Từ làng nghề đến ''phố Hàng''

Người thợ rèn cuối cùng “giữ lửa” trên phố Lò Rèn. Ảnh: Phương Ngân
Thăng Long thời Lý, Trần có 61 phường chia làm 3 khu vực khá rõ ràng. Phía Tây có các làng nghề chuyên dệt lụa, sản xuất công cụ nông nghiệp, làm giấy... Đó là những nghề có trước khi vùng đất này trở thành kinh đô. Phía nam chủ yếu làm nông nghiệp, phía đông ven sông Hồng và cửa sông Tô Lịch là khu vực buôn bán. Tuy nhiên, thời Lý, Trần, dân số Thăng Long còn ít, giao thương cũng hạn chế nên các làng nghề ở Thăng Long có quy mô nhỏ. Mặt khác, hàng hóa thiết yếu đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân chúng được triều đình đưa vào nơi sản xuất tập trung gọi là xưởng bách tác (như mô hình hợp tác xã sau này).
Thăng Long thực sự cuốn hút dân có nghề rời quê ra kinh thành lập nghiệp, nhất là vào thời Lê, khi triều đình ban hành nhiều chính sách cởi mở. Lê Thái Tổ đã xóa bỏ trang trại của quý tộc triều Trần, giải phóng nông nô, cấp đất cho dân. Kết quả là công điền bị thu hẹp, tư điền phình ra. Cùng với tư nhân hóa đất ruộng, đất ở, triều Lê hiểu rõ sản xuất luôn gắn liền với thương mại nên giảm thuế chợ, nới rộng buôn bán và cho tự do sản xuất. Những chính sách đó đã khiến nhiều gia đình ở một số làng nghề cho người thân ra Thăng Long mở các cơ sở sản xuất nhỏ thăm dò.
Nhưng tại sao họ ra Thăng Long mà không phải nơi khác? Đơn giản vì Thăng Long là kinh đô, nơi dân cư tập trung đông đúc là điều kiện tốt để tiêu thụ hàng hóa, Thăng Long là nơi giao thương với các vùng miền, nơi dừng chân của các thương nhân nước ngoài nên thuận tiện cho việc mua nguyên liệu và bán hàng. Dù ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo coi trọng nghề “sĩ, nông” hơn nghề “công, thương”, song những chính sách mới mẻ của nhà Lê đã trở thành động lực cho kinh tế Thăng Long nói riêng và Đại Việt nói chung thay đổi. Thăng Long thời Lê trở thành nơi buôn bán đông đúc nên tên Kẻ Chợ xuất hiện. Nhà truyền giáo phương Tây Filippo de Marini đến Thăng Long năm 1663, ông nhận thấy ở đầu các con phố đều treo một tấm biển gỗ trên đó có ghi tên chỉ dẫn bán mặt hàng gì. Việc đó chắc chắn đã có trước khi nhà truyền giáo này đến kinh thành.
Trong cuốn Lịch sử Hà Nội, nhà sử học người Pháp Philippe Papin giải thích từ “phố” theo chữ Nôm có nghĩa là “nơi mua bán, là khu dân cư tập trung quanh khu vực bến thuyền”. Còn theo nhà nghiên cứu Hà Nội Nguyễn Vinh Phúc, từ “phố” nguyên nghĩa là chỗ bán hàng và phố có thể là một nhà bày bán hàng, dần dần phố có nghĩa là nơi có nhiều cửa hàng. Trong bộ sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, tác giả Nguyễn Văn Uẩn giải thích: “Phường được sử dụng trong giấy tờ của nhà chức trách còn phố do dân gọi và lâu mà thành, phố vẫn nằm trong phường”. Từ nhận định của các nhà nghiên cứu có thể hiểu, mặt đường là nơi bán hàng, bên trong là nơi sản xuất, cũng là chỗ ở và sinh hoạt của gia đình.
Có một điều đặc biệt là khi Trịnh - Nguyễn giao tranh, kinh tế Thăng Long tưởng sẽ lụi tàn nhưng ngược lại, Thăng Long vẫn sầm uất vì chính quyền Đàng ngoài cần có nguồn lực phục vụ cho chiến tranh nên đã đưa ra nhiều chính sách cởi mở hơn. Tuy nhiên, kinh tế Thăng Long phát triển mạnh nhất là sau khi nhà Nguyễn lên cai trị và chuyển kinh đô vào Huế năm 1802. Vì “ngại” sĩ phu và dân chúng Bắc Hà còn vọng Lê nên nhà Nguyễn lấy lòng họ bằng cách cho đắp đê chống lũ lụt, cứu trợ dân khi đói kém, giảm thuế chợ và thực hiện tư hữu đất đai mạnh hơn, điều đó đã tạo điều kiện cho nhiều làng nghề ào ra Thăng Long mua đất, lập xưởng. Cùng với các làng nghề có từ thời Lê, Thăng Long trở nên nhộn nhịp như thời còn là kinh đô.
Năm 1831, vua Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách hành chính lớn, phân chia và đặt tên mới theo địa giới hành chính cấp tỉnh, Thăng Long bị sáp nhập với một số khu vực khác thành tỉnh Hà Nội. Tỉnh Hà Nội có diện tích rộng hơn, gồm 4 phủ, 15 huyện. Trong số 15 huyện của tỉnh Hà Nội, hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận vẫn thuộc phủ Hoài Đức và “36 phố phường” đều nằm trong địa phận hai huyện này. Cũng theo nhà sử học Philippe Papin, chức trưởng phố ra đời vào cuối đời vua Thiệu Trị (1841 - 1847), chức này không nằm trong cơ cấu hành chính cấp phường mà do dân bầu ra để giúp chính quyền thu thuế, giữ trật tự an ninh. Tên phố Hàng ngày càng rõ nét và cụ thể hơn dưới triều Lê. Ghi chép một chuyến đi Bắc Kỳ năm 1876 của học giả Trương Vĩnh Ký cho thấy có nhiều phố bắt đầu bằng chữ Hàng gắn với tên mặt hàng đó.
Hiện Hà Nội có 53 phố và ngõ bắt đầu bằng chữ Hàng nhưng hầu như không còn phố, ngõ vừa sản xuất vừa bán hàng. Đó là theo quy luật kinh tế, những gì không phù hợp sẽ dần mất đi. Những con phố tên Hàng tuy không còn thể hiện vai trò về kinh tế nhưng vẫn có ý nghĩa đối với lối sống, văn hóa đô thị Thăng Long - Hà Nội.
Bài, ảnh: Nguyễn Ngọc Tiến
Tin liên quan
Tin mới hơn
Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Hà Nội - Cơ hội và thách thức
10:09 | 08/11/2025 Tin tức
Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Hà Nội
08:08 | 31/10/2025 Nghiên cứu trao đổi
Chung tay hành động vì thương hiệu Việt – quyết liệt chống hàng giả, hàng nhái và gian lận thương mại
09:05 | 28/10/2025 Nghiên cứu trao đổi
Sáng tạo đổi mới tư duy phát triển sản phẩm thủ công truyền thống đưa sản phẩm “made in Việt Nam” ra thế giới
09:20 | 24/10/2025 Nghiên cứu trao đổi
Cần một chiến lược tổng thể để ngành thủ công mỹ nghệ tỉnh Phú Thọ phát triển sau sáp nhập
08:43 | 17/10/2025 Nghiên cứu trao đổi
Phong tặng các Danh hiệu Làng nghề Việt Nam: Tôn vinh tinh hoa nghề truyền thống, khuyến khích lao động sáng tạo
10:40 | 10/10/2025 Nghiên cứu trao đổi
Tin khác
Phát huy tiềm năng, thế mạnh ngành thủ công mỹ nghệ trong phát triển du lịch Hà Nội
08:59 | 26/09/2025 Nghiên cứu trao đổi
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị thẩm mỹ, sáng tạo
10:16 | 21/09/2025 Nghiên cứu trao đổi
Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ
09:43 | 12/09/2025 Nghiên cứu trao đổi
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống
15:36 | 27/08/2025 Nghiên cứu trao đổi
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội
11:15 | 26/08/2025 Nghiên cứu trao đổi
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ
09:24 | 15/08/2025 Nghiên cứu trao đổi
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ
09:53 | 04/08/2025 Nghiên cứu trao đổi
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch
10:21 | 31/07/2025 Nghiên cứu trao đổi
Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương
10:21 | 31/07/2025 Nghiên cứu trao đổi
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội
09:39 | 25/07/2025 Nghiên cứu trao đổi
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh
08:47 | 18/07/2025 Nghiên cứu trao đổi
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch
11:56 | 11/07/2025 Nghiên cứu trao đổi
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam
09:49 | 25/06/2025 Nghiên cứu trao đổi
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa
10:50 | 23/06/2025 Nghiên cứu trao đổi
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề
09:39 | 09/06/2025 Nghiên cứu trao đổi
Đồng Nai: Khát vọng đưa sản phẩm OCOP yến sào vươn xa
11:34 Tin tức
Nghề dệt chiếu cói Tiên Kiều giữa nhịp sống hiện đại
11:33 Làng nghề, nghệ nhân
Nghiệm thu Đề án “Hỗ trợ ứng dụng máy móc, thiết bị tiên tiến vào sản xuất, chế biến hoa quả”
09:31 Khuyến công
Đề án khuyến công quốc gia năm 2026 của Quảng Trị tập trung vào tiết kiệm năng lượng
09:31 Tin tức
Tây Ninh khuyến công thích ứng mô hình hai cấp
09:30 Khuyến công
