Hưng Yên: Xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề, phát triển du lịch
Trong đó, có những làng nghề đã tồn tại với lịch sử lâu đời, có làng nghề mới chỉ giữ nghề khoảng vài ba chục năm nay song hầu hết đều có tiềm năng trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách. Những làng nghề nổi tiếng của tỉnh Hưng Yên như: Hương xạ Cao Thôn (xã Bảo Khê, TP. Hưng Yên); Tương Bần (thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mỹ Hào); Trồng và chế biến dược liệu Nghĩa Trai (xã Tân Quang, huyện Văn Lâm); Nấu rượu Trương Xá (xã Toàn Thắng, huyện Kim Động); Làm đồ chơi Trung thu Ông Hảo (xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ); chạm bạc Huệ Lai (xã Phù Ủng, huyện Ân Thi)… Ngoài ra, tỉnh còn có khoảng 400 lễ hội trong năm với 1200 di tích, cụm di tích, trong đó có 161 di tích, cụm di tích quốc gia đưa Hưng Yên trở thành địa phương đứng thứ 3 toàn quốc về số lượng di tích, cụm di tích được xếp hạng quốc gia.
Tiềm năng lớn song du lịch của tỉnh Hưng Yên hiện chưa phát triển tương xứng. Tỉ trọng khách trong ngày chiếm gần 70% tổng lượng khách. Khách nội địa, chiếm hơn 90% lượng du khách, đến Hưng Yên chủ yếu với mục đích công tác, thương mại… Những năm gần đây khách du lịch tâm linh đến nhiều vào mùa lễ hội, tham dự các lễ hội truyền thống, lễ hội dân gian vùng Phố Hiến và một số hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí được tổ chức quy mô lớn tại Khu đô thị Ecopark (Văn Giang)... Nhưng thời gian lưu trú của khách ngắn, mức chi tiêu thấp. Lượng khách du lịch tham quan làng nghề chiếm tỷ lệ rất ít, chủ yếu là khách du lịch tâm linh thì ghé qua chứ chưa có mục đích ban đầu là đi du lịch làng nghề.
Sản phẩm du lịch của tỉnh Hưng Yên vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên sẵn có, ít được đầu tư nghiên cứu. Nguồn nhân lực cho du lịch địa phương còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Khách du lịch đến Hưng Yên còn thiếu thông tin và tuyến điểm khám phá. Các điểm di tích chỉ nửa ngày là khám phá hết, muốn đi vui chơi, mua sắm nhưng tìm mỏi mắt cũng không có được điểm đáp ứng nhu cầu du khách. Sản phẩm du lịch nghèo nàn. Không có gì để chơi, để trải nghiệm, tiêu tốn thời gian. Dịch vụ về đêm gần như không có hoạt động gì…
Theo Nghị quyết số 133/NQ-HĐND ngày 8/12/2017 của Hội đồng Nhân dân tỉnh Hưng Yên về Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hưng Yên đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 (Quy hoạch), một trong những hướng phát triển ưu tiên của tỉnh Hưng Yên là du lịch tâm linh và du lịch văn hóa (trong đó có du lịch làng nghề). Theo Quy hoạch, năm 2020, Hưng Yên đón khoảng 1,5 - 2 triệu lượt khách, trong đó có 25 - 30 nghìn lượt khách quốc tế. Về nguồn thu từ du lịch, phấn đấu đến năm 2020 đạt 1.300 - 2.000 tỉ đồng/năm. Đến năm 2025 đạt 3.100 - 4.000 tỉ đồng/năm...
Hiện nay, sản phẩm làng nghề của Hưng Yên chủ yếu là hàng hóa, chưa phải sản phẩm du lịch đúng nghĩa. Theo báo Hưng Yên điện tử ngày 10/1/2019: “Năm 2018, toàn tỉnh có 54 làng nghề hoạt động. Các làng nghề hoạt động theo từng nhóm nghề khác nhau, với hơn 11,3 nghìn cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm cho gần 33 nghìn lao động. Năm 2018, doanh thu của các làng nghề đạt trên 7,2 nghìn tỷ đồng. Một số làng nghề hoạt động hiệu quả như: Làng nghề hoa, cây cảnh Xuân Quan (Văn Giang); làng nghề mộc Thụy Lân, xã Thanh Long (Yên Mỹ); Làng nghề truyền thống đúc đồng Lộng Thượng, xã Đại Đồng (Văn Lâm)... Việc phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn đã khai thác tốt hạ tầng cơ sở, tận dụng được nguồn lao động, nguyên liệu tại chỗ của địa phương, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống người dân nông thôn”.
Doanh nghiệp làng nghề (DNLN) hình thành và phát triển trong các làng nghề. Những năm qua, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã khẳng định vai trò tích cực, quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập không nhỏ cho người dân. Bởi vậy DNLN có bước phát triển tiến bộ trở thành nhân tố nòng cốt thúc đẩy nhiều làng nghề đổi mới và phát triển mạnh.
Những năm gần đây, các DNLN đã đi đầu trong việc nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu thị trường và năng động đổi mới phương thức sản xuất, nhất là đưa máy móc, phương tiện kỹ thuật vào sản xuất tại các làng nghề. Nhờ vậy nhiều làng nghề không chỉ “hồi sinh” mà còn phát triển mạnh như một số làng nghề: chạm bạc Huệ Lai, xã Phù Ủng (Ân Thi); tương Bần, thị trấn Bần Yên Nhân (Mỹ Hào); đúc đồng Lộng Thượng, xã Đại Đồng, tái chế nhựa Minh Khai, thị trấn Như Quỳnh; dược liệu Nghĩa Trai, xã Tân Quang (Văn Lâm); mộc dân dụng, mỹ nghệ Thuỵ Lân, xã Thanh Long (Yên Mỹ)… Điển hình là các DNLN ở làng gốm sứ Xuân Quan đã tiên phong thay thế lò bầu đốt than bằng lò hộp nung gas, đồng thời chuyển từ sản xuất sản phẩm sứ phục vụ xây dựng sang gốm sứ mỹ nghệ phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Với hơn 20 doanh nghiệp và 1 HTX làm nòng cốt, làng nghề chạm bạc Huệ Lai (Ân Thi) đã phát triển năng động, sản phẩm có mẫu mã phong phú, phù hợp thị hiếu tạo được thương hiệu trên thị trường và được tiêu thụ 80% ở các tỉnh trong nam, ngoài bắc, Trung Quốc và Campuchia. Có thể khẳng định các DNLN đóng vai trò quan trọng tạo nên sự phát triển mới về chất, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng chủng loại, mẫu mã kiểu dáng sản phẩm cho các làng nghề. Các sản phẩm của DNLN trên địa bàn tỉnh khá đa dạng và đã có thị trường tại địa phương, trong nước và một phần xuất khẩu như: chế biến lương thực, thực phẩm; sửa chữa cơ khí, may da, thuộc da, chế biến gỗ, tái chế nhựa, đúc đồng, chì, nhôm; sản xuất kinh doanh vàng, bạc… Nhờ vậy, DNLN đã góp phần quan trọng đưa tổng giá trị sản xuất của các làng nghề vượt qua mốc 1 nghìn tỷ đồng, đóng góp gần 20% vào tổng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh. Trong quá trình phát triển công nghiệp nông thôn, DNLN luôn có vai trò quan trọng, góp phần khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên tại địa phương, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho dân cư khu vực nông thôn, thu hút vốn nhàn rỗi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Tuy nhiên do hoạt động sản xuất, kinh doanh gắn với làng nghề, các DNLN cũng đang phải vượt qua những khó khăn, tồn tại chung ở các làng nghề để phát triển. Trước hết, DNLN chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc siêu nhỏ tuy có tốc độ phát triển nhanh song điểm xuất phát thấp nên chiếm tỷ lệ nhỏ trong các hình thức sản xuất, kinh doanh tại làng nghề. Hiện nay các làng nghề, DNLN phát triển còn khá manh mún, sức cạnh tranh yếu bởi hàm lượng chất xám trong sản phẩm hàng hóa chưa cao, tính cạnh tranh kém, phần nhiều đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại địa phương.
Tồn tại lớn nhất là hầu hết DNLN có quy mô nhỏ, thiếu tiềm lực về tài chính, vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động ít. Thiếu vốn khiến cho nhiều cơ sở không thể mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất của DNLN còn khá khiêm tốn, sản xuất thủ công là chủ yếu, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm đơn điệu, kém phong phú. Không chỉ vậy, nhiều sản phẩm chưa xây dựng được thương hiệu, từ đó dẫn đến tính cạnh tranh của sản phẩm không cao. Ngoài ra, trình độ quản lý của các DNLN còn nhiều hạn chế, quen làm ăn kiểu nhỏ lẻ, phổ biến và hộ gia đình. Việc liên kết sản xuất chưa được quan tâm, lao động qua đào tạo rất ít, chưa quen tác phong công nghiệp, chậm thích ứng với thị trường... khiến nhiều DNLN giảm sút về quy mô và năng lực sản xuất, hoạt động sản xuất cầm chừng... Hạn chế kể đến là nhận thức về tầm quan trọng của kênh phân phối sản phẩm chưa cao, chưa chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu. Tiếp cận thông tin thị trường cũng hạn chế, nhiều cơ sở quyết định sản xuất kinh doanh theo kinh nghiệm và cảm tính nên hiệu quả chưa cao. Đặc biệt là trình độ chuyên môn, kỹ thuật của lao động DNLN thấp hơn nhiều so với lao động ở các doanh nghiệp công nghiệp.
Phát triển thương hiệu sản phẩm truyền thống
Đến nay, nhiều sản phẩm nông nghiệp, làng nghề của tỉnh Hưng Yên đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể như gà Đông Tảo, chuối tiêu hồng, nghệ Chí Tân (Khoái Châu), hoa cây cảnh Văn Giang, nhãn lồng, sản phẩm mật ong hoa nhãn (thành phố Hưng Yên), vải lai chín sớm Phù Cừ, rượu Lạc Đạo (Văn Lâm), chạm bạc Huệ Lai (Ân Thi)..., qua đó giúp kích cầu tiêu thụ sản phẩm cho các nhà nông.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, những năm qua, ngành chức năng, các địa phương cùng nông dân tỉnh Hưng Yên đã chung sức xây dựng, phát huy nhãn hiệu, thương hiệu cho nông sản của tỉnh. Một số nông sản của tỉnh có sức cạnh tranh tốt trên thị trường, ngày càng khẳng định uy tín với người tiêu dùng, qua đó tạo đà cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển.
Việc cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận nông sản đã giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên, của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó, đồng thời tạo cơ sở pháp lý giúp các hộ trồng trọt, chăn nuôi, kinh doanh yên tâm hơn trong sản xuất, bảo tồn, nhân giống, đầu tư kinh doanh, tạo sự đồng nhất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chuẩn hóa các sản phẩm đặc trưng
Tỉnh Hưng Yên đã xây dựng đề án "Mỗi xã một sản phẩm"(OCOP) giai đoạn 2018 - 2020, nhằm phát triển các hình thức sản xuất vừa và nhỏ có lợi thế, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Qua đó, góp phần thúc đẩy kinh tế nông thôn theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị.
Trong năm 2019, tỉnh Hưng Yên đã thực hiện tiêu chuẩn hóa các sản phẩm trồng trọt, với 19 sản phẩm đặc trưng của tỉnh; trong đó có nhãn lồng, vải lai chín sớm Phù Cừ, nghệ vàng Khoái Châu, quất cảnh và cây cảnh Văn Giang, nếp thơm Hưng Yên... Trong số này, phấn đấu có 2 sản phẩm đạt 3 sao trở lên, 13 sản phẩm đạt 4 sao và 4 sản phẩm đạt 5 sao.
Về các sản phẩm chăn nuôi thủy sản, năm 2019 Hưng Yên sẽ tiêu chuẩn hóa 7 sản phẩm tham gia Chương trình OCOP, bao gồm: Mật ong hoa nhãn, gà Đông Tảo, lợn thịt, bò thịt, sữa tươi, vịt thịt, cá chép lai. Trong đó, phấn đấu có 3 sản phẩm đạt 3 sao, 2 sản phẩm đạt 4 sao, 2 sản phẩm đạt 5 sao.
Tỉnh cũng phát triển 15 sản phẩm sơ chế, chế biến như: Tương Bần, tinh bột nghệ Chí Tân, long nhãn Hưng Yên, hương trầm Bảo Khê, rượu Trương Xá và Lạc Đạo, bánh răng bừa Phụng Công, bánh cuốn Mễ Sở, cơm nắm Lạc Đạo... Trong số 16 sản phẩm dự kiến năm 2019 sẽ có 10 sản phẩm đạt tiêu chuẩn 3 sao, 3 sản phẩm đạt 4 sao, 2 sản phẩm đạt 5 sao.
Về hàng thủ công mỹ nghệ, lưu niệm, nội thất có 12 sản phẩm được tiêu chuẩn hóa điển hình như: đúc đồng Lộng Thượng, chạm bạc Phù Ủng; đồ gỗ Mỹ nghệ dân dụng Hòa Phong, đan đó rọ Thủ Sỹ.... Dự kiến có 7 sản phẩm đạt 3 sao, 4 sản phẩm đạt 4 sao, 1 sản phẩm đạt 5 sao.
Cùng với tiêu chuẩn hóa các sản phẩm trên, tỉnh Hưng Yên cũng phát triển sản phẩm mô hình du lịch cộng đồng tại khu di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt Phố Hiến, khu di tích lịch sử đền Đa Hòa Dạ Trạch, làng nghề đúc đồng Lộng Thượng, làng Việt cổ Đại Đồng, di tích chùa Nôm... Giai đoạn 2021 - 2025 sẽ tiêu chuẩn hóa sản phẩm mô hình du lịch cộng đồng phấn đấu đạt 5 sao.
Năm 2019, hệ thống truy xuất nguồn gốc Hy.check.net.vn với ứng dụng CheckVN đã được ra mắt và bắt đầu vận hành tại Hưng Yên. Ứng dụng công nghệ CheckVN sẽ đem đến nhiều lợi ích trong quản lý chất lượng, phát triển thương hiệu và mở rộng thị trường cho các sản phẩm nông lâm thủy sản của Hưng Yên nói chung và cho các sản phẩm được bảo hộ sở hữu trí tuệ nói riêng.
Năm 2020, Hưng Yên chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ và tăng công suất các cơ sở đã có nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ bảo quản sau thu hoạch đối với sản phẩm chăn nuôi và trồng trọt để nâng chất lượng và kéo dài thời gian sử dụng; Hướng tập trung phát triển sản phẩm sạch gắn với công nghiệp chế biến ở vùng sản xuất tập trung, xây dựng thương hiệu, cung cấp sản phẩm cho các siêu thị, chợ đầu mối và doanh nghiệp xuất khẩu.
Tỉnh cũng có kế hoạch xây dựng chiến lược phát triển và thương mại hóa các sản phẩm chủ lực, phát triển sản phẩm dịch vụ OCOP và hệ thống quản lý chất lượng. Các sản phẩm được sản xuất và sử dụng nguyên liệu có gia tăng giá trị, không ảnh hưởng đến môi trường; hướng tới các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, khuyến khích các sản phẩm đạt tiêu chuẩn Globan Gap, Organic, GMP... Mặt khác, Hưng Yên tích cực quảng bá, tiếp thị sản phẩm, tổ chức các sự kiện xúc tiến thương mại.
Theo Sở Khoa học và Công nghệ, toàn tỉnh hiện có hơn 20 sản phẩm đặc thù, nổi tiếng được xây dựng thương hiệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ, gồm: Nhãn lồng Hưng Yên, quất cảnh Văn Giang, tương Bần, chuối tiêu hồng Khoái Châu, gà Đông Tảo, vải lai chín sớm Phù Cừ, mật ong hoa nhãn, chạm bạc Huệ Lai, rượu Lạc Đạo, rượu Trương Xá, cam Quảng Châu, cam Văn Giang, nghệ Chí Tân, cam Đồng Thanh, đúc đồng Lộng Thượng, hoa cây cảnh Xuân Quan, hương Cao Thôn, Long nhãn Hưng Yên, cam Hưng Yên, bánh tẻ Phụng Công...
Nguyễn Văn Thơ
Tin liên quan
Tin mới hơn

Chuẩn bị cho Festival Quốc tế 2025: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống
12:15 | 03/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên
09:31 | 03/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ
14:07 | 02/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Mùa sen ở hồ Tây
11:48 | 02/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Nghề Đúc Đồng Đại Bái: Tinh Hoa Văn Hóa Bắc Ninh
14:01 | 01/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Đưa sản phẩm làng nghề lên sách, tăng cơ hội xuất khẩu
10:30 | 30/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân
Tin khác

Bảo tồn văn hóa làng nghề qua sản phẩm OCOP của Hà Nội
10:30 | 30/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Gia Lâm: Địa danh “Dương Xá” được bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm nông sản chế biến
10:24 | 26/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Gìn giữ tinh hoa làng nghề xứ Quảng
11:03 | 25/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Chuyện của “Vua gỗ lũa Trai Vàng”
11:02 | 25/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Nghệ nhân sinh vật cảnh năng động, sáng tạo
11:02 | 25/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Làng nghề xứ Thanh – Nơi kết tinh tinh hoa văn hóa cha ông
10:49 | 23/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Giữ lửa nghề bánh tráng Thuận Hưng
10:21 | 23/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt
10:08 | 23/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá
09:01 | 19/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Nghệ nhân “hồi sinh” các con giống bột cổ
11:09 | 18/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Phú Yên công nhận 11 nghề truyền thống năm 2025
15:44 | 13/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Người âm thầm dùng cây kim, sợi chỉ lưu giữ hồn cốt văn hóa Việt
15:42 | 13/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Văn hoá Bắc Bộ qua các làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Hà Nội
15:41 | 13/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Chủ tịch nước Lương Cường gặp mặt nghệ nhân làng nghề tiêu biểu toàn quốc
13:19 | 12/06/2025 Tin tức

Cao Bằng gìn giữ và phát triển làng nghề truyền thống: Nét đẹp văn hóa gắn liền phát triển kinh tế
09:17 | 12/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Trại hè kết nối kiều bào trẻ 2025: “Cùng nhau viết tiếp câu chuyện hòa bình”
09:18 Tin tức

Gia Lai vùng đất hợp nhất giữa đại ngàn và biển xanh hội tụ
09:17 Du lịch làng nghề

Chuẩn bị cho Festival Quốc tế 2025: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống
12:15 Làng nghề, nghệ nhân

"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên
09:31 Làng nghề, nghệ nhân

Đời sống mới ở xã Lê Lợi
09:30 Nông thôn mới