Giấy Dó vùng Bưởi - Dấu xưa còn lại

LNV - Kẻ Bưởi xưa (nay thuộc địa bàn quận Tây Hồ, Hà Nội) nổi tiếng là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Trước đây, bên cạnh nghề dệt Lĩnh, người dân địa phương còn nổi tiếng với nghề làm giấy Dó.
Làng Yên Thái chuyên sản xuất giấy viết và in, làng Hồ Khẩu và Đông Xã chuyên sản xuất giấy có khổ lớn hơn để dùng in tranh dân gian. Tuy nhiên, trong các sản phẩm của nghề làm giấy ở Kẻ Bưởi, giấy Dó làng Yên Thái là nổi tiếng hơn cả.

1. Các loại giấy Dó xưa kia ở Kẻ Bưởi

Thời trung đại, Việt Nam có một số làng nghề làm giấy, như: làng Xuân Ổ (làng Ó) ở Bắc Ninh; làng Mai Chử (làng Mơ) ở Thanh Hóa làm giấy Bản. Làng Lộc Tụy và Đại Phú ở Quảng Bình sản xuất giấy từ vỏ cây niết; giấy Bìa bổi được sản xuất từ làng Từ Vân - Thanh Oai - Hà Tây… Tuy vậy, giấy Dó vùng Kẻ Bưởi của Thăng Long được người tiêu dùng đương thời ưa chuộng nhất.

Chợ giấy trên đất Kinh kỳ xưa kia luôn nhộn nhịp vào những dịp cận Tết với giấy Dó. Người dân vùng Bưởi đã sáng tạo ra nhiều loại giấy với đặc tính, đặc trưng và các chức năng khác nhau, mà loại tốt nhất là giấy Dó lụa, giấy Quỳ, giấy Lệnh và giấy Sắc. Trong sách “Dư địa chí” (1435), Nguyễn Trãi cũng đã đề cập rất rõ về vấn đề này: “Đương thời, phường Yên Thái (Bưởi) chuyên làm giấy. Thợ ở đây có thể làm được giấy Thị, giấy Lệnh; còn làng Nghĩa Đô chuyên làm giấy Sắc màu, ngà vàng vẽ rồng và mây gọi là giấy Long án”.

Nghề làm giấy Dó xưa ở làng Bưởi.


Các bậc cao niên ở vùng Bưởi cho biết, giấy Quỳ sản xuất từ vỏ cây Cãnh dai. Trước đây, loại giấy này thuộc độc quyền sản xuất của dòng họ Nguyễn Thế. Dòng họ này sinh sống tập trung ở ở thôn An Đông thuộc phường Yên Thái. Người làng Kiêu Kị tại huyện Đông Anh (Hà Nội) bên kia sông Hồng thường chọn mua giấy Quỳ để dát “vàng bạc” lên đó. Đối tượng khách hàng mua thành phẩm của thợ thủ công Kiêu Kị là các nghệ nhân chạm khắc câu đối, hoành phi, phù điêu, tượng Phật và các đồ thờ tự. Giấy Kiêu Kị ánh vàng - ánh bạc sẽ làm nên những sắc màu lung linh, lộng lẫy, khiến cho những sản phẩm này trở nên thiêng liêng, cao quý.

Ngoài ra, còn có loại giấy Lệnh và giấy Sắc. Giấy Lệnh chỉ sử dụng trong công việc hành chính của Triều đình phong kiến (để viết các lệnh chỉ của Vua). Loại này dày hơn giấy Dó lụa và do tính năng sử dụng nên và nó được làm kĩ hơn.

Giấy Sắc được dân gian đánh giá là tốt và quý nhất trong các loại giấy Dó. Loại giấy này khổ to, với nhiều cỡ to nhỏ khác nhau và rộng nhất là khổ giấy 2m x 0,75m; cỡ nhỏ nhất là 1,3m x 0,52m. Giấy Sắc của người thợ vùng Bưởi dày và rất dai. Vì đặc tính này, người dùng không lo nếu như ai đó cố tình xé văn bản của họ. Đồng thời, giấy Sắc còn không bị thấm nước, không bị mối mọt xâm hại nên nó có thể lưu giữ trong vài trăm năm.

Với đặc tính dai, bền và không thấm nước, nên giấy Sắc được dành riêng cho Vua dùng để viết sắc chỉ, chuyên dùng để phong tước, phong công cho những triều thần có công với nước và các bậc thần linh có công được tôn Thánh. Có lẽ vì điều này, giấy Sắc khác với các loại giấy khác khi trên bề mặt có in nổi (nhẹ nhàng) hình Rồng phun mây và Rồng - Phượng. Sử dụng giấy mang hình nào cho việc viết sắc phong là tùy theo thứ cấp khi phong Công, phong Thần. Giấy Sắc được chúa Trịnh cho dòng học Lại độc quyền sản xuất với số lượng nhất định. Việc sản xuất giấy Sắc rất cầu kì. Người thợ đặt những tờ giấy trên mặt tảng đá để “nghè” - tức là dùng vồ gỗ nện khẽ, nhẹ, đều tay lên mặt tờ giấy, làm cho giấy thêm nhẵn, đanh (Có lẽ thế, giấy của làng được gọi là giấy Nghè và làng Nghĩa Đô được gọi tên là làng Nghè). Sau khi vẽ trang trí hoa văn (hình Rồng Phượng chìm), người thợ giấy phết một lớp hoàng liên lên giấy tạo nên màu vàng. Cuối cùng họ phủ một lớp keo lên trên với mục đích làm giấy đanh thêm và đồng thời chống ẩm và mối mọt.

Người dân làng Bưởi nay đã không còn làm giấy Dó. Ảnh: Báo Thanh Niên.


Giấy Dó lụa mỏng, mềm như tấm lụa Hà Đông. Người đương thời còn gọi loại này là giấy Bản. Giấy Dó lụa chuyên dùng để in sách, chép thơ, chép kinh. Thời trung đại, các thầy khóa và Nho sinh Việt thường dùng bút lông, mực tàu viết chữ Nho lên giấy mà không lo bị nhòe mực. Các nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian trước kia thường sử dụng giấy Dó khổ lớn để vẽ tranh, cho chữ, viết thư pháp. Có thể nói, những tác phẩm văn hóa mang đậm tính nghệ thuật này vừa đẹp, bền; vừa tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc đậm đà.

Ngoài ra, thợ giấy Kẻ Bưởi cũng sản xuất loại giấy thô ráp dùng cho việc gói hàng, như: giấy Moi, giấy Phèn. Các loại giấy này được sản xuất bởi những nguyên liệu xấu hơn, là thành phần “đầu mặt” của vỏ Dó đã bị loại bỏ. Dân làng Kẻ Cót (tên chữ là làng “Thượng Yên Quyết”, nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội), cũng thường mua những phế liệu này về làm thứ giấy Xề thô và xấu.

2. Giá trị sử dụng của giấy Dó

Giấy Dó truyền thống ở Kẻ Bưởi được Henri Oger mô tả trong cuốn “Kỹ thuật của người An Nam” là loại giấy xốp nhẹ mà bền dai, không nhoè khi viết vẽ, ít bị mối mọt. Loại giấy này không bị dòn gẫy, ẩm nát mà mỏng, mềm như tấm lụa Hà Đông. Người dùng có thể vò nát tờ giấy, nhưng khi vuốt ra, lại phẳng như bình thường. Với chất lượng tốt, giấy Dó đã tạo được thương hiệu riêng cho mình. Tài liệu nghiên cứu của F. Claverie cho biết, năm 1903, bất cứ ai cũng có thể mua được hàng nghìn tờ giấy Dó loại tốt nhất (màu trắng) với 2$50 đến 3$ (đồng bạc); 2$ cho loại hai (vàng nhạt) và 1$50 để mua loại ba (màu xám dùng làm bao bì) 1.

Đến đầu thế kỷ XX, nhờ có kỹ thuật bóc kép nhiều lớp và kỹ thuật cán giấy hiện đại, giấy Dó vốn chỉ được bóc đơn, nay đã được chồng nhiều lớp, tạo nên những độ dày khác nhau. Những thớ sợi của vỏ cây Cãnh vốn đã rất dẻo dai, nay được liên kết nhiều lớp ngang, dọc, chéo, được cán chặt với nhau. Nhờ việc cán lại cho đanh chắc, tờ giấy Dó nếu bị xé cũng không thể rách. Hơn nữa, sản phẩm của người Kẻ Bưởi còn được tráng bề mặt bằng nhựa cây gỗ Mò đã tạo thành một thứ giấy bền bỉ độc nhất vô nhị. Nghiên cứu về giấy Dó của người Việt trước đây, một học giả Nhật Bản đã nhận định rằng, giấy Dó truyền thống làng Yên Thái không chỉ là “một loại giấy độc nhất vô nhị ở Việt Nam mà còn xứng đáng có được một tầm vóc lớn trong lịch sử ngành sản xuất giấy của thế giới”.

Theo các nhà nghiên cứu, giấy Dó lụa để trong điều kiện bình thường, không cần bảo quản cũng rất bền. Một số tài liệu cho rằng giấy Dó có độ tuổi thọ tới 500 năm. Có thể vì điều này, người xưa đã dùng giấy Dó để in kinh sách, viết chữ, in tranh dân gian và đặc biệt hơn cả khi các triều đại phong kiến Việt Nam dùng nó cho việc viết sắc phong. Đến nay, nhiều đình, chùa và làng xã vẫn còn lưu giữ được những sắc phong này. Các cụ cao niên ở Yên Thái cho biết, bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng in trên giấy Dó được sản xuất ở vùng Bưởi, bìa là giấy Dó được bóc kép 6 lần và những tờ giấy ruột bên trong văn bản này cũng được bóc kép 3 lần. Được biết đến nay, các trang giấy trong Di chúc vẫn còn nguyên vẹn, không bị nấm mốc, hư hại bởi thời gian.

Giấy Dó vùng Bưởi là một mặt hàng đắt khách của các tiểu thương phố Hàng Giấy xưa kia. Sản phẩm này đã làm hài lòng nhiều văn nhân, nghệ nhân các nơi, để đến hôm nay, hậu thế được chiêm ngưỡng những nét bút của tài hoa của các danh nhân đã được lưu lại trong các văn bản. Những tác phẩm hội họa dân gian, nhiều bức tranh quý có giá trị, ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XX đến nay vẫn còn lưu giữ được. Vất vả là thế, nhưng hình ảnh các cô gái làm giấy Dó vẫn hiện lên rất duyên dáng trong những câu thơ của các văn nhân xưa kia:

Người ta bán vạn buôn ngàn
Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi
Dám xin ai đó chớ cười
Vì em làm giấy cho người viết thơ.


Giấy Dó vùng Kẻ Bưởi đã đáp ứng cho nhiều nhu cầu khác nhau trong xã hội Việt xưa, đặc biệt đối với việc in ấn kinh sách để lưu truyền, tiêu biểu là những bộ kinh thư Phật giáo. Sự phát triển của nghề làm giấy đã góp phần thúc đẩy nghề in mộc bản. Nguồn tài liệu cổ sử cho biết, nhà sư Tín Học thời Lý đã cho làm nhiều ván khắc dùng cho việc in kinh Phật ở các chùa. Do sự phát triển của nghề làm giấy và nghề in, năm 1734, Chúa Trịnh Giang đã cho in Tứ Thư Ngũ Kinh và không mua tài liệu này do người Trung Quốc in nữa.

Sự phát triển về sản lượng và chất lượng của giấy Dó vùng Bưởi cùng các địa phương khác đã đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của xã hội nước ta đương thời. Giấy làm ra vừa đẹp lại bền. Vì lẽ này, Vua Lý Cao Tông (1176-1210) đã chọn giấy Dó là một trong những cống vật của Đại Việt đương thời cho Triều đình nhà Tống. Trong dân gian xưa có câu:

Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô
Quanh năm làm giấy cho vua được nhờ .


Nghề làm giấy Dó ở vùng Bưởi đã đi vào ca dao xưa như một niềm tự hào, một nét tinh hoa. Ngày nay, công nghệ hiện đại được áp dụng trong quá trình sản xuất giấy, nên nghề làm giấy Dó không còn duy trì như trước. Mặc dù vậy, giữa ồn ào phố thị, nét duyên của Kẻ Bưởi xưa kia vẫn được người dân nơi đây âm thầm lưu giữ.

Theo Tạp chí Di sản

Tin liên quan

Tin mới hơn

Phát huy vai trò nghệ nhân trong phát triển văn hóa

Phát huy vai trò nghệ nhân trong phát triển văn hóa

LNV - Đội ngũ nghệ nhân và người có uy tín được xem là “báu vật nhân văn sống” của Lạng Sơn, giữ vai trò quyết định trong bảo tồn, thực hành và phát huy kho tàng văn hóa truyền thống. Họ đồng thời là cầu nối giữa chính quyền với đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần xây dựng đời sống văn hóa, đảm bảo an ninh và thúc đẩy phát triển địa phương.
Sức sống bền bỉ từ các làng nghề xứ Thanh

Sức sống bền bỉ từ các làng nghề xứ Thanh

LNV - Những làng nghề truyền thống như đúc đồng Trà Đông, rèn Tất Tác hay mộc Đạt Tài đang trở thành những “kho tàng sống” của văn hóa xứ Thanh. Dù nghề thủ công phải thích ứng với yêu cầu thị trường và công nghệ mới, người dân nơi đây vẫn bền bỉ giữ nghề, giữ lửa, truyền lại tinh hoa cho thế hệ trẻ, tạo nên sức sống bền vững cho di sản trong nhịp sống hiện đại.
Nhộn nhịp không khi sản xuất ở làng nghề Bình Hòa

Nhộn nhịp không khi sản xuất ở làng nghề Bình Hòa

LNV - Những ngày cuối năm, không khí làm việc tại làng nghề may mùng, mền xã Bình Hòa (An Giang) trở nên nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Các cơ sở tăng ca sản xuất, còn lao động “vệ tinh” tranh thủ từng giờ rảnh để kịp giao hàng, đáp ứng nhu cầu mua sắm Tết đang tăng mạnh trên thị trường.
Ngắm sắc màu thổ cẩm ở làng Chăm Châu Phong

Ngắm sắc màu thổ cẩm ở làng Chăm Châu Phong

LNV - Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm ở xã Châu Phong (An Giang) đã tồn tại hơn hai thế kỷ, trở thành biểu tượng văn hóa gắn liền với đời sống cộng đồng Hồi giáo Chăm. Được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia vào năm 2023, thổ cẩm Châu Phong ngày càng khẳng định giá trị khi hòa mình vào dòng chảy du lịch, thu hút đông đảo du khách đến khám phá và trải nghiệm.
Đằng sau ánh lửa giữ nghề: Nỗi lo sức khỏe của những người thợ thủ công

Đằng sau ánh lửa giữ nghề: Nỗi lo sức khỏe của những người thợ thủ công

LNV - Làng nghề được xem là nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa dân tộc và tạo sinh kế cho hàng triệu người dân. Tuy nhiên, đằng sau những sản phẩm thủ công tinh xảo là nỗi lo về sức khỏe của người lao động, những con người ngày ngày tiếp xúc với khói bụi, hóa chất, tiếng ồn và nhiệt độ cao trong điều kiện làm việc thiếu an toàn.
Nghệ nhân “hoá thân” chất liệu đời thường thành tác phẩm nghệ thuật

Nghệ nhân “hoá thân” chất liệu đời thường thành tác phẩm nghệ thuật

LNV - Qua bàn tay tài hoa và tâm hồn của người nghệ sĩ, nhiều chất liệu giản dị nhất trở thành tác phẩm nghệ thuật, mang hơi thở của đời sống, phản chiếu tâm hồn con người Việt Nam.

Tin khác

Làng nghề Đại Bái nỗ lực vượt khó, đổi mới sản xuất để đáp ứng đơn hàng Tết

Làng nghề Đại Bái nỗ lực vượt khó, đổi mới sản xuất để đáp ứng đơn hàng Tết

LNV - Trước yêu cầu dừng hoạt động các lò đúc nhằm bảo đảm môi trường, các cơ sở sản xuất ở làng nghề đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) đã nhanh chóng thích ứng, thay đổi phương thức sản xuất và liên kết với cơ sở được cấp phép để duy trì nguồn nguyên liệu. Nhờ chủ động cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, các doanh nghiệp và hộ làm nghề vẫn đáp ứng kịp thời đơn hàng Tết, giữ vững thị trường truyền thống.
Nhộn nhịp sản xuất ở các làng nghề truyền thống dịp cuối năm

Nhộn nhịp sản xuất ở các làng nghề truyền thống dịp cuối năm

LNV - Không khí sản xuất tại các làng nghề truyền thống ở Lạng Sơn đang trở nên nhộn nhịp hơn trong những ngày cận Tết Nguyên đán Bính Ngọ 2026. Sắc màu lao động hiện diện khắp các nếp nhà, tạo nên bức tranh kinh tế sôi động và nhiều kỳ vọng.
Hiệp hội Làng nghề Việt Nam kỷ niệm 20 năm thành lập và phong tặng các danh hiệu làng nghề, nghệ nhân

Hiệp hội Làng nghề Việt Nam kỷ niệm 20 năm thành lập và phong tặng các danh hiệu làng nghề, nghệ nhân

LNV - Ngày 26/12/2025, tại Hà Nội, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập (2005 - 2025) và phong tặng các danh hiệu làng nghề, nghệ nhân lần thứ XII. Sự kiện là dấu mốc quan trọng để nhìn lại chặng đường hai thập kỷ “kết nối - bảo tồn - phát triển tinh hoa nghề Việt”, đồng thời khẳng định vị thế của làng nghề Việt Nam trong chiến lược phát triển bền vững đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Tranh Kim Hoàng: Nối lại một dòng chảy đã đứt đoạn

Tranh Kim Hoàng: Nối lại một dòng chảy đã đứt đoạn

LNV - Tranh Kim Hoàng - dòng tranh dân gian từng phổ biến ở Bắc Bộ đầu thế kỷ XX đã bị đứt mạch hơn bảy thập kỳ bởi thiên tai, biến động xã hội và sự thay đổi trong đời sống thành thị. Trong bối cảnh di sản vật thể đứng trước nguy cơ mai một, nỗ lực phục dựng âm thầm của một số cá nhân đang mở ra hy vọng mới cho việc nối lại dòng chảy tưởng như đã biến mất của làng nghề Kim Hoàng (Hà Nội).
Làng nghề trước những thay đổi: Giữ bản sắc từ kỹ thuật đến cộng đồng

Làng nghề trước những thay đổi: Giữ bản sắc từ kỹ thuật đến cộng đồng

LNV - Dưới tác động của công nghệ, thị trường và dòng lao động dịch chuyển, cấu trúc sản xuất tại nhiều làng nghề truyền thống đang thay đổi nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, ba trụ cột từng làm nên bản sắc làng nghề Việt Nam gồm truyền nghề, chuẩn tay nghề và đời sống cộng đồng cũng đứng trước những thách thức mới về cách duy trì và tiếp nối.
Khẳng định vai trò nghệ nhân, thợ giỏi trong bảo tồn và phát triển làng nghề Hà Nội

Khẳng định vai trò nghệ nhân, thợ giỏi trong bảo tồn và phát triển làng nghề Hà Nội

Ngày 26-12, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tổ chức hội thảo nhằm làm rõ vai trò của đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi trong việc gìn giữ giá trị truyền thống, truyền nghề và thúc đẩy phát triển bền vững các làng nghề trên địa bàn Thủ đô, qua đó đề xuất các giải pháp phát huy nguồn lực con người trong bối cảnh mới.
LÀNG NGÓI ÂM DƯƠNG QUỲNH SƠN: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY TIỀM NĂNG DU LỊCH

LÀNG NGÓI ÂM DƯƠNG QUỲNH SƠN: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY TIỀM NĂNG DU LỊCH

LNV - Vượt qua hơn 270 hồ sơ đến từ 65 quốc gia, Làng du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn (xã Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) được Tổ chức Du lịch Liên Hợp Quốc (UN Tourism) vinh danh là Làng du lịch tốt nhất thế giới năm 2025. Là “hồn nghề” lâu đời tại Quỳnh Sơn, làng nghề ngói âm dương trở thành điểm nhấn, vừa gìn giữ hồn nghề truyền thống, vừa phát triển du lịch làng nghề gắn với xúc tiến thương mại.
Nghệ nhân giữ tiếng ngũ âm Khmer

Nghệ nhân giữ tiếng ngũ âm Khmer

LNV - Suốt hơn hai thập kỷ, nghệ nhân Thạch Anh Xuân (Vĩnh Long) miệt mài truyền dạy nhạc ngũ âm Khmer cho thế hệ trẻ, góp phần gìn giữ và lan tỏa giá trị nghệ thuật truyền thống của đồng bào Khmer Tây Nam Bộ. Từ tình yêu gia truyền, ông trở thành “cầu nối” bền bỉ giữa di sản và hiện đại, bất chấp nhiều khó khăn trong công tác bảo tồn.
Làng nghề Việt trong dòng chảy hội nhập

Làng nghề Việt trong dòng chảy hội nhập

LNV - Trong dòng chảy hội nhập ngày càng sâu rộng, việc các làng nghề Việt Nam chủ động đưa sản phẩm đi xa, giao lưu và hợp tác với tinh hoa nghề thủ công thế giới thông qua triển lãm, hội chợ hay festival đang mở ra không gian phát triển mới cho thương mại và du lịch. Xu hướng này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc gìn giữ, làm giàu và tái định vị giá trị nghề truyền thống Việt Nam trong thời kỳ mới.
Khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn thu hút hàng trăm gian hàng

Khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn thu hút hàng trăm gian hàng

Tối 25-12, tại Khu đô thị Mailand Hà Nội (xã Sơn Đồng), Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tổ chức khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn trên địa bàn thành phố.
Gốm Phù Lãng nâng tầm giá trị truyền thống qua sản phẩm OCOP

Gốm Phù Lãng nâng tầm giá trị truyền thống qua sản phẩm OCOP

LNV - Trong tiến trình xây dựng nông thôn mới, làng gốm Phù Lãng đang cho thấy hướng đi bền vững khi nghề truyền thống được nâng tầm thành sản phẩm OCOP. Hành trình bảy năm nghiên cứu men gốm cùng sự đầu tư bài bản về công nghệ đã giúp Gốm Tâm Phù Lãng trở thành điểm sáng, vừa tạo sinh kế ổn định, vừa góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa làng nghề ven sông Cầu.
Giải pháp đẩy mạnh an toàn thực phẩm, phát triển bền vững nông nghiệp theo chuỗi giá trị tại Hà Nội

Giải pháp đẩy mạnh an toàn thực phẩm, phát triển bền vững nông nghiệp theo chuỗi giá trị tại Hà Nội

Trong bối cảnh yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm và phát triển nông nghiệp bền vững, việc tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với kiểm soát an toàn thực phẩm đang trở thành hướng đi tất yếu của nông nghiệp Thủ đô. Hội thảo “Giải pháp đẩy mạnh an toàn thực phẩm, phát triển bền vững, nâng cao giá trị trong phát triển nông nghiệp theo chuỗi giá trị trên địa bàn Hà Nội” do Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tổ chức ngày 25/12 nhằm đánh giá thực trạng, chia sẻ kinh nghiệm, đồng thời đề xuất các giải pháp đồng bộ để nâng cao hiệu quả quản lý, gia tăng giá trị và sức cạnh tranh cho nông sản Hà Nội.
Hà Nội: Phát huy hiệu quả mô hình Trung tâm thiết kế sáng tạo, thúc đẩy phát triển OCOP và du lịch làng nghề năm 2025

Hà Nội: Phát huy hiệu quả mô hình Trung tâm thiết kế sáng tạo, thúc đẩy phát triển OCOP và du lịch làng nghề năm 2025

LNV - Năm 2025 được xem là dấu mốc quan trọng trong chiến lược phát triển làng nghề của Thủ đô khi Hà Nội triển khai đồng bộ Kế hoạch phát triển Trung tâm thiết kế sáng tạo, giới thiệu, quảng bá và bán sản phẩm OCOP gắn với du lịch tại các huyện, thị xã trên địa bàn. Sau một năm thực hiện, chương trình đã tạo ra những chuyển biến rõ nét, khẳng định vai trò của thiết kế sáng tạo như một động lực then chốt trong nâng cao giá trị sản phẩm và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn bền vững.
Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

LNV - Làng gốm Bát Tràng là một trong những làng nghề luôn đi đầu trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển những giá trị truyền thống. Giữa thời đại công nghệ đang phát triển, người dân làng nghề đã mạnh dạn áp dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số qua các nền tảng trực tuyến để vươn ra thị trường.
Chuyển đổi số để làng nghề Việt Nam vươn xa và giữ hồn truyền thống

Chuyển đổi số để làng nghề Việt Nam vươn xa và giữ hồn truyền thống

LNV - Chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu, mở ra cơ hội mới cho các làng nghề truyền thống Việt Nam trong việc mở rộng thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển bền vững. Nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, phóng viên đã có cuộc trao đổi với Ông Trịnh Quốc Đạt – Nhà giáo ưu tú, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, về hành trình chuyển đổi số của các làng nghề trong bối cảnh hiện nay.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Thái Đại Ngọc: Nông dân là trung tâm, là chủ thể, là động lực của quá trình đổi mới

Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Thái Đại Ngọc: Nông dân là trung tâm, là chủ thể, là động lực của quá trình đổi mới

LNV - Tại Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Gia Lai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Thái Đại Ngọc nhấn mạnh: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược lâu dài; nông dân là trung tâm, là chủ thể, là động lực của quá trình
Gia Lai: Chùa Long Phước cùng hành trình Võ - Thiền, từ di sản văn hóa đến sản phẩm du lịch đặc trưng của Tuy Phước

Gia Lai: Chùa Long Phước cùng hành trình Võ - Thiền, từ di sản văn hóa đến sản phẩm du lịch đặc trưng của Tuy Phước

LNV - Giữa không gian làng quê yên bình của thôn Tân Thuận, xã Tuy Phước, chùa Long Phước hiện lên như một dấu lặng đặc biệt trong dòng chảy lịch sử - văn hóa của vùng đất võ Bình Định – nay là Gia Lai.
Phát huy vai trò nghệ nhân trong phát triển văn hóa

Phát huy vai trò nghệ nhân trong phát triển văn hóa

LNV - Đội ngũ nghệ nhân và người có uy tín được xem là “báu vật nhân văn sống” của Lạng Sơn, giữ vai trò quyết định trong bảo tồn, thực hành và phát huy kho tàng văn hóa truyền thống. Họ đồng thời là cầu nối giữa chính quyền với đồng bào dân tộc thiểu số,
Dào San đổi thay từ nội lực và quyết tâm xây dựng nông thôn mới

Dào San đổi thay từ nội lực và quyết tâm xây dựng nông thôn mới

LNV - Với quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận của người dân, xã vùng cao biên giới Dào San (Lào Cai) đang từng bước vượt qua khó khăn để thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Giai đoạn 2021-2025, đặc biệt là năm 20
80 năm Ngày truyền thống ngành Lưu trữ Việt Nam

80 năm Ngày truyền thống ngành Lưu trữ Việt Nam

LNV - Ngày 30/12, Trung tâm Lưu trữ lịch sử Quảng Trị và Trung tâm Lưu trữ lịch sử Nam Quảng Trị tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành Lưu trữ Việt Nam (3/1/1946 - 3/1/2026). Đây là dịp tri ân các thế hệ cán bộ lưu trữ và khẳng định giá trị bề
Giao diện di động