Độc đáo tranh làng Sình xứ Huế
![]() |
Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước hiện được cho là người cuối cùng biết chế tác và khắc nét tranh đúng theo lối làm tranh dân gian làng Sình cổ. |
“Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Dân gian có câu hò "Thuyền từ Đông Ba, thuyền qua Đập Đá, thuyền từ Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sình". Cách TP. Huế khoảng 10 km² về phía đông Bắc, làng Sình được biết tới là một trong những địa danh có bề dày lịch sử lâu đời ở mảnh đất cố đô Huế. Là làng thuần nông, làng Sình có những đặc điểm văn hóa đa dạng, độc đáo như có chùa thờ Phật và nhà thờ Thiên chúa, có cộng đồng một số dân tộc sống xen kẽ, có lễ hội vật truyền thống đã đi vào ca dao:
“Dù ai đi đó đi đây
Ngày mười hội vật nhớ quay về Sình”.
Theo thời gian, làng Sình vẫn bảo tồn được những giá trị văn hóa đặc trưng nhất, nhộn nhịp với kẻ tô, người vẽ, giấy tranh phơi phủ kín lối vào. Làng Sình có thời từng được gọi là làng Hồ Điệp, cũng là từ một công đoạn của nghề làm tranh truyền thống nức tiếng ("hồ điệp" có nghĩa là dùng bột điệp quấy với hồ rồi phết lên giấy dó).
![]() |
Tranh làng Sình được biết tới là một trong những nhân chứng sống có bề dày lịch sử lâu đời ở xứ kinh kỳ. |
Tranh dân gian làng Sình tồn tại đã hơn 400 năm chứa vẻ đẹp văn hóa làng xã xưa. Thuở đầu, khi mới xuất hiện, tranh thường được sản xuất để phục vụ nhu cầu thờ cúng, tín ngưỡng, cầu an lành cho một năm mưa thuận gió hòa. Trải qua nhiều thế kỷ, chứng kiến bao thay đổi của mảnh đất cố đô. Tranh làng Sình ngày nay còn được sử dụng rộng rãi hơn để chơi Tết, quà biếu tặng, trang trí ở nhiều lễ hội truyền thống.
“Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”, có khoảng 50 đề tài được thể hiện trong tranh làng Sình, chia thành ba nhóm chủ đề chính là tranh nhân vật, tranh đồ vật và tranh súc vật. Trong đó, tranh nhân vật gồm hai bộ thế mạng và bổn mạng, chủ yếu là tranh tượng bà (tượng đế, tượng chùa, tượng ngang) thường dùng dán trên bàn thờ quanh năm. Ngoài ra còn có tranh con ảnh (vẽ hình đàn ông, đàn bà), tranh ông Điệu, ông Đốc và Tờ bếp dùng để hóa như hóa vàng. Tranh đồ vật chủ yếu vẽ hình áo quần, tiền, dụng cụ... để đốt cho người cõi âm. Tranh súc vật gồm một bộ gia súc, gia cầm và riêng một bộ 12 con giáp. Người ta cúng tranh để cầu cho người yên, vật thịnh, phụ nữ sinh nở được mẹ tròn con vuông, trẻ em chóng lớn, người ốm chóng khỏi...
![]() |
“Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. |
Tranh làng Sình được làm hoàn toàn bằng thủ công. Để làm ra một bức tranh hoàn chỉnh phải trải qua đủ 7 công đoạn từ xén giấy, quét điệp, in tranh trên mộc bản, phơi tranh, pha màu, tô màu, cuối cùng là điểm nhãn. Giấy dó được quét điệp cho dai, giữ màu. Vỏ điệp được nhập từ phá Tam Giang rồi người làm tranh phải tỉ mẩn ngồi giã, nghiền thật nhỏ, trộn với lớp bột gạo thành một lớp mịn quét đều lên giấy.
Mỗi bức tranh là một khuôn gỗ hoàn chỉnh, người làm tranh dùng mực màu đen phết lên bản mộc, rồi dùng giấy in thành một bức tranh thô. Đem phơi tranh cho khô mực, rồi dùng các loại màu tô lên tranh.
Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, gam màu sử dụng trên Tranh làng Sình gần giống với gam màu được sử dụng trên tranh pháp lam tại các kiến trúc kinh thành Huế: hoà sắc giữa vàng với chàm, đỏ với bích ngọc, xanh với hoả hoàng, phí thuỷ với hổ phách. Tranh làng Sình sau khi hoàn thành sẽ lấp lánh bởi vỏ điệp, nền nã bởi chất màu thô mộc, quyến rũ và quan trọng hơn cả là khi bức tranh đến tay người sử dụng đã ẩn chứa một cái gì đo thiêng liêng của cõi tâm linh.
Bà Nguyễn Thị Lan Hương - Du khách đến từ Hà Nội đứng ngắm nghía những bức tranh thật kĩ, chạm tay vào từng chi tiết phải thốt lên rằng, tôi như được ngắm nhìn cả một nền văn hóa đầy đủ, vẹn tròn nhất về đất và người miền Trung thông qua những bức tranh. Tranh mặc dù có bố cục không cầu kì, nhiều chi tiết nhưng rất sống động, sắc nét. Nét độc đáo là ở màu sắc, mỗi bức tranh mang một nét riêng, gắn liền với cảm xúc của nghệ nhân trong quá trình làm tranh. Màu sắc tươi sáng cộng với vẻ thô mộc gần gũi đã làm nên vẻ đẹp của dòng tranh dân gian đất Huế.
Người “hồi sinh” tranh làng nghề độc đáo đất cố đô
Sự tồn tại của làng nghề Sình trải qua nhiều giai đoạn biến đổi khác nhau. Thời điểm trước năm 1945, lúc ấy nhà ai cũng làm tranh. Rồi từ những năm 1970-1975, nghề bắt đầu lụi tàn do chiến tranh. Sau năm 1975, tình hình kinh tế đất nước khó khăn, vẽ tranh bị cho là lãng phí.
Chẳng mấy ai dùng tranh làng Sình nữa. Thậm chí, nhiều người hò nhau đốt tranh, phá bỏ bản khắc. Không chịu để mất nghề, ông Kỳ Hữu Phước đã bọc ni-lông tất cả những bản khắc quý rồi chôn giấu kỹ. Sau này, ông mới đào những bản khắc lên, rồi ngày ngày ngồi vẽ, kiên trì đi đến từng nhà mời họ mua tranh.
Đến nửa cuối thập niên 90 của thế kỉ trước, đất nước đổi mới, mở cửa, có chủ trương, chính sách khôi phục các làng nghề truyền thống, trong đó có tranh làng Sình. Lúc đó, nghề làm tranh chỉ có ông Phước nắm rõ.
![]() |
Mộc bản hình 12 con giáp được khắc thủ công. |
“Một cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân”, nghĩ vậy, ông vận động người dân cùng làm. Những gì ông biết, ông học được, ông truyền lại hết chẳng giữ lại gì. Ông còn làm khuôn để bà con mượn dùng, thậm chí là tặng luôn.
Ông Phước chia sẻ, chỉ mình tôi làm thôi thì đâu phải làng nghề, cha ông mình làm rồi tới mình thì mình còn muốn đời con, đời cháu của mình làm mãi, làm mãi. Làm sao để sau này, chúng không những làm nghề để bảo tồn cái gọi là bản sắc của dân tộc mà còn phải “sống khỏe” bằng nghề. Vậy nên phải phổ biến để càng nhiều người biết làm càng tốt.
Nghệ nhân già đau đáu khi làng tranh đã được khôi phục nhưng vẫn chỉ có mình ông làm được các bản khắc gỗ. Vì vậy, ông đã cất công tìm học trò để truyền nghề khắc bản mộc.
Để giữ gìn, bảo tồn những giá trị được xem là “hồn cốt” của làng quê, cả năm người con cả trai lẫn gái của ông Phước đều được ông truyền cảm hứng để theo nghề. Ông Kỳ Hữu Phước được chính thức công nhận là Nghệ nhân dân gian vào năm 2011 và đạt nhiều giải thưởng, chứng nhận khác, trong lẫn ngoài tỉnh. Sản phẩm của ông được trưng bày tại nhiều hội chợ, triển lãm và các kỳ Festival Huế.
![]() |
Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước đưa tranh làng Sình đến nhiều nơi và đã được cấp nhiều giấy chứng nhận. |
Cùng với ông Phước, làng Sình vẫn cố gắng truyền nghề, nhân cấy nghề cho các thế hệ trẻ. Chính quyền địa phương tạo điều kiện bằng cách mở lớp tập huấn nông dân làm du lịch, triển khai mô hình du lịch sinh thái đi thuyền trên sông Hương kết hợp tham quan làng nghề. Vào mùa cao điểm du lịch, mỗi ngày làng Sình có thể đón năm đến bảy đoàn khách tham quan, chưa tính du khách đi nhóm lẻ.
Là một người thích tìm hiểu về văn hoá Việt Nam, đặc biệt là các làng nghề trên đất nước Việt Nam. Bạn Võ Trung Thiên chia sẽ, đến tham quan tranh làng Sình, mình được tham quan, hiểu về quy trình sản xuất tranh và tự tay vẽ một bức tranh riêng dưới sự hưỡng dẫn của các nghệ nhân. Đó là một trải nghiệm độc đáo và mang nhiều cảm xúc, trải nghiệm mà trước đây mình chưa từng có được.
Tranh làng Sình mang nhiều dấu ấn đặc trưng, giá trị văn hóa, lịch sử của cộng đồng làng xã. Những bức tranh không đơn thuần mang yếu tố tâm linh, phản ánh tín ngưỡng cổ xưa của người Việt mà còn thể hiện tâm tư, nguyện vọng, khát vọng về cuộc sống bình yên, tốt đẹp của con người. Vì vậy, bảo tồn và phát huy tranh làng Sình là bảo tồn trọn vẹn cả một nền văn hóa lâu đời.
Tin liên quan
Tin mới hơn

Làng nghề truyền thống Trung Thu nơi những đốm lửa nghề bền bỉ gìn giữ tuổi thơ cho trẻ em Việt Nam
15:34 | 22/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Nghề dệt thổ cẩm truyền thống ở Cẩm Thủy nguy cơ mai một
09:00 | 22/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Làng nghề mây tre đan Tăng Tiến
08:56 | 21/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Sản phẩm làng nghề cần chú trọng sản xuất theo thị hiếu của người tiêu dùng
13:51 | 20/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

“Xóm thủ công” ở phố Hội
13:48 | 20/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Phát triển du lịch làng nghề gốm sứ ở Đông Triều
20:58 | 19/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân
Tin khác

Chuyện về một làng nghề chè truyền thống
10:42 | 19/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Bình Định: Kế hoạch bảo tồn, phát triển làng nghề
09:28 | 18/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Tăng cường đảm bảo an toàn vệ sinh lao động tại các làng nghề
13:36 | 15/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Thanh Hóa: Nâng cao năng suất tại các làng nghề nhờ ứng dụng khoa học công nghệ
11:08 | 15/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Huyện Ứng Hoà: Gắn du lịch với trải nghiệm làng nghề và lịch sử cách mạng
09:13 | 15/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Điêu khắc từ gốc cà phê Tây Nguyên
11:20 | 13/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Vĩnh Long: Khai mạc Con đường Nghệ thuật Gốm đỏ
11:11 | 13/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Đề xuất công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống cho Làng muối Lý Nhơn
10:34 | 12/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Cốm làng Thạc nồng nàn hương vị của mùa thu
15:33 | 11/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Các làng nghề chế biến gỗ phải tuân thủ quy định của pháp luật về lâm nghiệp
13:35 | 11/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Phát triển mô hình Làng - Nghề du lịch gắn với xây dựng hình ảnh đất nước con người Việt Nam
15:53 | 08/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Triển vọng của nghề nuôi rắn ở Vĩnh Sơn
14:21 | 08/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Thanh Trì: Giấc mơ làng nghề
14:21 | 08/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

AgroViet 2023 - Nơi kết nối chuỗi giá trị, phát triển Nông nghiệp Việt Nam
13:35 | 06/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân

Mộc mạc nghề làm tương bần ở Hưng Yên
08:57 | 06/09/2023 Làng nghề, nghệ nhân



Trở lại tuổi thơ với “Trung thu xưa” tại khu Phố cổ Hà Nội
15:56 Tin tức

Làng nghề truyền thống Trung Thu nơi những đốm lửa nghề bền bỉ gìn giữ tuổi thơ cho trẻ em Việt Nam
15:34 Làng nghề, nghệ nhân

Festival nông sản Hà Nội năm 2023 sắp tới sẽ diễn ra tại huyện Sóc Sơn
14:16 Tin tức

Kỷ niệm 78 năm ngày thành lập ngành Quân Giới Việt Nam
09:00 Tin tức

Làng nghề Việt Nam - Sản xuất sạch hơn và tiết kiệm năng lượng hướng tới phát triển bền vững
09:00 Nghiên cứu trao đổi










