất lượng lý luận của các bài trong chuyên mục “Nghiên cứu-trao đổi” của Tạp chí;
- Chủ động tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về đề tài này.

Tóm lại, đẩy mạnh nghiên cứu các vấn đề lý luận trong bảo tồn và phát triển nghề thủ công và làng nghề là một nhiệm vụ có ý nghĩa vừa cơ bản vừa cấp bách trong hoạt động của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam chúng ta. Rất mong được Thường trực Hiệp hội quan tâm; các viện trực thuộc Hiệp hội chú trọng thực hiện; các nhà quản lý, các chuyên gia tâm huyết với làng nghề cùng tham gia nghiên cứu và góp thêm ý kiến.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn-Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Làng nghề Việt Nam - Sản xuất sạch hơn và tiết kiệm năng lượng hướng tới phát triển bền vững

Làng nghề Việt Nam - Sản xuất sạch hơn và tiết kiệm năng lượng hướng tới phát triển bền vững

LNV - Các biện pháp nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu chất thải phát sinh trong các hoạt động tại làng nghề là hướng đi cần thiết và hướng tới phát triển bền vũng các làng nghề
Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN) Việt Nam đang đứng trước rất nhiều cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức đặt ra. Trong những thách thức là vấn đề mẫu sản phẩm TCMN sao có được vẻ đẹp hấp dẫn, được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng… thu hút thị trường, tạo ra giá trị kinh tế lớn và giá trị mỹ thuật, văn hóa… đây là vấn đề quan trọng quyết định chất lượng sản phẩm TCMN.
Nghệ nhân giữ gìn “hồn cốt” của một làng nghề

Nghệ nhân giữ gìn “hồn cốt” của một làng nghề

LNV - Trong những làng nghề điêu khắc gỗ, Dư Dụ được biết đến là nơi có nghệ thuật điêu khắc gỗ tinh xảo bậc nhất cùng nhiều người thợ có tay nghề điêu luyện. Một trong số đó không thể không nói đến ông Trần Văn Vĩnh – một nghệ nhân điêu khắc có hơn 35 năm kinh nghiệm và đã từng tạo ra hàng trăm tác phẩm độc đáo.
Vai trò của tiết kiệm năng lượng, sản xuất sạch hơn và sử dụng năng lượng thay thế để giảm chi phí sản xuất, cái thiện môi trường làng nghề

Vai trò của tiết kiệm năng lượng, sản xuất sạch hơn và sử dụng năng lượng thay thế để giảm chi phí sản xuất, cái thiện môi trường làng nghề

LNV - Tiết kiệm năng lượng, sản xuất sạch hơn và sử dụng năng lượng thay thế là một cách tiếp cận làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại nguồn thông qua việc sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm, hiệu quả, đồng thời giúp cho các cơ sở sản xuất ở làng nghề cắt giảm được chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, hoàn thiện quy trình sản xuất, giảm bớt chi phí xử lý môi trường đảm bảo cho làng nghề phát triển bền vững.
Vấn đề tiết kiệm năng lượng tại các làng nghề

Vấn đề tiết kiệm năng lượng tại các làng nghề

LNV - Hiện nay tiết kiệm năng lượng đang là vấn đề rất lớn mà cả xã hội đang quan tâm thực hiện.
Thực trạng mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ hiện nay

Thực trạng mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ hiện nay

LNV - Bước vào thời kỳ hội nhập, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của chúng ta phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm cùng loại của các nước cũng như cạnh tranh trong nội bộ trong nước về chất lượng, giá thành, đặc biệt là về mẫu mã sản phẩm. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế, văn hóa, đời sống xã hội, thị hiếu của khách hàng luôn thay đổi, ngày càng đòi hỏi các nhà thiết kế, các doanh nghiệp làng nghề phải không ngừng sáng tạo những sản phẩm mới có kiểu dáng đẹp, vừa có công năng đáp ứng thị hiếu của khách hàng thì mới có thể tiêu thụ được sản phẩm. Chính vì vậy những năm gần đây việc thiết kế, cải tiến mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ luôn được các nhà thiết kế, các nghệ nhân, các doanh nghiệp làng nghề quan tâm.

Tin khác

Các doanh nghiệp, cở sở sản xuất Làng nghề:  Ứng dụng công nghệ thông tin -  Giành nhiều lợi thế trên thị  trường

Các doanh nghiệp, cở sở sản xuất Làng nghề: Ứng dụng công nghệ thông tin - Giành nhiều lợi thế trên thị trường

LNV - Trong những năm gần đây, các làng nghề, làng nghề truyền thống, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên cả nước được khôi phục và phát triển, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn nước ta. Tuy nhiên, các làng nghề, làng nghề truyền thống, doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất hiện đang gặp không ít khó khăn về vấn đề đầu ra cho sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm chất lượng cao. Một số làng nghề hoạt động thiếu tính quy mô sản xuất, số hộ gia đình làm nghề có chiều hướng bị thu hẹp, thậm chí có làng nghề dường như ngừng hoạt động do khó khăn về đầu ra cho sản phẩm…
Xây dựng thương hiệu OCOP - Nâng cao giá trị sản phẩm truyền thống

Xây dựng thương hiệu OCOP - Nâng cao giá trị sản phẩm truyền thống

LNV - Sau thời gian thực hiện Chương trình OCOP “Mỗi xã một sản phẩm”, đến nay các địa phương đều lựa chọn phát triển sản phẩm và xây dựng thương hiệu sản phẩm theo lợi thế từng vùng nguyên liệu gắn với sản phẩm nông, lâm, thủy sản chất lượng cao, vừa hiện đại vừa truyền thống.
Nên lấy ngày 20 tháng 2 hằng năm  là “Ngày Làng nghề Việt Nam”

Nên lấy ngày 20 tháng 2 hằng năm là “Ngày Làng nghề Việt Nam”

LNV - Hiện nay, Thường trực Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã có Kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc lấy ngày 20-2 hằng năm là “Ngày Làng Nghề Việt Nam”. Với tư cách là người chủ trì sáng lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam (thành lập năm 2005), đã qua hai nhiệm kỳ là Chủ tịch Ban Chấp hành và nay là Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, xin góp một số ý kiến như sau.
Định hướng phát triển ngành hàng thủ công mỹ nghệ trong giai đoạn hiện nay

Định hướng phát triển ngành hàng thủ công mỹ nghệ trong giai đoạn hiện nay

LNV - Trong những năm gần đây, hàng thủ công mỹ nghệ luôn nằm trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam với rất nhiều sản phẩm đa dạng, có giá trị gia tăng cao, biên độ lợi nhuận lớn hơn so với nhiều mặt hàng xuất khẩu khác.
Tạo mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Tạo mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm hàng hóa đặc trưng của các làng nghề Việt Nam, có giá trị to lớn cung ứng cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tạo mẫu cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đang là một yêu cầu hàng đầu dể nâng cao giá trị sản phẩm và sức cạnh tranh của mỗi làng nghề nước ta.
Trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí

Trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí

LNV - Đã từ lâu, công tác phòng chống tham nhũng tiêu cực được Đảng ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, cấp bách trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa.
Các làng nghề, doanh nghiệp, người dân: Ứng dụng khoa học công nghệ - Sản phẩm nông nghiệp sẽ đột phá, lan toả đến bạn bè thế giới

Các làng nghề, doanh nghiệp, người dân: Ứng dụng khoa học công nghệ - Sản phẩm nông nghiệp sẽ đột phá, lan toả đến bạn bè thế giới

LNV - Theo tìm hiểu của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) và Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE) cho thấy, lâu nay nông sản Việt Nam vẫn còn chưa quen với việc xúc tiến thương mại ra thế giới, dường như vẫn chờ đợi người mua đến tại địa phương mua, vì vậy giá bán sẽ không cao…Các Làng nghề, doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX), các hộ nông dân cần có chiến lược nghiên cứu thị trường, điều chỉnh sản phẩm theo thị hiếu người tiêu dùng nước ngoài, mẫu mã đóng gói sản phẩm, bao bì theo quy cách của quốc tế…
Quảng Trị: Phát huy vai trò HTX nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới

Quảng Trị: Phát huy vai trò HTX nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới

LNV - Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đối với Quảng Trị điều đó càng thể hiện rất rõ, bởi lẽ kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp hầu hết gắn liền với ngành sản xuất vật chất chủ yếu và đóng góp kim ngạch xuất khẩu quan trọng cho tỉnh. Với gần 72% dân cư sống ở nông thôn và 60% lao động làm nông nghiệp, nông dân là thành viên nòng cốt của các hợp tác xã (HTX), có vị trí hết sức quan trọng về phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, an ninh- quốc phòng và tham gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững.
Gắn nông nghiệp với phát triển du lịch làng nghề

Gắn nông nghiệp với phát triển du lịch làng nghề

LNV - Hà Nội là mảnh đất trăm nghề, do đó, cần có chính sách về đào tạo, phát triển, bảo tồn những làng nghề thủ công truyền thống, để phát triển mạnh du lịch nông nghiệp trải nghiệm; đồng thời cần nâng dần quy mô, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp.
Giải pháp nâng cao quản lý Nhà nước về làng nghề ở tỉnh Đồng Tháp

Giải pháp nâng cao quản lý Nhà nước về làng nghề ở tỉnh Đồng Tháp

LNV - Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Đồng Tháp, Trường Chính trị tỉnh, Sở Khoa học – Công nghệ và môi trường tỉnh Đồng Tháp vừa tổ chức Hội thảo một số giải pháp về quản lý Nhà nước về các làng nghề trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Đồng Tháp tỉnh có nhiều nét văn hóa đặc trưng của các làng nghề được du khách quan tâm khám phá, đánh giá cao. Hiện nay, tại Đồng Tháp có 39 làng nghề được UBND tỉnh công nhận, trong đó có nhiều làng nghề đã trở thành tiêu điểm chú ý gắn với hoạt động du lịch, thu hút du khách.
Luật sử dụng năng lương tiết kiệm hiệu quả và các chính sách tác động đến làng nghề Việt Nam

Luật sử dụng năng lương tiết kiệm hiệu quả và các chính sách tác động đến làng nghề Việt Nam

LNV - Các chính sách và luật sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả đã giúp làng nghề Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng mới và tái tạo; giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng truyền thống, tăng cường sử dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng và đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực năng lượng; tăng năng suất lao động, giúp giảm thiểu ô nhiễm, tối ưu hóa sử dụng năng lượng và giảm chi phí. Bên cạnh đó có những tác động tiêu cực đến làng nghề như: Thay đổi cách thức sản xuất truyền thống của các làng nghề, có thể mất thị phần và không còn cạnh tranh được trên thị trường; giảm nhu cầu về lao động, việc thay đổi cách sản xuất có thể ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa truyền thống, thay đổi kỹ thuật sản xuất; chi phí đầu tư năng lượng tăng cao, xử lý môi trường.
Bảo tồn và phát triển nghề kim hoàn

Bảo tồn và phát triển nghề kim hoàn

LNV - Nghề kim hoàn là một trong những nghề truyền thống lâu đời của Thăng Long - Hà Nội, do người làng Châu Khê (Hải Dương) lên Thăng Long lập nghiệp, tạo phố Hàng Bạc từ thế kỷ XVI. Trải qua 5 thế kỷ, đến nay, phố Hàng Bạc vẫn luôn là trung tâm buôn bán vàng bạc lớn của Thủ đô.
Cần có sáng tạo đột phá cho sản phẩm Làng nghề

Cần có sáng tạo đột phá cho sản phẩm Làng nghề

LNV - Theo số liệu tổng hợp của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, tính đến nay, cả nước có hơn 5.000 làng nghề, tập trung nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng với khoảng 1.500 làng, trong đó khoảng 300 làng đã được công nhận là làng nghề truyền thống.
Thực trạng giai cấp nông dân  hiện nay và một số vấn đề đặt ra

Thực trạng giai cấp nông dân hiện nay và một số vấn đề đặt ra

LNV - Để đánh giá về thực trạng chất lượng của giai cấp Nông dân Việt Nam hiện nay, bài viết tập trung phân tích thực trạng về trình độ học vấn, tay nghề; về tính tích cực chính trị; đời sống văn hoá, lối sống của người nông dân.
Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII  Đột phá vị thế kinh tế tư nhân

Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII Đột phá vị thế kinh tế tư nhân

LNV - Từ những năm công cuộc Đổi Mới được triển khai đến nay, vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân, trong đó có kinh tế làng nghề luôn là một vấn đề then chốt được đặc biệt quan tâm trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường nước ta.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
qc-trang-trai-sinh-thai-vinamilk-green-farm
Mới nhất Đọc nhiều
Thừa Thiên Huế: Giới thiệu sản phẩm OCOP gắn với du lịch vùng năm 2023

Thừa Thiên Huế: Giới thiệu sản phẩm OCOP gắn với du lịch vùng năm 2023

OVN - Chiều ngày 19/9, tại Công viên Thương Bạc, đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế, Trung tâm Xúc tiến thương mại Nông nghiệp phối hợp với Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương, S
Hội thi Thư pháp chào mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam

Hội thi Thư pháp chào mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam

LNV - Ngày 29/9, Hội thi Thư pháp chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 2023 chính thức được diễn ra. Trong đó, đối tượng dự thi chia thành 2 nhóm: chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, với tổng giải thưởng hơn 100 triệu đồng.
Tâm huyết phục dựng lồng đèn trung thu truyền thống của cô gái trẻ

Tâm huyết phục dựng lồng đèn trung thu truyền thống của cô gái trẻ

LNV - Lồng đèn Trung Thu truyền thống – món đồ chơi kết nối giữa quá khứ và hiện tại, chất chứa lời thì thầm không hồi kết trong tâm hồn mỗi người con đất Việt. Nó là niềm mong mỏi của trẻ thơ mỗi dịp tết Trung Thu về. Bởi tình yêu say đắm với văn hóa Việt, chị Nguyễn Thị Kim Thủy (31 tuổi, TP. HCM) quyết định sáng lập thương hiệu Khởi Đăng Tác Khí để phục dựng lồng đèn Trung Thu xưa
Hà Nội: Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, kết nối sản phẩm OCOP với các tỉnh

Hà Nội: Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, kết nối sản phẩm OCOP với các tỉnh

LNV - Thời gian qua, Sở NN&PTNT Hà Nội đã phối hợp với các quận, huyện tổ chức nhiều sự kiện giới thiệu, quảng bá, tuần hàng xúc tiến tiêu thụ sản phẩm OCOP có ý nghĩa lớn, là cơ hội giúp các chủ thể OCOP không chỉ của Hà Nội mà còn đến từ nhiều tỉnh, TP trong cả nước gặp gỡ, kết nối giao thương. Trên cơ sở đó, quảng bá được thương hiệu sản phẩm để tiếp cận gần hơn đến thị trường với hơn 10 triệu dân ở Thủ đô và vùng lân cận.
Du lịch làng nghề - Hướng đi mới của Phú Xuyên trong xây dựng nông thôn mới

Du lịch làng nghề - Hướng đi mới của Phú Xuyên trong xây dựng nông thôn mới

LNV - Thời gian qua, du lịch nông nghiệp, nông thôn đã có sự phát triển mạnh mẽ, nhiều mô hình du lịch nông thôn đã hình thành trở thành điểm đến hấp dẫn thu hút khách du lịch tại nhiều địa phương. Với tiềm năng có nhiều làng nghề huyện Phú Xuyên (Hà Nội) đang thực hiện nhiều giải pháp phát triển du lịch nông thôn đặc biệt du lịch làng nghề là hướng đi mới, hiệu quả trong chương trình xây dựng nông thôn mới ( NTM) giai đoạn 2023 – 2025.
qc-fruit-love
qc-viglacera
qc-ao-dai
qc-brg-hapro
qc-vinfast
qc-vietmake
qc-vfresh
qc-bidv
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
qc-cse
qc-vinfast-thue-pin
Giao diện di động