Hà Nội: 30°C Hà Nội
Đà Nẵng: 33°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 27°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 32°C Thừa Thiên Huế

Tạo mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm hàng hóa đặc trưng của các làng nghề Việt Nam, có giá trị to lớn cung ứng cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tạo mẫu cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đang là một yêu cầu hàng đầu dể nâng cao giá trị sản phẩm và sức cạnh tranh của mỗi làng nghề nước ta.
Tạo mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề
Mẫu mã nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm làng nghề.

Tạo mẫu cho sản phẩm làng nghề

Trong điều kiện phát triển và hội nhập của nền kinh tế nước ta ngày nay, sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề cũng như các loại hàng hóa khác của nước ta đang đứng trước cuộc cạnh tranh gay gắt - cạnh tranh ngay trên thị trường nước ta và nhất là trên thị trường các nước khác trong WTO. Trong cuộc cạnh tranh này, sản phẩm nước ta buộc phải nâng cao năng lực cạnh tranh về nhiều mặt, bên cạnh những yêu cầu về giá cả, mẫu mã, đã có thêm những yêu cầu rất khắt khe về môi trường, về an toàn lao động trong doanh nghiệp sản xuất và an toàn cho người tiêu dùng. Tuy vậy, cần khẳng định rằng mẫu mã vẫn là một yếu tố rất quan trọng trong những yếu tố cấu thành sức cạnh tranh của sản phẩm: về văn hóa, đó là sự thể hiện yếu tố văn hóa trong sản phẩm; và về kinh tế, đó là sự đóng góp vầo giá trị gia tăng của sản phẩm.

1. Công tác tạo mẫu cho sản phẩm làng nghề đang đứng trước những triển vọng mới rất to lớn. Đó là vì:

Một là, qua những năm đổi mới, sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đã thể hiện rõ rệt vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước ta ngày nay. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề vừa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng phong phú, đa dạng của nhân dân trong nuớc, vừa là loại hàng hóa có giá trị, góp phần quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Từ nhiều năm nay, sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã là một loại hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng khá nhanh: năm 2001 mới là 236,8 triệu USD; năm 2006 đã đạt 630 triệu USD; riêng sản phẩm gỗ năm 2001 mới là 1 tỷ USD, năm 2006 đã đạt gần 2 tỷ USD. Thực hiện chủ trương “Phát triển bền vững các làng nghề” mà Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra, các làng nghề nước ta đang trên đà phát triển, tuy còn gặp không ít khó khăn, nhưng triển vọng là rất to lớn; do đó, công tác tạo mẫu và vai trò của các nhà design (tạo mẫu) càng quan trọng.

Hai là, sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang trong mình những yếu tố kinh tế và văn hóa, khoa học kỹ thuật, nhưng nổi bật nhất là các yếu tố văn hóa, vì đó là những sản phẩm được làm ra bằng tài năng sáng tạo của các nghệ nhân với nhiều loại sản phẩm tinh xảo, độc đáo, đậm nét bản sắc dân tộc và trong khá nhiều trường hợp, mang phong cách chế tác của từng nghệ nhân, đôi khi còn mang nét đặc trưng của từng làng nghề. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đã góp phần làm phong phú kho tàng tinh hoa văn hóa thế giới, vì nói đến cùng, hội nhập kinh tế thực chất cũng là hội nhập văn hóa, là những giá trị văn hóa trong từng sản phẩm, nhất là sản phẩm thủ công mỹ nghệ và trong phương thức kinh doanh. Chính yếu tố văn hóa trong sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đang mở ra những triển vọng mới cho các nhà thiết kế trong hoạt động sáng tạo của mình.

2. Chính vì thế, công tác tạo mẫu cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đang đứng trước những yêu cầu mới.

Theo nhà nghiên cứu chuyên ngành M.Kelm, “tạo dáng công nghiệp” - cũng còn gọi là tạo mẫu được định nghĩa: “Tạo dáng... nằm trong quá trình chuẩn bị và phát triển của sản phẩm và hệ thống sản phẩm mà trong đó yếu tố thẩm mỹ là một thành phần thống nhất gắn bó hữu cơ với các thành phần khác như khoa học, công nghệ, thiết kế... nhằm tối ưu hóa về giá trị sử dụng, nhằm thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa - thẩm mỹ của chế độ xã hội thích hợp với những điều kiện của nền công nghiệp phát triển”[1].

Trong điều kiện mới của đất nước tiếp tục đổi mới và hội nhập, sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề cũng phải đổi mới về mẫu mã, kiểu dáng; cũng tức là các mẫu mã phải được liên tục đổi mới, cải tiến.

Một là, mẫu mã phải tiếp tục phát huy văn hóa truyền thống, đồng thời tiếp thu văn hóa thế giới trong từng loại sản phẩm, từng sản phẩm, đó là “kết hợp truyền thống với hiện đại”, hoặc cũng gọi là “hiện đại hóa truyền thống”. Chúng ta có những mẫu mã truyền thống của các sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ hàng trăm năm nay; nhưng trước yêu cầu mới, những mẫu mã truyền thống ấy có cần “hiện đại hóa” hoặc “làm mới” hay không; đồng thời, cùng với những mẫu mã truyền thống, cẩn sáng tạo thêm những mẫu mã mới nào khác. Đây là một vấn đề rất quan trọng, cần được làm rõ cả về lý luận và thực tiến.

Hai là, mẫu mã phải đáp ứng thật tốt yêu cầu của thị trường, kể cả thị trường trong nước và thị trường thế giới, hơn nữa, lại phải tìm cách đi vào từng thị trường cụ thể trên thế giới. Chúng ta không thể “bán cái ta có” như trước đây, mà phải “bán cái mà thị trường cần”. Trong thị trường toàn cầu hóa ngày nay, không thể không đặt mặt hàng thủ công mỹ nghệ nước ta trong thế cạnh tranh với những mặt hàng cùng loại trên thế giới; cạnh tranh về mẫu mã và cả về giá cả và chất lượng (nguyên vật liệu thân thiện với môi trường). Điều cần quan tâm là có những nước cạnh ta cũng đang có những sản phẩm cùng dạng như sản phẩm của ta, hơn nữa, họ đã và đang có những cải tiến mẫu mã nhanh hơn ta; do vậy, cuộc cạnh tranh là hết sức gay gắt, không thể xem nhẹ. Nếu không, việc thua ngay trên sân nhà là điều chắc chắn.

Một số giải pháp chủ yếu

Trước tình hình đó, xin kiến nghị một số giải pháp chủ yếu như sau.

Một là, tổ chức nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề về lý luận và phương pháp luận cũng như về vai trò, vị trí của mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay. Có một số vấn đề cần suy nghĩ: (i) Khi nước ta đang trong quá trình đổi mới và phát triển và nay đã là thành viên của WTO, hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, thì công tác tạo mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của nước ta đang ở đâu, có vị trí và vai trò như thế nào, có thể đóng góp gì cho công cuộc phát triển đất nước; (ii) chúng ta đang đứng trước tình hình như thế nào; công tác tạo mẫu cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ có những những thuận lợi gì mới đồng thời có những khó khăn gì mới và phương hướng phát triển là gì; (iii) riêng đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, quan niệm như thế nào là “hiện đại hóa truyền thống” và “truyền thống hóa hiện đại”? Phải chăng truyền thống và hiện đại luôn luôn gắn bó với nhau; công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không tách rời với truyền thống, và chính truyền thống lại là nền tảng cho chúng ta tiếp thu cái hiện đại, làm phong phú thêm truyền thống, v.v...

Hai là, công tác tạo mẫu, tạo dáng là một loại hoạt động gắn bó chặt chẽ kinh tế với kỹ thuật, kỹ thuật với mỹ thuật; cũng tức là kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố kinh tế - kỹ thuật; văn hóa - thẩm mỹ với yếu tố khoa học - công nghệ, v.v... Hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống là một sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, nhưng không giống như một hàng tiêu dùng thông thường, mà mang trong nó những giá trị chân, thiện, mỹ của một nền văn hóa dân tộc, truyền cho người dùng những xúc cảm mới, sự khoái cảm thẩm mỹ mới, nhất là qua đó, chúng ta thêm tự hào về truyền thống văn hóa nước nhà, bàn tay khéo léo của nghệ nhân; đó chính là “giá trị biểu trưng” của sản phẩm. Giá trị ấy mang bản sắc văn hóa, chuyển biến theo từng thời kỳ của sự phát triển đất nước, trường tồn cùng đất nước. Sự hợp tác chặt chẽ giữa các họa sỹ, các nhà thiết kế, nhà tạo mẫu, các nghệ nhân, thợ cả, nhà khoa học-công nghệ, các doanh nhân, và tập thể người lao động, v.v... trong quá trình sáng tạo là hết sức quan trọng, bảo đảm cho giá trị vĩnh hằng của những sản phẩm như thế. Việc sáng tạo mẫu mã mới cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ là rất có ý nghĩa, khắc phục tình trạng lâu nay thường chỉ nhái mẫu cổ hoặc làm theo mẫu có sẵn của khách đặt hàng. Cần quan tâm hơn nữa đối với bao bì sản phẩm thủ công mỹ nghệ là lĩnh vực lâu nay thường coi nhẹ, song trong thực tế, bao bì không chí là vật dụng để chứa đựng sản phẩm, tránh cho sản phẩm bị hư hỏng, va đập, mà còn tôn thêm vẻ đẹp của sản phẩm thủ công mỹ nghệ.

Ba là, trước yêu cầu của tình hình mới, nên có sự hợp tác chặt chẽ giữa những người làm công tác tạo mẫu, tạo dáng cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tức là các hội, hiệp hội doanh nghiệp liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ. Trong kinh tế thị trường, các hội, hiệp hội doanh nghiệp là tổ chức tự nguyện, tự quản lý, tự trang trải của các doanh nghiệp nhằm thực hiện các chức năng: (i) hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh (về các mặt thông tin, tư vấn, và đào tạo); bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên và (iii) làm cầu nối giữa hội viên với cơ quan nhà nước, tham gia ý kiến hoạch định cơ chế, chính sách liên quan đến ngành nghề mà hội, hiệp hội là đại diện. Sự hợp tác liên kết giữa các nhà tạo mẫu với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp này trong các lĩnh vực, nhất là đào tạo, tư vấn, biểu dương, tổ chức các hội thi, khen thưởng, v.v... là rất quan trọng để tạo thêm điều kiện thuận lợi cho các nhà tạo mẫu cũng như các hội, hiệp hội trong việc bảo tồn mẫu mã hiện có và sáng tạo thêm nhiều mẫu mã mới. (Xin nói thêm: Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã thành lập Trung tâm Tạo mẫu hỗ trợ làng nghề Việt Nam, sẵn sàng hợp tác với các nhà tạo mẫu để trợ giúp các làng nghề nước ta). Phải chăng cũng đã đến lúc cần phát triển nhiều hơn nữa các hội nghề nghiệp của các nhà tạo mẫu, thiết kế sản phẩm công nghiệp nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng ?

Bốn là, cần quan tâm hơn nữa đối với công tác bồi dưỡng, đào tạo những nhà thiết kế, tạo mẫu. Không chỉ quan tâm đào tạo họa sĩ tạo hình và thợ kỹ thuật bậc thấp mà cần quan tâm việc đào tạo thật sự bài bản, ở trình độ cao về tạo mẫu hàng thủ công mỹ nghệ. Khuyến khích các viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng đẩy mạnh nghiên cứu, giảng dạy về tạo mẫu cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ; khuyến khích các cơ quan thông tin đại chúng quảng bá rộng rãi những thành tựu mới, sáng tạo mới về mẫu mã, tôn vinh nghệ nhân, thợ giỏi trong lĩnh vực này. Cần quan tâm các nghệ nhân, thợ cả, những người thường chế tác, sản xuất theo kiểu riêng và theo cách truyền nghề, nay cần tạo điều kiện cho họ tiếp cận các thông tin mới về thị trường, mẫu mã mới trên thế giới, giúp cho họ những điều kiện để phát triển tài năng, đồng thời giúp cho những nghệ nhân cao tuổi thêm điều kiện sáng tác và khắc phục những khó khăn trong đời sống.

Năm là, những vấn đề về thể chế, chính sách quản lý, đó là những vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết mà các cơ quan nhà nước cần quan tâm thực hiện nhằm tạo điều kiện cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ nước ta phát triển bền vững, góp phần vào việc phát triển đất nước và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Hiện nay, công tác nghiên cứu, tạo mẫu cho sản phẩn thủ công mỹ nghệ làng nghề đang cần những thể chế, chính sách để phát triển mạnh hơn nữa. Đó là những trợ giúp về vật chất, trang thiết bị, về địa điểm cho các trung tâm, các cơ sở dạy nghề, truyền nghề cũng với các chính sách khuyến khích phát triển các công tác liên quan đến tạo mẫu và ứng dụng trong thực tiễn ở các cơ sở kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ làng nghề; những chính sách về khen thưởng, tôn vinh ý tưởng sáng tạo, về bản quyền tác giả, v.v... Những công việc trên đây, có phần do cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện, song cũng có nhiều công việc mà cơ quan nhà nước có thể ủy nhiệm cho các tổ chức hội, hiệp hội ngành nghề thực hiện. Thực tế cho thấy, có nhiều việc do các hội, hiệp hội thực hiện thường đạt hiệu quả cao hơn nhà nước thực hiện, do thu hút được sự tham gia của đông đảo những nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, do đó có sự giám sát chặt chẽ, tránh được tham nhũng, lãng phí, thất thoát.

CGCC. Vũ Quốc Tuấn

Chủ tịch Hội đồng Tư vấn

Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

PV

Tin liên quan

Quy định xét công nhận nghề truyền thống, làng nghề và làng nghề truyền thống

Quy định xét công nhận nghề truyền thống, làng nghề và làng nghề truyền thống

LNV - Trong Nghị định 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ ban hành về các quy định về phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó đã nêu rõ về tiêu chí, hồ sơ, trình tự để được xét công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống.
Sản phẩm làng nghề cần chú trọng sản xuất theo thị hiếu của người tiêu dùng

Sản phẩm làng nghề cần chú trọng sản xuất theo thị hiếu của người tiêu dùng

LNV - Hiện nay, cả nước có hơn 5.400 làng nghề và làng có nghề, thu hút hơn 13 triệu lao động, mang lại giá trị xuất khẩu hơn 1,7 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, việc chưa coi trọng đầu tư khâu thiết kế mẫu mã khiến sản phẩm thủ công chưa đổi mới nhiều. Để nâng cao vị thế cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ cần quan tâm hơn đến thị hiếu của người tiêu dùng.
Hoài Đức: Người dân làng nghề vẫn "sống chung" ô nhiễm môi trường

Hoài Đức: Người dân làng nghề vẫn "sống chung" ô nhiễm môi trường

LNV - Nhiều năm trở lại đây, người dân ở một số xã có làng nghề của huyện Hoài Đức vẫn phải "sống chung" với ô nhiễm môi trường. Thực tế, các cấp chính quyền đã đầu tư kinh phí xây dựng nhà máy xử lý nước thải, nhưng do sản xuất làng nghề nhỏ lẻ, một bộ phận người dân thiếu ý thức chấp hành quy định pháp luật về môi trường nên hành vi xả rác, nước thải chưa qua xử lý vẫn diễn ra hằng ngày...

Tin mới hơn

Làng nghề Việt Nam - Sản xuất sạch hơn và tiết kiệm năng lượng hướng tới phát triển bền vững

Làng nghề Việt Nam - Sản xuất sạch hơn và tiết kiệm năng lượng hướng tới phát triển bền vững

LNV - Các biện pháp nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu chất thải phát sinh trong các hoạt động tại làng nghề là hướng đi cần thiết và hướng tới phát triển bền vũng các làng nghề
Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN) Việt Nam đang đứng trước rất nhiều cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức đặt ra. Trong những thách thức là vấn đề mẫu sản phẩm TCMN sao có được vẻ đẹp hấp dẫn, được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng… thu hút thị trường, tạo ra giá trị kinh tế lớn và giá trị mỹ thuật, văn hóa… đây là vấn đề quan trọng quyết định chất lượng sản phẩm TCMN.
Nghệ nhân giữ gìn “hồn cốt” của một làng nghề

Nghệ nhân giữ gìn “hồn cốt” của một làng nghề

LNV - Trong những làng nghề điêu khắc gỗ, Dư Dụ được biết đến là nơi có nghệ thuật điêu khắc gỗ tinh xảo bậc nhất cùng nhiều người thợ có tay nghề điêu luyện. Một trong số đó không thể không nói đến ông Trần Văn Vĩnh – một nghệ nhân điêu khắc có hơn 35 năm kinh nghiệm và đã từng tạo ra hàng trăm tác phẩm độc đáo.
Vai trò của tiết kiệm năng lượng, sản xuất sạch hơn và sử dụng năng lượng thay thế để giảm chi phí sản xuất, cái thiện môi trường làng nghề

Vai trò của tiết kiệm năng lượng, sản xuất sạch hơn và sử dụng năng lượng thay thế để giảm chi phí sản xuất, cái thiện môi trường làng nghề

LNV - Tiết kiệm năng lượng, sản xuất sạch hơn và sử dụng năng lượng thay thế là một cách tiếp cận làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại nguồn thông qua việc sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm, hiệu quả, đồng thời giúp cho các cơ sở sản xuất ở làng nghề cắt giảm được chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, hoàn thiện quy trình sản xuất, giảm bớt chi phí xử lý môi trường đảm bảo cho làng nghề phát triển bền vững.
Vấn đề tiết kiệm năng lượng tại các làng nghề

Vấn đề tiết kiệm năng lượng tại các làng nghề

LNV - Hiện nay tiết kiệm năng lượng đang là vấn đề rất lớn mà cả xã hội đang quan tâm thực hiện.
Thực trạng mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ hiện nay

Thực trạng mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ hiện nay

LNV - Bước vào thời kỳ hội nhập, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của chúng ta phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm cùng loại của các nước cũng như cạnh tranh trong nội bộ trong nước về chất lượng, giá thành, đặc biệt là về mẫu mã sản phẩm. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế, văn hóa, đời sống xã hội, thị hiếu của khách hàng luôn thay đổi, ngày càng đòi hỏi các nhà thiết kế, các doanh nghiệp làng nghề phải không ngừng sáng tạo những sản phẩm mới có kiểu dáng đẹp, vừa có công năng đáp ứng thị hiếu của khách hàng thì mới có thể tiêu thụ được sản phẩm. Chính vì vậy những năm gần đây việc thiết kế, cải tiến mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ luôn được các nhà thiết kế, các nghệ nhân, các doanh nghiệp làng nghề quan tâm.

Tin khác

Các doanh nghiệp, cở sở sản xuất Làng nghề:  Ứng dụng công nghệ thông tin -  Giành nhiều lợi thế trên thị  trường

Các doanh nghiệp, cở sở sản xuất Làng nghề: Ứng dụng công nghệ thông tin - Giành nhiều lợi thế trên thị trường

LNV - Trong những năm gần đây, các làng nghề, làng nghề truyền thống, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên cả nước được khôi phục và phát triển, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn nước ta. Tuy nhiên, các làng nghề, làng nghề truyền thống, doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất hiện đang gặp không ít khó khăn về vấn đề đầu ra cho sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm chất lượng cao. Một số làng nghề hoạt động thiếu tính quy mô sản xuất, số hộ gia đình làm nghề có chiều hướng bị thu hẹp, thậm chí có làng nghề dường như ngừng hoạt động do khó khăn về đầu ra cho sản phẩm…
Xây dựng thương hiệu OCOP - Nâng cao giá trị sản phẩm truyền thống

Xây dựng thương hiệu OCOP - Nâng cao giá trị sản phẩm truyền thống

LNV - Sau thời gian thực hiện Chương trình OCOP “Mỗi xã một sản phẩm”, đến nay các địa phương đều lựa chọn phát triển sản phẩm và xây dựng thương hiệu sản phẩm theo lợi thế từng vùng nguyên liệu gắn với sản phẩm nông, lâm, thủy sản chất lượng cao, vừa hiện đại vừa truyền thống.
Nên lấy ngày 20 tháng 2 hằng năm  là “Ngày Làng nghề Việt Nam”

Nên lấy ngày 20 tháng 2 hằng năm là “Ngày Làng nghề Việt Nam”

LNV - Hiện nay, Thường trực Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã có Kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc lấy ngày 20-2 hằng năm là “Ngày Làng Nghề Việt Nam”. Với tư cách là người chủ trì sáng lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam (thành lập năm 2005), đã qua hai nhiệm kỳ là Chủ tịch Ban Chấp hành và nay là Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, xin góp một số ý kiến như sau.
Định hướng phát triển ngành hàng thủ công mỹ nghệ trong giai đoạn hiện nay

Định hướng phát triển ngành hàng thủ công mỹ nghệ trong giai đoạn hiện nay

LNV - Trong những năm gần đây, hàng thủ công mỹ nghệ luôn nằm trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam với rất nhiều sản phẩm đa dạng, có giá trị gia tăng cao, biên độ lợi nhuận lớn hơn so với nhiều mặt hàng xuất khẩu khác.
Tạo mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Tạo mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm hàng hóa đặc trưng của các làng nghề Việt Nam, có giá trị to lớn cung ứng cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tạo mẫu cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đang là một yêu cầu hàng đầu dể nâng cao giá trị sản phẩm và sức cạnh tranh của mỗi làng nghề nước ta.
Trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí

Trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí

LNV - Đã từ lâu, công tác phòng chống tham nhũng tiêu cực được Đảng ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, cấp bách trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa.
Các làng nghề, doanh nghiệp, người dân: Ứng dụng khoa học công nghệ - Sản phẩm nông nghiệp sẽ đột phá, lan toả đến bạn bè thế giới

Các làng nghề, doanh nghiệp, người dân: Ứng dụng khoa học công nghệ - Sản phẩm nông nghiệp sẽ đột phá, lan toả đến bạn bè thế giới

LNV - Theo tìm hiểu của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) và Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE) cho thấy, lâu nay nông sản Việt Nam vẫn còn chưa quen với việc xúc tiến thương mại ra thế giới, dường như vẫn chờ đợi người mua đến tại địa phương mua, vì vậy giá bán sẽ không cao…Các Làng nghề, doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX), các hộ nông dân cần có chiến lược nghiên cứu thị trường, điều chỉnh sản phẩm theo thị hiếu người tiêu dùng nước ngoài, mẫu mã đóng gói sản phẩm, bao bì theo quy cách của quốc tế…
Quảng Trị: Phát huy vai trò HTX nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới

Quảng Trị: Phát huy vai trò HTX nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới

LNV - Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đối với Quảng Trị điều đó càng thể hiện rất rõ, bởi lẽ kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp hầu hết gắn liền với ngành sản xuất vật chất chủ yếu và đóng góp kim ngạch xuất khẩu quan trọng cho tỉnh. Với gần 72% dân cư sống ở nông thôn và 60% lao động làm nông nghiệp, nông dân là thành viên nòng cốt của các hợp tác xã (HTX), có vị trí hết sức quan trọng về phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, an ninh- quốc phòng và tham gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững.
Gắn nông nghiệp với phát triển du lịch làng nghề

Gắn nông nghiệp với phát triển du lịch làng nghề

LNV - Hà Nội là mảnh đất trăm nghề, do đó, cần có chính sách về đào tạo, phát triển, bảo tồn những làng nghề thủ công truyền thống, để phát triển mạnh du lịch nông nghiệp trải nghiệm; đồng thời cần nâng dần quy mô, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp.
Giải pháp nâng cao quản lý Nhà nước về làng nghề ở tỉnh Đồng Tháp

Giải pháp nâng cao quản lý Nhà nước về làng nghề ở tỉnh Đồng Tháp

LNV - Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Đồng Tháp, Trường Chính trị tỉnh, Sở Khoa học – Công nghệ và môi trường tỉnh Đồng Tháp vừa tổ chức Hội thảo một số giải pháp về quản lý Nhà nước về các làng nghề trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Đồng Tháp tỉnh có nhiều nét văn hóa đặc trưng của các làng nghề được du khách quan tâm khám phá, đánh giá cao. Hiện nay, tại Đồng Tháp có 39 làng nghề được UBND tỉnh công nhận, trong đó có nhiều làng nghề đã trở thành tiêu điểm chú ý gắn với hoạt động du lịch, thu hút du khách.
Luật sử dụng năng lương tiết kiệm hiệu quả và các chính sách tác động đến làng nghề Việt Nam

Luật sử dụng năng lương tiết kiệm hiệu quả và các chính sách tác động đến làng nghề Việt Nam

LNV - Các chính sách và luật sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả đã giúp làng nghề Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng mới và tái tạo; giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng truyền thống, tăng cường sử dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng và đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực năng lượng; tăng năng suất lao động, giúp giảm thiểu ô nhiễm, tối ưu hóa sử dụng năng lượng và giảm chi phí. Bên cạnh đó có những tác động tiêu cực đến làng nghề như: Thay đổi cách thức sản xuất truyền thống của các làng nghề, có thể mất thị phần và không còn cạnh tranh được trên thị trường; giảm nhu cầu về lao động, việc thay đổi cách sản xuất có thể ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa truyền thống, thay đổi kỹ thuật sản xuất; chi phí đầu tư năng lượng tăng cao, xử lý môi trường.
Bảo tồn và phát triển nghề kim hoàn

Bảo tồn và phát triển nghề kim hoàn

LNV - Nghề kim hoàn là một trong những nghề truyền thống lâu đời của Thăng Long - Hà Nội, do người làng Châu Khê (Hải Dương) lên Thăng Long lập nghiệp, tạo phố Hàng Bạc từ thế kỷ XVI. Trải qua 5 thế kỷ, đến nay, phố Hàng Bạc vẫn luôn là trung tâm buôn bán vàng bạc lớn của Thủ đô.
Cần có sáng tạo đột phá cho sản phẩm Làng nghề

Cần có sáng tạo đột phá cho sản phẩm Làng nghề

LNV - Theo số liệu tổng hợp của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, tính đến nay, cả nước có hơn 5.000 làng nghề, tập trung nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng với khoảng 1.500 làng, trong đó khoảng 300 làng đã được công nhận là làng nghề truyền thống.
Thực trạng giai cấp nông dân  hiện nay và một số vấn đề đặt ra

Thực trạng giai cấp nông dân hiện nay và một số vấn đề đặt ra

LNV - Để đánh giá về thực trạng chất lượng của giai cấp Nông dân Việt Nam hiện nay, bài viết tập trung phân tích thực trạng về trình độ học vấn, tay nghề; về tính tích cực chính trị; đời sống văn hoá, lối sống của người nông dân.
Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII  Đột phá vị thế kinh tế tư nhân

Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII Đột phá vị thế kinh tế tư nhân

LNV - Từ những năm công cuộc Đổi Mới được triển khai đến nay, vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân, trong đó có kinh tế làng nghề luôn là một vấn đề then chốt được đặc biệt quan tâm trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường nước ta.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
qc-trang-trai-sinh-thai-vinamilk-green-farm
Mới nhất Đọc nhiều
Chú trọng HTX làm OCOP để tạo sức bật xây dựng nông thôn mới

Chú trọng HTX làm OCOP để tạo sức bật xây dựng nông thôn mới

OVN - Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đang được nhiều HTX thực hiện khá tốt, nhiều sản phẩm được công nhận đạt từ 3, 4 và cả 5 sao. Tuy nhiên, nhiều HTX luôn đau đáu với việc làm sao để phát triển bền vững, có thể đưa sản phẩm OCOP vào các hệ thống phân phối hiện đại nhiều hơn.
Phục dựng các mẫu đèn Trung thu cổ đã bị thất truyền

Phục dựng các mẫu đèn Trung thu cổ đã bị thất truyền

LNV - Trong dịp lễ Tết Trung thu năm nay, tại Khu di sản Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, du khách sẽ được tham quan không gian trưng bày các loại đèn trung thu cổ truyền dưới hình thức là các gian hàng trên phố cổ xưa.
Hà Nội tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các làng nghề

Hà Nội tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các làng nghề

LNV - Thành phố Hà Nội thực hiện kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp, cơ sở hoạt động sản xuất, làng nghề nhằm hạn chế tối đa nguy cơ xảy ra sự cố đặc biệt gây ô nhiễm môi trường.
Quy định xét công nhận nghề truyền thống, làng nghề và làng nghề truyền thống

Quy định xét công nhận nghề truyền thống, làng nghề và làng nghề truyền thống

LNV - Trong Nghị định 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ ban hành về các quy định về phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó đã nêu rõ về tiêu chí, hồ sơ, trình tự để được xét công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống.
Đắk Lắk: Kết nối giao thương, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông sản

Đắk Lắk: Kết nối giao thương, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông sản

LNV - Ngày 8/9, Sở Công Thương tỉnh Đắk Lắk tổ chức Hội nghị kết nối giao thương giữa nhà cung cấp các sản phẩm nông sản với doanh nghiệp phân phối, tiêu thụ xuất khẩu năm 2023.
qc-fruit-love
qc-viglacera
qc-ao-dai
qc-brg-hapro
qc-vinfast
qc-vietmake
qc-vfresh
qc-bidv
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
qc-cse
qc-vinfast-thue-pin
Giao diện di động