Hà Nội: 31°C Hà Nội
Đà Nẵng: 28°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 31°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 27°C Thừa Thiên Huế

Phát huy văn hóa Phật giáo trong Làng nghề

LNV - Ngày 10 tháng 11 năm 2020 vừa qua, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu tôn giáo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức Hội thảo “Phát huy tinh thần và biểu tượng Phật giáo qua sản phẩm làng nghề truyền thống Việt Nam”. Cuộc Hội thảo này đã gợi ra cho làng nghề chúng ta những suy nghĩ sâu hơn về vấn đề phát huy văn hóa Phật giáo trong làng nghề; đồng thời, nếu liên hệ với những nội dung liên quan được đề cập trong các Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, lại càng thấy đây là một chủ đề quan trọng rất cần được quan tâm để phát triển bền vững các làng nghề.
NHỮNG GIÁ TRỊ CAO ĐẸP CỦA VĂN HÓA PHẬT GIÁO

Phật giáo du nhập vào nước ta từ trên 2.000 năm nay. Với triết lý đạo đức, nhân sinh sâu sắc, tính chất từ bi, hỷ xả, bao dung, độ lượng, vừa là tôn giáo, vừa là hệ tư tưởng, vừa là văn hóa phù hợp với tâm linh người Việt Nam, Phật giáo đã thấm sâu vào đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta và tác động sâu rộng trong các mặt hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, có những đóng góp to lớn vào khối đại đoàn kết dân tộc trong những năm chiến tranh giành độc lập cho Tổ quốc cũng như trong hòa bình, phát triển đất nước ngày nay.

Điều đặc sắc cần ghi nhận là ở nước ta, ngay từ buổi ban đầu, đã có sự hòa quyện giữa Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo, thường được gọi là “Tam giáo đồng nguyên” (cả ba tôn giáo có cùng một gốc, một mục đích). Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. mục tiêu cuối cùng của các đạo này cũng là xây dựng con người tu nhân tích đức, thương nước, yêu nòi, đem lại hạnh phúc cho cộng đồng, cùng góp phần hình thành bản sắc văn hóa độc đáo của Việt Nam.


Từ đục tách một khối gỗ để ra một pho tượng là quá trình sáng tạo rất bền bỉ.


Theo các nhà nghiên cứu, thực chất của đạo Phật là học thuyết về nỗi khổ, nguyên nhân nỗi khổ, việc chấm dứt và sự giải thoát nỗi khổ. Đức Phật từng nói: “Ta chỉ dạy một điều: Khổ và khổ diệt”. Cốt lõi của học thuyết này là “Tứ diệu đế” (bốn chân lý kỳ diệu), đó là: (i) “Khổ đế” là chân lý về bản chất của nỗi khổ; là trạng thái buồn phiền phổ biến ở con người do sinh, lão, bệnh, tử, do mọi nguyện vọng không được thỏa mãn; (ii) “Nhân đế”, đó là nguyên nhân của nỗi khổ, do ham muốn và kém sáng suốt. Ham muốn (dục vọng) thể hiện thành hành động, hành động xấu khiến con người phải nhận hậu quả (nghiệp báo, luân hồi); (iii) “Diệt đế” là chân lý về diệt khổ; nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây ra khổ bị loại trừ; đó là sự giác ngộ và giải thoát; (iv) “Đạo đế” là con đường diệt khổ; tức là rèn luyện đạo đức, tư tưởng và khai sáng trí tuệ. Như vậy, triết lý cơ bản của Phật giáo nhằm vào giác ngộ con người, giải phóng con người, gắn Đạo với Đời, giúp con người loại bỏ “tham, sân, si”, luôn “từ bi, hỷ xả”, tu nhân tích đức, làm điều thiện, điều lành, hướng con người tới ứng xử nhân văn, cao đẹp, đấu tranh cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của mỗi con người. Với tư tưởng, triết lý cao đẹp ấy, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, trở thành một bộ phận quan trọng trong đời sống tâm linh của nhân dân ta.

Trong lịch sử Phật giáo nước ta, Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) là một biểu tượng rất đáng tự hào. Sau hai lần đánh thắng đội quân xâm lược hùng mạnh Nguyên Mông, Người đã tự nguyện rời bỏ ngai vàng, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm (khoảng 1293-1294) để củng cố ý thức dân tộc, duy trì trật tự xã hội, được coi là môn phái Phật giáo mang bản sắc Việt Nam và tinh thần nhập thế.
Thiền phái Trúc Lâm khuyến khích con người hướng thiện bằng phục vụ nhân tâm, nhân quần xã hội, đề cao ý thức sống vì đời, hòa nhập với đời, để lại cho chúng ta bài học quý giá về các phương thức “yên lòng người, khoan sức dân, khơi dậy truyền thống, dùng tín ngưỡng làm đòn bẩy nâng cao tinh thần tự lực, tự cường của toàn dân tộc”, như nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích. Cũng theo các nhà nghiên cứu, thực tiễn đã chứng minh và khẳng định do có tư tưởng của đạo Phật, mà các vị vua Trần là những phật tử thuần thành, đồng thời cũng là những thiền sư, đã sống và điều hành đất nước bằng tinh thần Phật giáo, nhờ vậy đã hội tụ được những tướng sĩ tài ba thao lược kết hợp với tinh thần yêu nước của nhân dân đã đem lại những thắng lợi vẻ vang của dân tộc trong chống ngoại xâm.
Cũng xin nói thêm: nếu như Phật giáo khuyên người ta làm điều tốt, tránh điều xấu và răn đe bằng thuyết quả báo, luân hồi, cũng tức là đề cao “đức trị”, thì trong quản lý xã hội hiện đại, cần đồng thời đề cao “pháp trị”, tức là quản lý xã hội bằng pháp luật, dùng pháp luật để trừng trị kẻ làm việc xấu theo nguyên tắc “pháp luật tối thượng” với một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và việc thực thi nghiêm minh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không tổ chức hoặc cá nhân nào được đứng ngoài hoặc đứng trên pháp luật.


Về văn hóa Phật giáo, theo các nhà nghiên cứu, có thể nêu lên một số đặc điểm sau đây: (i) Phật giáo vừa là tôn giáo, vừa là hệ tư tưởng và vừa là văn hóa; triết lý Phật giáo trở thành một thứ đạo đức học “từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn”; “tu thân, tích đức ở kiếp này để an vui, hưởng phúc ở kiếp sau”; (ii) Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã được bản địa hóa, hòa quyện với tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo khác, cùng với văn hóa bản địa kiến tạo nên một nền văn hóa mang đậm bản sắc Việt Nam; (iii) Văn hóa, đạo đức của Phật giáo góp phần làm nảy sinh và cổ vũ tình yêu thương đồng loại, khuyến khích mỗi người quan tâm nhiều hơn đến hạnh phúc của người khác, trong phạm vi gia đình và rộng ra là cộng đồng dân tộc; triết lý từ bi và trí tuệ trong Phật giáo giúp cho tâm hồn mỗi người nguồn an lạc và hạnh phúc, kết nối lòng người và đoàn kết xã hội; (iv) Đạo Phật đem lại cho nhân dân ta một trong những giá trị tinh thần quý báu nhất, đó là niềm tin ở con người: ở lý trí của con người biết phán xét phải trái, ở trái tim của con người biết yêu thương đồng loại, ở ý chí của con người vươn tới cái thiện; đức tin đó củng cố tinh thần độc lập, tự cường của người Việt Nam, không chịu khuất phục cường quyền, sẵn sáng hy sinh cho nền độc lập, tự chủ của đất nước, vì chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.

Có thể khẳng định: văn hóa Phật giáo đã bắt rễ sâu vào văn hóa dân tộc và có vai trò to lớn trong việc liên kết lòng người, đoàn kết quốc gia, chống lại âm mưu đồng hóa văn hóa của bọn phong kiến phương Bắc trong hơn nghìn năm đô hộ nước ta, đóng góp xứng đáng vào kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Phật giáo không chỉ là tôn giáo mà còn được coi là lối sống, đạo đức, “thứ năng lượng nuôi sống tâm hồn con người”, khẳng định khả năng con người dựa trên nghị lực của bản thân để đạt tới chân lý và giác ngộ. Theo tinh thần ấy, các làng nghề cần quan tâm phát huy hơn nữa vai trò của tôn giáo đã được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG VĂN HÓA LÀNG NGHỀ

Từ nhiều năm nay, làng nghề nước ta đã bảo tồn, kế thừa văn hóa dân tộc; đồng thời, đã thể hiện nhuần nhuyễn văn hóa Phật giáo trong hoạt động của mỗi làng, mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh, mỗi sản phẩm cũng như của mỗi nghệ nhân, mỗi doanh nhân. Có thể nói: nếu như khẳng định văn hóa Phật giáo đã thấm sâu vào văn hóa Việt Nam, trở thành văn hóa dân tộc, thì khi nói đến văn hóa làng nghề cũng tức là đã đề cập văn hóa Phật giáo – một nội dung cốt lõi của văn hóa làng nghề. Xin chia sẻ một số cảm nhận sau đây.

Trước hết, văn hóa làng nghề tiếp nối truyền thống làng xã trong lịch sử: (i) truyền thống tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn trong quá trình bảo vệ, giữ nước và xây dựng nước; (ii) truyền thống cố kết dân tộc, đoàn kết xóm làng, ý thức tự quản trong mỗi làng và ý thức công dân trong mỗi người dân; (iii) phát huy văn hóa dân tộc, xây dựng làng nghề truyền thống thành “làng nghề văn hóa”. Điều này cũng chính là truyền thống “nhập thế, đồng hành cùng dân tộc”, tính chất “khai sáng” của Phật giáo.

Làng nghề nước ta đã phát huy truyền thống văn hóa dân tộc; đồng thời, khơi nguồn sáng tạo, làm ra những sản phẩm có chất lượng cao cả về mỹ thuật và kỹ thuật, một số đã được công nhận là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, báu vật quốc gia. Làng nghề mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho cư dân nông thôn, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng của sản phẩm hàng hóa làng nghề, bảo đảm cho thu nhập của cư dân làng nghề cao hơn hẳn các làng thuần nông, có đời sống ấm no, hạnh phúc; đặc biệt là trong các làng nghề truyền thống, hầu như không có tệ nạn xã hội, có thể coi là một nét nổi bật trong hình thành “văn hóa làng nghề”, góp phần quan trọng xây dựng nông thôn mới. Đó cũng là thực hành triết lý “cứu khổ, cứu nạn”, “từ bi”, “nêu cao tình thương, tạo hạnh phúc, trừ đau khổ”, triết lý nhân sinh “tu nhân tích đức, làm điều thiện, điều lành, hướng con người tới ứng xử nhân văn, cao đẹp” của Phật giáo.

Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, cạnh tranh được coi là động lực của phát triển, nhưng văn hóa làng nghề chủ trương cạnh tranh lành mạnh, đề cao văn hóa kinh doanh, chấp hành đúng đắn pháp luật, xây dựng và bảo vệ thương hiệu, không dung dưỡng loại hàng giả, hàng rởm, lấy việc nâng cao chất lượng của sản phẩm làm thế mạnh của mỗi sản phẩm, mỗi làng nghề. Văn hóa làng nghề chủ trương liên kết, liên doanh giữa các cơ sở sản xuất, tạo nên nhiều giá trị mới qua kinh doanh theo chuỗi giá trị. Đó cũng là triết lý “yêu thương đồng loại”, “hỷ, xả”, tạo niềm vui cho mình và cho người khác, hân hoan trước thành công của người khác, “không ghen tỵ, chê bai” của đạo Phật.

Văn hóa làng nghề đặt con người ở vị trí trung tâm của phát triển, coi trọng phát huy mọi tài năng, trí tuệ của con người, đặc biệt quan tâm bảo vệ và phát huy nghệ nhân và doanh nhân, khuyến khích những người này phát huy tài năng, phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu cho gia đình và cho đất nước. Đó cũng là thể hiện đạo đức “vô ngã, vị tha”, triết lý “đức tin” của Phật giáo, tin ở con người, đề cao tình thương và trách nhiệm của con người trước cộng đồng trong quá trình xây dựng một xã hội tốt đẹp. Trong làng nghề, nhiều người tu dưỡng theo Đạo Phật, một số ngồi thiền mỗi ngày, coi đây là một phương pháp giúp giải tỏa căng thẳng và tìm được sự bình an sâu thẳm, tĩnh tại trong tâm hồn. Họ chăm rèn luyện đạo đức (giới), tư tưởng (định) và khai sáng trí tuệ (tuệ) để tự giải thoát khỏi ”tham, sân, si”; theo quan niệm ai cũng có thể trở thành Phật nếu người đó nhận thức đúng đắn bản ngã và thế giới xung quanh, do đó vượt qua sự “vô minh”, được giải thoát và trở thành Phật; như chính đức Phật cũng đã khẳng định: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng coi nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực lãnh đạo và quản lý là một trong “ba đột phá”, thì trong làng nghề chúng ta, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nhân lực lại càng cần được quan tâm hơn nữa, bảo đảm cho làng nghề tiếp tục phát triển ngày càng bền vững.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Xã Hưng Đạo (TP Hà Nội): Tự lực tự cường khắc phục khó khăn trong chuyển đổi chính quyền hai cấp

Xã Hưng Đạo (TP Hà Nội): Tự lực tự cường khắc phục khó khăn trong chuyển đổi chính quyền hai cấp

LNV - Xã Hưng Đạo nằm ở phía Tây Nam thủ đô Hà Nội. Hưng Đạo được sáp nhập từ diện tích và dân số 5 xã thuộc huyện Quốc Oai (cũ) bao gồm: Đồng Quang, Tân Phú, Đại Thành, Tân Hòa, Cộng Hòa. Hiện Hưng Đạo có diện tích 24,90km2; Dân số 49.357 người.
Kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo an toàn thực phẩm Tết Trung thu 2025

Kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo an toàn thực phẩm Tết Trung thu 2025

LNV - Trong dịp Tết Trung thu năm nay, lực lượng Quản lý thị trường Hà Nội đồng loạt ra quân kiểm tra, kiểm soát thị trường, đặc biệt là các cơ sở sản xuất, kinh doanh bánh trung thu. Chỉ sau ít ngày triển khai, nhiều vụ việc vi phạm đã bị phát hiện, góp
Thanh Hóa thúc đẩy bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Thanh Hóa thúc đẩy bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Thanh Hóa từ lâu đã nổi tiếng với nhiều làng nghề gắn bó mật thiết với đời sống, văn hóa và lịch sử. Trước thách thức của cơ chế thị trường, các làng nghề nơi đây đang khoác lên mình sức sống mới, vừa bảo tồn bản sắc, vừa tìm đường phát triển bền vữ
Sắp diễn ra Tuần Văn hóa – Du lịch Lai Châu năm 2025

Sắp diễn ra Tuần Văn hóa – Du lịch Lai Châu năm 2025

LNV - Ngày 17/9, Ban Tổ chức Tuần Du lịch - Văn hóa Lai Châu năm 2025 tổ chức họp dưới sự chủ trì của đồng chí Tống Thanh Hải - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng Ban Tổ chức Tuần Du lịch - Văn hóa Lai Châu năm 2025.
Phát huy tiềm năng trong xây dựng nông thôn mới ở một số tỉnh Tây Bắc

Phát huy tiềm năng trong xây dựng nông thôn mới ở một số tỉnh Tây Bắc

LNV - Ngày 17/8, tại tỉnh Điện Biên, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Tỉnh ủy Điện Biên tổ chức hội thảo khoa học “Xây dựng nông thôn mới ở một số tỉnh Tây Bắc hiện nay”.
Giao diện di động