Hà Nội: 33°C Hà Nội
Đà Nẵng: 30°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 29°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 31°C Thừa Thiên Huế

Nón lá - một ký hiệu của văn hóa Việt

LNV - Từ bao đời nay người Việt đã biết ứng xử với nắng mưa qua chiếc nón đội đầu, nên mới có câu ca dao: “Nón mua một đồng mốt, tốt tựa như rồng / Sao em không mua mà đội để má hồng nắng ăn”. Trong đó, chiếc nón lá trải qua bao đời được xem như một ký hiệu đặc biệt của văn hóa nước ta…
“Sinh sống trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa nhiều, người Việt đã biết tận dụng những nguyên liệu dễ kiếm từ thiên nhiên để làm ra những chiếc nón che đầu từ rất sớm. Nhờ vào nguồn nguyên liệu phong phú mà nón của người Việt cũng hết sức đa dạng: nón được lợp từ lá của các cây họ cọ như lá kè, lá gồi, lá lụi hoặc lá buông, lá dứa, lá dừa... Những chiếc nón được đan từ sợi rơm, nan giang, được ghép từ cật tre cũng được gọi chung là nón lá. Những nguyên liệu ấy có sẵn ở cả ba miền đất nước, thế nên ở đâu cũng có những vùng, những nghề làm nón nổi tiếng: nón thúng xứ Nghệ, nón ngựa Bình Ðịnh, nón bài thơ xứ Huế, nón Thanh Oai - Hà Nội...”(1).


Nón lá gắn với sự cần mẫn và chịu thương chịu khó của người phụ nữ nông thôn. Ảnh: DUY KHÔI


Như vậy, chiếc nón lá là sự sáng tạo của người dân lao động trong việc tận dụng môi trường thiên nhiên để tạo ra vật đội trên đầu, góp phần bảo vệ sức khỏe, ứng phó lại với thời tiết, với thiên nhiên khắc nghiệt. Chiếc nón lá tuy đơn sơ, giản dị nhưng đã giúp bao người che nắng, che mưa; đồng thời, hình ảnh chiếc nón lá còn thể hiện nét văn hóa của cư dân nông nghiệp, góp phần tô điểm thêm sự dịu dàng, duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam.

Theo các nguồn sử liệu, từ thời Trần, ở làng Ma Lôi, thuộc lộ Hồng Châu (Hải Hưng và Hải Phòng) đã làm ra một loại nón gọi là Ma Lôi. Ðến thời Lê Mạt, người ta chọn thứ lá nhỏ để làm nón và trong buổi sơ khai, chiếc nón lá đã có nhiều kiểu, dành cho nhiều tầng lớp người khác nhau, từ giàu sang đến kẻ nghèo, từ quan trên đến người hầu hạ. Ðến thế kỷ thứ XIX, chiếc nón lá đã thật sự định hình, thể hiện được sự duyên dáng, thanh lịch của người đội. Cũng trong giai đoạn này, các địa phương khác nhau: Cao Bằng, Thanh Hóa, Huế… đã tạo được những kiểu dáng riêng, đặc trưng cho nón lá của quê mình, góp phần làm nên sự đa dạng của nón lá Việt Nam.

“Có lẽ Chu Khứ Phi là người đầu tiên đề cập đến chiếc nón Việt. Ðó là đoạn miêu tả về chiếc “loa lạp” (nón hình ốc) của người Việt trong “Lĩnh Ngoại đại đáp” năm 1178. Sau đó, năm 1307, Mã Ðoan Lâm dựa theo Chu Khứ Phi, miêu tả lại trong “Văn hiến thông khảo” như sau: nón hình xoắn ốc, hình dáng của nó giống như những con ốc... được làm rất khéo từ lạt tre mỏng. [...] Hình ảnh sớm nhất về nón lá của người Việt được ghi nhận là trong bức họa “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” của Trần Giám Như vào khoảng năm 1363. Trong bức họa này, có thể thấy rõ hai người đàn ông đội hai chiếc nón có hình dáng khác nhau: người thứ nhất đội chiếc nón vành xòe rộng, bên trên có cái chũm nhô cao. Người đàn ông thứ hai đội chiếc nón cũng rộng vành nhưng chớp nhọn..”(2).

Ở Nam Bộ, chiếc nón lá cũng được đề cập khá sớm. Nón lá cùng với các phục sức khác như quần áo, váy, búi tóc... đã từng là nét văn hóa đặc trưng của người dân xứ này. Ðiều này đã được Trịnh Hoài Ðức ghi lại trong “Gia Ðịnh thành thông chí” như sau: “Duy có người Việt ta noi theo tục cũ Giao Chỉ: người quan chức thì đội khăn cao sơn, mặc áo phi phong, mang giày bì đà, hạng sĩ thứ thì bới tóc, đi chân trần, con trai con gái đều mặc áo vắn tay bâu thẳng, may kín hai nách (…), đội nón lớn, hút điếu binh, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi dưới đất, không có bàn ghế”(3).

***

Có lẽ dáng hình của phụ nữ Việt Nam mảnh mai, thon thả, phù hợp với nón lá nên dần dà loại nón này đã phát triển rộng khắp cả nước, từ thành thị đến nông thôn, từ giới giàu sang đến người chân đất đều sử dụng như một vật trang sức cho riêng mình. Nếu như chiếc áo dài trở thành biểu tượng nhận diện của văn hóa Việt Nam, thì chiếc nón lá cũng có sức chinh phục riêng, tạo thành ký hiệu văn hóa đặc thù. Ở thành thị, chiếc nón lá thường đi kèm với trang phục áo dài, cả hai kết hợp lại, tạo nên cốt cách, dáng vẻ lịch thiệp, đài cát của người người phụ nữ Việt Nam. Ðặc biệt là các nữ sinh trong trang phục áo dài trắng, tóc cột đuôi gà hay chấm ngang vai, đội chiếc nón lá thanh tú, thong thả đạp từng vòng xe mỗi độ tan trường đã là hình ảnh đi vào thơ ca, nhạc họa.

Ở nông thôn, nhất là ở nông thôn Nam Bộ, hình ảnh chiếc nón lá, áo bà ba đã bao đời gắn liền với những con người tần tảo. Nón lá là bạn đồng hành của các cụ ông cụ bà, các thôn nữ… trong cuộc sống và lao động. Mỗi khi ra đồng, những khi cày cấy, chiếc nón lá được dùng để che nắng, che mưa, để quạt mát lúc nghỉ trưa bên cội cây già. Và đặc biệt, nón lá là hành trang của thôn nữ trong những buổi chợ đông hay dùng để đựng dăm ba củ khoai, củ sắn, mớ rau muống những lúc chợ chiều… tô đậm thêm nét dịu dàng, hiền hòa, chịu thương chịu khó của các cô gái nơi làng quê.

Bởi vậy, thật chí lý khi nói rằng: “Nón lá và ghe xuồng gần như trở thành những vật bất ly thân của người dân Tây Nam Bộ:

Thiếu nữ với áo bà ba và nón lá. Ảnh: DUY KHÔI


Nào khi anh dỗ chẳng nghe,

Bây giờ xách nón chèo ghe đi tìm.

Chiếc nón là phương tiện để bày tỏ tình thương yêu:

Anh thương em đưa nón đội đầu,

Về nhà ba má hỏi, đi qua cầu gió bay.

Và để lấy cớ giận hờn, thử thách:

Năm ngoái năm xưa em còn kha khá,

Năm nay nghèo quá nên đội nón lá

bung vành.

Ðứt quai nên nón tròng trành,

Hỏi anh xin cắc bạc mua nón lành

đội chơi”(4).

Tóm lại, nón lá ngoài chức năng che mưa che nắng, còn được bao thế hệ phụ nữ Việt Nam xem như trang sức, là một biểu tượng văn hóa góp phần hình thành nên vẻ đẹp thanh thoát, dịu dàng nhưng không kém phần ý vị. “Dẫu chỉ là một vật dụng đơn sơ nhưng trải hàng trăm năm gắn bó, chiếc nón lá được cả người làm ra nó và người đội gửi gắm biết bao tâm tư ước vọng. Từ để đội đầu, đơn giản để che mưa nắng, nó trở thành một ký hiệu văn hóa góp phần nhận diện bản sắc của cả một dân tộc”(5).

Ngày nay, người ta làm ra nhiều loại và nhiều kiểu nón, đặc biệt là loại nón bằng vải tiện dụng, gọn gàng, hợp thời trang, rất thịnh hành. Thế nhưng chiếc nón lá Việt Nam vẫn âm thầm tồn tại, phát triển và hầu như nhà nào cũng có chiếc nón lá được bà, được mẹ treo ở một góc để sử dụng hằng ngày khi đi chợ, đi xóm. Chiếc nón lá còn xuất hiện với nhiều hình thức đẹp mắt, thẩm mỹ và sáng tạo về kích cỡ, hoa văn chìm trong nón... ở hầu hết các điểm du lịch cả nước, theo chân du khách đi khắp thế giới...

--------------------

(1) Bùi Quang Thắng (2018), Nét cũ duyên xưa, Nxb Lao Động, tr.52.

(2) Bùi Quang Thắng , Sđd, tr.56-57.

(3) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo. Nha Văn Hóa - Phủ Quốc vụ khanh - Đặc trách văn hóa xuất bản năm 1972, quyển Hạ, Tr. 6.

(4) Trần Ngọc Thêm (Chủ biên), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Nxb Văn hóa văn nghệ, tr.478.

(5) Bùi Quang Thắng , Sđd, tr.54.

Theo Báo Cần Thơ

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

LNV - Thời gian qua, xã Chiêm Hóa (Tuyên Quang) đã có bước phát triển vượt bậc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thương mại – dịch vụ, tài chính – tín dụng, ứng dụng công nghệ số phát triển mạnh, góp phần nâng cao đời s
OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OVN - Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được xác định là một trong những giải pháp quan trọng giúp các địa phương phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng sẵn có, đồng thời xây dựng thương hiệu cho sản phẩm đặc trưng. Tại Phú Thọ, sau sáp nhập, tỉnh
Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

OVN - An Giang – vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc hùng vĩ của núi non, rừng tràm và những cánh đồng lúa bạt ngàn, mà còn lưu giữ trong mình kho tàng ẩm thực độc đáo. Giữa muôn vàn sản vật địa phương, nước mắm Huỳnh Khoa đư
Dấu ấn, thách thức và hướng đi mới trong xây dựng nông thôn mới ở Thanh Hóa

Dấu ấn, thách thức và hướng đi mới trong xây dựng nông thôn mới ở Thanh Hóa

LNV - Sau hơn một thập kỷ triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (XDNTM) và giảm nghèo bền vững, nông thôn Thanh Hóa đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, trở thành điểm sáng trong cả nước. Tuy nhiên, để tiến tới giai đoạn phát triển m
Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

LNV - Xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) – “thủ phủ” gốm sứ của cả nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới khi mô hình chính quyền địa phương hai cấp.
Giao diện di động