Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 28°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Cơ hội mới để phát triển nghề, làng nghề

LNV - Thời gian gần đây, do tác động của đại dịch Covid-19, nhiều lao động các khu công nghiệp miền Đông Nam Bộ đã trở về địa phương; Một số lao động sẽ trở lại nơi làm việc nhưng cũng có một số ở lại quê hương. Đây là một cơ hội mới để các làng nghề chúng ta phát triển thêm nghề, làng nghề, đồng thời cũng là dịp để suy nghĩ về những vấn đề cơ bản trong phân công lao động xã hội nước ta.
Dịch chuyển lao động thời công nghiệp hóa

Theo Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung tại phiên họp ngày 10/11/2021 kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XV, thời gian qua, do tác động của đại dịch Covid-19, đã có 1,3 triệu lao động từ các địa phương miền Đông Nam Bộ, chủ yếu là từ Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Long An trở về miền Trung, Tây Nguyên và một số địa phương miền Bắc. Trong số lao động này, có khoảng 30% sẽ quay trở lại làm việc ở doanh nghiệp cũ, khoảng 30% chuyển sang nơi khác và khoảng 40% sẽ ở lại quê hương. Hiện nay, các tỉnh và thành phố nói trên đang thực hiện nhiều biện pháp để thu hút lao động trở lại làm việc; Tình hình đang chuyển biến tốt.

Nhân dịp này, xin bàn về một vấn đề rất cơ bản cần được đặt ra: Đó là việc phát triển nghề thủ công ở nông thôn, phát triển làng nghề để người lao động có thể làm giàu ngay tại quê hương, trong quá trình phân công lại lao động xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


Theo quy luật, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phân công lại lao động xã hội sẽ diễn ra như sau: (i) Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; (ii) Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp và xây dựng tăng lên; (iii) Tỷ trọng và số lao động trong các trong các ngành dịch vụ tăng nhanh, do tốc độ tăng lao động trong các ngành này nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành. Cùng với sự dịch chuyển về số lượng, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật trong Cách mạng 4.0, cũng sẽ diễn ra sự chuyển biến về chất lượng của nhân lực: Từ lao động giản đơn sang lao động có tay nghề, có kiến thức ngày càng cao; Năng suất lao động toàn xã hội cũng sẽ tăng lên. Sự phân công lại lao động xã hội nếu được diễn ra đúng quy luật, sẽ mang lại thịnh vượng cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.

Ở nước ta, từ một nước nông nghiệp đi lên, trong những năm gần đây, xu hướng dịch chuyển lao động xã hội đang diễn ra mạnh mẽ: dân số thành thị ngày càng tăng, trong khi dân số nông thôn có xu hướng giảm. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ đô thị hóa cả nước đã tăng nhanh từ 30,5% năm 2010 lên khoảng 40,4% năm 2021, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, đô thị hóa và phát triển kinh tế đô thị nước ta diễn ra không đồng đều giữa các vùng, miền; Tỷ lệ đô thị hóa còn thấp so với mức trung bình của các nước trong khu vực; Quá trình đô thị hóa phát triển theo chiều rộng và phân tán, gây lãng phí về đất đai, hạn chế tích tụ kinh tế.

Từ thực tiễn, nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, lại gặp lúc đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến toàn bộ đời sông kinh tế - xã hội, phải thực hiện nhiệm vụ kép vừa khôi phục và phát triển sản xuất vừa phòng, chống dịch, vì vậy, việc thực hiện cơ cấu lại lao động xã hội cần phải xem xét trên nhiều mặt. Đó là: (i) Cơ cấu lại lao động phải gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; (ii) Phải quán triệt quan điểm người dân vừa là trung tâm, vừa là chủ thể của phát triển đất nước, để người dân “an cư, lạc nghiệp”, chất lượng sống được nâng cao; (iii) Việc đô thị hóa, phát triển hệ thống đô thị cần hài hòa, phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương; Chú ý phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp tại các vùng, miền trong cả nước, không quên vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người; (iv) Cần phát triển các đô thị vệ tinh, hạn chế xu hướng tập trung quá mức vào các đô thị lớn, gây ra những vấn đề về an sinh xã hội, nhất là nhà ở rất khó giải quyết; (v) Chú trọng gắn kết phát triển đô thị với phát tiển nông thôn, xây dựng nông thôn mới.

Làm giàu ngay tại quê hương

Theo số liệu thống kê, dân số nước ta năm 2021 là 98 triệu người (tính số tròn); Trong đó 36 triệu người đang sống ở thành thị và 62 triệu người sống ở nông thôn. Như vậy, vẫn còn khoảng gần 70% số dân đang sống trong nông thôn, sức ép về việc làm, thu nhập và đời sống đang rất gay gắt.


Chúng ta không phủ nhận thực tế là tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở các thành phố lớn, thu nhập của người lao động khá hơn nhiều so với làm nông nghiệp; Điều này, đang hấp dẫn lao động các địa phương dồn về các thành phố lớn. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy cuộc sống của lao động nhập cư đang có rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Vẫn còn những trường hợp chỗ ở của người lao động quá chật chội, dễ sinh bệnh tật, có những gia đình ngoài vợ chồng, còn có các con, lại có bà nội hoặc ngoại cùng ở để trông cháu trong một diện tích quá hẹp. Bên cạnh đó, khám chữa bệnh khó khăn; trẻ em đi học vất vả; sinh hoạt văn hóa rất hạn chế... Khi đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực thời gian qua, nhiều lao động buộc phải rời bỏ nơi làm việc, trở về quê hương, mặc dù con đường hồi cư cũng nhiều bất trắc đã phơi bày rất rõ thực trạng rất đáng quan tâm này.

Thực tế đã cho thấy việc tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp tại các đô thị lớn sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề về đời sống của người lao động rất khó giải quyết. Vì thế, xu hướng chung trên thế giới ngày nay là không tập trung công nghiệp vào các thành phố quá lớn mà phân tán các cơ sở ra các đô thị vệ tinh ở vùng nông thôn gần thành phố với các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng lao động tại chỗ sản xuất các linh kiện, phụ tùng hoặc thực hiện các dịch vụ cho các doanh nghiệp lớn. Đây cũng là một phương thức tạo việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho lao động nông thôn, tránh được tình trạng phải đưa lao động từ xa đến, gây ra nhiều hệ lụy như trên đã nói.

Xin nói thêm về việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài thường được gọi là “xuất khẩu lao động”. Trong toàn cầu hóa ngày nay, việc người lao động di chuyển từ nước này sang nước khác là lẽ đương nhiên theo sự tự nguyện của họ, nếu như người lao động tìm được việc làm phù hợp, có thu nhập hợp lý với các nhu cầu về an sinh xã hội được bảo đảm. Trong thời gian qua, đã có nhiều lao động được cơ quan chức năng đưa đi xuất khẩu lao động, thu về một số ngoại tệ. Tại một số địa phương, đã có những ngôi nhà mới nhiều tầng được xây lên bằng số tiền này, các tiện nghi trong đời sống của dân khá lên rõ rệt.

Vấn đề cần suy nghĩ là nhiều người đi xuất khẩu lao động đang phải làm những công việc nặng nhọc, ảnh hưởng đến sức khỏe mà người bản xứ không muốn làm; Thậm chí đã có thảm cảnh như tình trạng 39 người đã chết trong một container đông lạnh khi đi lao động chui ở Anh hồi cuối năm 2019. Vì vậy, rất cần những chính sách để người lao động có thể làm giàu ngay tại quê hương; phải chăng chỉ nên đưa ra nước ngoài hợp tác lao động những người có trình độ học vấn cao, những công nhân kỹ thuật bậc cao, không nên đưa đi những lao động phổ thông. Đây cũng là dịp để thể hiện trình độ, kiến thức của lao động nước ta, đề cao vị thế của đất nước ta trên thế giới.

Để người lao động làm giàu ngay trên quê hương, cần thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn với cơ cấu lao động một cách hài hòa giữa các vùng, miền, các loại hình doanh nghiệp: Giữa những địa phương trọng điểm có sức lan tỏa với những địa phương khác; Giữa các doanh nghiệp quy mô lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình... Như vậy, cũng tức là tạo việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân ở các vùng, miền một cách hài hòa, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, giảm dần chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư.

Cơ hội mới để phát triển nghề, làng nghề

Thực tiễn đã khẳng định nông nghiệp là “trụ đỡ” của nền kinh tế; Ngay trong thời gian đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến kinh tế, xã hội nước ta, nông nghiệp vẫn khắc phục khó khăn, đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện nhiều giải pháp thích hợp bảo đảm an ninh lương thực cho xã hội, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, góp phần rất có ý nghĩa vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Khi sản xuất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và các doanh nghiệp ở các đô thị lớn gặp khó khăn, nhiều lao động trở về quê thì nông nghiệp, nông thôn sẵn sàng là nơi đón nhận.

Nếu như nông nghiệp, nông thôn là “trụ đỡ” của nền kinh tế, thì làng nghề chúng ta rất xứng đáng là một cột trong trụ đỡ đó. Thực tiễn đã chứng minh những giá trị to lớn của làng nghề về các mặt văn hóa, kinh tế, xã hội; Trong tình hình hiện nay, đó là tiềm năng giải quyết việc làm và đời sống của người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới. Làm được như vậy, sẽ tạo môi trường cho thanh niên lập nghiệp, làm giàu ngay tại quê nhà, khắc phục tình trạng đáng buồn trong nông thôn một số vùng hiện nay: Thanh niên đến tuối lao động đi tìm việc tại các đô thị, trong nông thôn chỉ còn người già và trẻ nhỏ; Ruộng đồng không có người canh tác, đời sống trầm lắng.

Hiện nay, nông thôn đang tiếp nhận lao động từ nhiều nguồn cần giải quyết việc làm: (i) Nước ta đang trong thời kỳ “dân số vàng” (69% số dân ở trong độ tuổi lao động) cần tận dụng; (ii) Trong nông thôn, mỗi năm, nông thôn có trên 1 triệu người đến tuổi lao động; (iii) Người lao động từ các đô thị trở về và có ý định ở lại quê nhà; (iv) Do ứng dụng Công nghệ 4.0, lao động trong các ngành sử dụng nhiều lao động sẽ giảm bớt, làm tăng thêm số lao động cần tìm nơi làm việc mới. Giải bài toán lao động ở đây phải dựa vào phát triển đồng bộ các ngành nghề: Từ công nghiệp, thủ công nghiệp đến dịch vụ. Đối với các làng nghề chúng ta, đây chính là cơ hội mới để mở mang nghề thủ công, phát triển làng nghề. Có thể phân ra các nhóm và biện pháp giải quyết như sau.

-Đối với những người đã có nghề, làm việc trong các doanh nghiệp nay trở về, có thể tìm những doanh nghiệp hoặc hộ kinh doanh làng nghề cùng nghề thích hợp ở địa phương để giới thiệu họ vào làm việc;

-Đối với những người đã có nghề, nay trở về quê nhưng chưa tìm được nơi làm việc đúng nghề, có thể tìm và giới thiệu vào làm việc ở nơi có một nghề gần với nghề họ có sẵn; Nếu không, có thể giúp họ học nghề mới hoặc khởi nghiệp, lập cơ sở sản xuất kinh doanh thích hợp;

-Đối với người chưa có nghề, cần tổ chức đào tạo nghề cho họ và sau đó, giúp họ vào làm việc tại các cơ sở hiện có hoặc khởi nghiệp, lập cơ sở mới. Có thể đào tại tại trường của địa phương hoặc tại các lớp do làng nghề tổ chức, do các nghệ nhân hướng dẫn. Tuy nhiên, phương thức đào tạo cần thiết thực, hiệu quả, có thể miễn phí hoặc trợ giúp phí đào tạo.

Như vậy, làng nghề có thể giúp người lao động: Hoặc là vào làm việc tại các cơ sở có sẵn, hoặc thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới, theo đúng yêu cầu làm giàu ngay tại quê hương, không phải “tha phương cầu thực”, vừa bảo đảm thu nhập và đời sống của bản thân và gia đình, vừa góp phần xây dựng quê hương. Từ đó, quy mô làng nghề hiện có sẽ được mở rộng, làng nghề mới sẽ dần hình thành. Vai trò của Nhà nước ở đây là rất quan trọng như: Quy hoạch ngành nghề theo nhu cầu của thị trường và của địa phương; Đẩy mạnh các hoạt động khuyến công; Xây dựng kết cấu hạ tầng (đường, điện, nước); Có chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp ở nông thôn; Xây dựng các cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế; Giúp đỡ ứng dụng công nghệ số; Xúc tiến thương mại, tạo thuận lợi về đất đai, các loại thuế, phí, tín dụng... Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, với chức năng, nhiệm vụ của mình, đang có không gian rất rộng rãi để tham gia quá trình cơ cấu lại lao động nông thôn, phát triển nghề và làng nghề, xây dựng làng nghề văn hóa, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng nông thôn mới.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ

Tin liên quan

Tin mới hơn

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.

Tin khác

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

LNV - Tạp chí Làng Nghề Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng” của đồng chí Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH T.W Đảng cộng sản Việt Nam.
Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

LNV - Trải qua hàng trăm năm lịch sử, các làng nghề không chỉ mang nhiều giá trị về mặt kinh tế mà còn là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc và mang đậm dấu ấn của kiến trúc truyền thống Việt Nam. Khai thác tiềm năng của làng nghề để thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch đang được coi là một trong những hướng đi triển vọng của đất nước. Tuy nhiên, làng nghề truyền thống trong thời kỳ đổi mới cũng đang đặt ra những thách thức đặc biệt là bảo tồn và phát triển về không gian kiến trúc.
Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

LNV - Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam từ lâu đã được biết đến với những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa, nghệ thuật truyền thống, thể hiện tài hoa của những nghệ nhân làng nghề. Tuy nhiên, khi bước vào thời đại hội nhập và toàn cầu hóa, để giữ vững được thị trường trong nước và cạnh tranh với các sản phẩm quốc tế, các doanh nghiệp và làng nghề phải tìm ra cách tiếp cận hiệu quả hơn thông qua chiến lược marketing xuất khẩu.
Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em, giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có những hướng đi bền vững.
Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

LNV - Vượt ra khỏi vai trò vỏ bọc bên ngoài, bao bì sản phẩm còn là câu chuyện thương hiệu và thông điệp mà nhà sản xuất muốn gửi gắm. Vì vậy, thiết kế bao bì không chỉ đòi hỏi sự sáng tạo, mà còn cần sự hiểu biết sâu sắc về sản phẩm, thị trường và khách hàng.
Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

LNV - Dù đã đưa ra nhiều biện pháp, giải pháp, quy định đối với các cơ sở sản xuất tại làng nghề nhưng việc bảo vệ môi trường vẫn đang gây nhiều khó khăn cho các cấp chính quyền quản lý. Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại làng nghề cũng đặt ra nhiều thách thức. Trong đó, việc gia tăng phát triển cả về số lượng làng nghề và loại ngành nghề đã khiến ô nhiễm môi trường cũng ngày càng cao, nhiều nơi vượt quá tầm kiểm soát của các cấp chính quyền quản lý.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

LNV - Nhân dịp Tết Ất Tỵ 2025, ông Đặng Khánh Duy, Tổng giám đốc điều hành (CEO) Công ty TNHH Tân Nhiên - Chủ thể đầu tiên của tỉnh Tây Ninh có sản phẩm đạt OCOP 5 sao đã có những chia sẻ với Tạp chí Làng nghề Việt Nam.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam

Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam

LNV - Trong tiến trình lịch sử dân tộc, các tôn giáo không chỉ đóng vai trò tín ngưỡng mà còn là những trụ cột tinh thần, tham gia vào việc ổn định xã hội, điều tiết đời sống văn hóa và phản ánh tâm thế con người trước các biến động lịch sử. Cuốn sách “Qu
Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam

Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam

LNV - Trong hệ thống thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt, những công trình như đình, chùa, đền, miếu đã được nghiên cứu sâu rộng và trở thành biểu tượng quen thuộc trong tâm thức cộng đồng. Tuy nhiên, các quán Đạo giáo, nơi thờ phụng các vị thần
Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị

Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị

LNV - Khi các thiết chế tôn giáo quen thuộc như đình, chùa, đền, miếu đã khẳng định vị thế vững chắc trong nhận thức cộng đồng và chính sách bảo tồn di sản, thì quán Đạo giáo là một loại hình di tích gắn liền với sự du nhập và bản địa hóa của Đạo giáo ở V
Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước

Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước

LNV - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn kiện pháp lý có giá trị cao nhất, phản ánh ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đồng thời là nền tảng chính trị, pháp lý cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP

Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP

OVN - Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến tháng 6-2025, cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm) đạt 3 sao trở lên, tăng 12.056 sản phẩm so với năm 2020. Trong đó, có 73,2% sản phẩm 3 sao, 26,4% sản phẩm 4 sao, 79 sản
Giao diện di động