Hà Nội: 12°C Hà Nội
Đà Nẵng: 20°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 22°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 20°C Thừa Thiên Huế

Giấy Dó vùng Bưởi - Dấu xưa còn lại

LNV - Kẻ Bưởi xưa (nay thuộc địa bàn quận Tây Hồ, Hà Nội) nổi tiếng là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Trước đây, bên cạnh nghề dệt Lĩnh, người dân địa phương còn nổi tiếng với nghề làm giấy Dó.
Làng Yên Thái chuyên sản xuất giấy viết và in, làng Hồ Khẩu và Đông Xã chuyên sản xuất giấy có khổ lớn hơn để dùng in tranh dân gian. Tuy nhiên, trong các sản phẩm của nghề làm giấy ở Kẻ Bưởi, giấy Dó làng Yên Thái là nổi tiếng hơn cả.

1. Các loại giấy Dó xưa kia ở Kẻ Bưởi

Thời trung đại, Việt Nam có một số làng nghề làm giấy, như: làng Xuân Ổ (làng Ó) ở Bắc Ninh; làng Mai Chử (làng Mơ) ở Thanh Hóa làm giấy Bản. Làng Lộc Tụy và Đại Phú ở Quảng Bình sản xuất giấy từ vỏ cây niết; giấy Bìa bổi được sản xuất từ làng Từ Vân - Thanh Oai - Hà Tây… Tuy vậy, giấy Dó vùng Kẻ Bưởi của Thăng Long được người tiêu dùng đương thời ưa chuộng nhất.

Chợ giấy trên đất Kinh kỳ xưa kia luôn nhộn nhịp vào những dịp cận Tết với giấy Dó. Người dân vùng Bưởi đã sáng tạo ra nhiều loại giấy với đặc tính, đặc trưng và các chức năng khác nhau, mà loại tốt nhất là giấy Dó lụa, giấy Quỳ, giấy Lệnh và giấy Sắc. Trong sách “Dư địa chí” (1435), Nguyễn Trãi cũng đã đề cập rất rõ về vấn đề này: “Đương thời, phường Yên Thái (Bưởi) chuyên làm giấy. Thợ ở đây có thể làm được giấy Thị, giấy Lệnh; còn làng Nghĩa Đô chuyên làm giấy Sắc màu, ngà vàng vẽ rồng và mây gọi là giấy Long án”.

Nghề làm giấy Dó xưa ở làng Bưởi.


Các bậc cao niên ở vùng Bưởi cho biết, giấy Quỳ sản xuất từ vỏ cây Cãnh dai. Trước đây, loại giấy này thuộc độc quyền sản xuất của dòng họ Nguyễn Thế. Dòng họ này sinh sống tập trung ở ở thôn An Đông thuộc phường Yên Thái. Người làng Kiêu Kị tại huyện Đông Anh (Hà Nội) bên kia sông Hồng thường chọn mua giấy Quỳ để dát “vàng bạc” lên đó. Đối tượng khách hàng mua thành phẩm của thợ thủ công Kiêu Kị là các nghệ nhân chạm khắc câu đối, hoành phi, phù điêu, tượng Phật và các đồ thờ tự. Giấy Kiêu Kị ánh vàng - ánh bạc sẽ làm nên những sắc màu lung linh, lộng lẫy, khiến cho những sản phẩm này trở nên thiêng liêng, cao quý.

Ngoài ra, còn có loại giấy Lệnh và giấy Sắc. Giấy Lệnh chỉ sử dụng trong công việc hành chính của Triều đình phong kiến (để viết các lệnh chỉ của Vua). Loại này dày hơn giấy Dó lụa và do tính năng sử dụng nên và nó được làm kĩ hơn.

Giấy Sắc được dân gian đánh giá là tốt và quý nhất trong các loại giấy Dó. Loại giấy này khổ to, với nhiều cỡ to nhỏ khác nhau và rộng nhất là khổ giấy 2m x 0,75m; cỡ nhỏ nhất là 1,3m x 0,52m. Giấy Sắc của người thợ vùng Bưởi dày và rất dai. Vì đặc tính này, người dùng không lo nếu như ai đó cố tình xé văn bản của họ. Đồng thời, giấy Sắc còn không bị thấm nước, không bị mối mọt xâm hại nên nó có thể lưu giữ trong vài trăm năm.

Với đặc tính dai, bền và không thấm nước, nên giấy Sắc được dành riêng cho Vua dùng để viết sắc chỉ, chuyên dùng để phong tước, phong công cho những triều thần có công với nước và các bậc thần linh có công được tôn Thánh. Có lẽ vì điều này, giấy Sắc khác với các loại giấy khác khi trên bề mặt có in nổi (nhẹ nhàng) hình Rồng phun mây và Rồng - Phượng. Sử dụng giấy mang hình nào cho việc viết sắc phong là tùy theo thứ cấp khi phong Công, phong Thần. Giấy Sắc được chúa Trịnh cho dòng học Lại độc quyền sản xuất với số lượng nhất định. Việc sản xuất giấy Sắc rất cầu kì. Người thợ đặt những tờ giấy trên mặt tảng đá để “nghè” - tức là dùng vồ gỗ nện khẽ, nhẹ, đều tay lên mặt tờ giấy, làm cho giấy thêm nhẵn, đanh (Có lẽ thế, giấy của làng được gọi là giấy Nghè và làng Nghĩa Đô được gọi tên là làng Nghè). Sau khi vẽ trang trí hoa văn (hình Rồng Phượng chìm), người thợ giấy phết một lớp hoàng liên lên giấy tạo nên màu vàng. Cuối cùng họ phủ một lớp keo lên trên với mục đích làm giấy đanh thêm và đồng thời chống ẩm và mối mọt.

Người dân làng Bưởi nay đã không còn làm giấy Dó. Ảnh: Báo Thanh Niên.


Giấy Dó lụa mỏng, mềm như tấm lụa Hà Đông. Người đương thời còn gọi loại này là giấy Bản. Giấy Dó lụa chuyên dùng để in sách, chép thơ, chép kinh. Thời trung đại, các thầy khóa và Nho sinh Việt thường dùng bút lông, mực tàu viết chữ Nho lên giấy mà không lo bị nhòe mực. Các nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian trước kia thường sử dụng giấy Dó khổ lớn để vẽ tranh, cho chữ, viết thư pháp. Có thể nói, những tác phẩm văn hóa mang đậm tính nghệ thuật này vừa đẹp, bền; vừa tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc đậm đà.

Ngoài ra, thợ giấy Kẻ Bưởi cũng sản xuất loại giấy thô ráp dùng cho việc gói hàng, như: giấy Moi, giấy Phèn. Các loại giấy này được sản xuất bởi những nguyên liệu xấu hơn, là thành phần “đầu mặt” của vỏ Dó đã bị loại bỏ. Dân làng Kẻ Cót (tên chữ là làng “Thượng Yên Quyết”, nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội), cũng thường mua những phế liệu này về làm thứ giấy Xề thô và xấu.

2. Giá trị sử dụng của giấy Dó

Giấy Dó truyền thống ở Kẻ Bưởi được Henri Oger mô tả trong cuốn “Kỹ thuật của người An Nam” là loại giấy xốp nhẹ mà bền dai, không nhoè khi viết vẽ, ít bị mối mọt. Loại giấy này không bị dòn gẫy, ẩm nát mà mỏng, mềm như tấm lụa Hà Đông. Người dùng có thể vò nát tờ giấy, nhưng khi vuốt ra, lại phẳng như bình thường. Với chất lượng tốt, giấy Dó đã tạo được thương hiệu riêng cho mình. Tài liệu nghiên cứu của F. Claverie cho biết, năm 1903, bất cứ ai cũng có thể mua được hàng nghìn tờ giấy Dó loại tốt nhất (màu trắng) với 2$50 đến 3$ (đồng bạc); 2$ cho loại hai (vàng nhạt) và 1$50 để mua loại ba (màu xám dùng làm bao bì) 1.

Đến đầu thế kỷ XX, nhờ có kỹ thuật bóc kép nhiều lớp và kỹ thuật cán giấy hiện đại, giấy Dó vốn chỉ được bóc đơn, nay đã được chồng nhiều lớp, tạo nên những độ dày khác nhau. Những thớ sợi của vỏ cây Cãnh vốn đã rất dẻo dai, nay được liên kết nhiều lớp ngang, dọc, chéo, được cán chặt với nhau. Nhờ việc cán lại cho đanh chắc, tờ giấy Dó nếu bị xé cũng không thể rách. Hơn nữa, sản phẩm của người Kẻ Bưởi còn được tráng bề mặt bằng nhựa cây gỗ Mò đã tạo thành một thứ giấy bền bỉ độc nhất vô nhị. Nghiên cứu về giấy Dó của người Việt trước đây, một học giả Nhật Bản đã nhận định rằng, giấy Dó truyền thống làng Yên Thái không chỉ là “một loại giấy độc nhất vô nhị ở Việt Nam mà còn xứng đáng có được một tầm vóc lớn trong lịch sử ngành sản xuất giấy của thế giới”.

Theo các nhà nghiên cứu, giấy Dó lụa để trong điều kiện bình thường, không cần bảo quản cũng rất bền. Một số tài liệu cho rằng giấy Dó có độ tuổi thọ tới 500 năm. Có thể vì điều này, người xưa đã dùng giấy Dó để in kinh sách, viết chữ, in tranh dân gian và đặc biệt hơn cả khi các triều đại phong kiến Việt Nam dùng nó cho việc viết sắc phong. Đến nay, nhiều đình, chùa và làng xã vẫn còn lưu giữ được những sắc phong này. Các cụ cao niên ở Yên Thái cho biết, bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng in trên giấy Dó được sản xuất ở vùng Bưởi, bìa là giấy Dó được bóc kép 6 lần và những tờ giấy ruột bên trong văn bản này cũng được bóc kép 3 lần. Được biết đến nay, các trang giấy trong Di chúc vẫn còn nguyên vẹn, không bị nấm mốc, hư hại bởi thời gian.

Giấy Dó vùng Bưởi là một mặt hàng đắt khách của các tiểu thương phố Hàng Giấy xưa kia. Sản phẩm này đã làm hài lòng nhiều văn nhân, nghệ nhân các nơi, để đến hôm nay, hậu thế được chiêm ngưỡng những nét bút của tài hoa của các danh nhân đã được lưu lại trong các văn bản. Những tác phẩm hội họa dân gian, nhiều bức tranh quý có giá trị, ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XX đến nay vẫn còn lưu giữ được. Vất vả là thế, nhưng hình ảnh các cô gái làm giấy Dó vẫn hiện lên rất duyên dáng trong những câu thơ của các văn nhân xưa kia:

Người ta bán vạn buôn ngàn
Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi
Dám xin ai đó chớ cười
Vì em làm giấy cho người viết thơ.


Giấy Dó vùng Kẻ Bưởi đã đáp ứng cho nhiều nhu cầu khác nhau trong xã hội Việt xưa, đặc biệt đối với việc in ấn kinh sách để lưu truyền, tiêu biểu là những bộ kinh thư Phật giáo. Sự phát triển của nghề làm giấy đã góp phần thúc đẩy nghề in mộc bản. Nguồn tài liệu cổ sử cho biết, nhà sư Tín Học thời Lý đã cho làm nhiều ván khắc dùng cho việc in kinh Phật ở các chùa. Do sự phát triển của nghề làm giấy và nghề in, năm 1734, Chúa Trịnh Giang đã cho in Tứ Thư Ngũ Kinh và không mua tài liệu này do người Trung Quốc in nữa.

Sự phát triển về sản lượng và chất lượng của giấy Dó vùng Bưởi cùng các địa phương khác đã đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của xã hội nước ta đương thời. Giấy làm ra vừa đẹp lại bền. Vì lẽ này, Vua Lý Cao Tông (1176-1210) đã chọn giấy Dó là một trong những cống vật của Đại Việt đương thời cho Triều đình nhà Tống. Trong dân gian xưa có câu:

Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô
Quanh năm làm giấy cho vua được nhờ .


Nghề làm giấy Dó ở vùng Bưởi đã đi vào ca dao xưa như một niềm tự hào, một nét tinh hoa. Ngày nay, công nghệ hiện đại được áp dụng trong quá trình sản xuất giấy, nên nghề làm giấy Dó không còn duy trì như trước. Mặc dù vậy, giữa ồn ào phố thị, nét duyên của Kẻ Bưởi xưa kia vẫn được người dân nơi đây âm thầm lưu giữ.

Theo Tạp chí Di sản

Tin liên quan

Tin mới hơn

Người đàn ông nửa đời thuần rắn với đôi tay đặc biệt

Người đàn ông nửa đời thuần rắn với đôi tay đặc biệt

LNV - Nổi tiếng với mệnh danh “thủ phủ rắn độc”, xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc (nay thuộc xã Thổ Tang, tỉnh Phú Thọ) có khoảng 60% số hộ dân nuôi rắn và chủ yếu là rắn hổ mang. Ông Phạm Thanh Hưng một người thợ giỏi của làng với hơn 30 năm kinh nghiệm là một trong số những hộ dân đặc biệt đó.
Làng nghề xứ Thanh khởi sắc từ phát triển tiểu thủ công nghiệp

Làng nghề xứ Thanh khởi sắc từ phát triển tiểu thủ công nghiệp

LNV - Các làng nghề truyền thống ở Thanh Hóa đang hồi sinh mạnh mẽ nhờ sự phát triển của ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, góp phần tạo sinh kế bền vững, giữ gìn văn hóa và làm mới diện mạo kinh tế nông thôn.
Các làng nghề ở Hợp Tiến vào vụ quất cảnh tết

Các làng nghề ở Hợp Tiến vào vụ quất cảnh tết

LNV - Xã Hợp Tiến (tỉnh Thanh Hóa) lại rộn ràng bước vào vụ quất cảnh phục vụ thị trường Tết Nguyên đán. Không khí lao động hối hả phủ kín các con đường, khu vườn; đi đến đâu cũng nghe người dân nhắc chuyện chăm quất, tạo thế, dự báo nguồn cung và giá bán trong mùa tết sắp đến. Từ lâu, cây quất không chỉ là nét đẹp trong đời sống tinh thần mà còn là sinh kế quan trọng giúp nhiều hộ dân Hợp Tiến vươn lên khá giả.
Hương thảo mộc của nghệ nhân người Giáy Vũ Thị Xìn: tinh hoa núi rừng giữa mây ngàn Sapa

Hương thảo mộc của nghệ nhân người Giáy Vũ Thị Xìn: tinh hoa núi rừng giữa mây ngàn Sapa

LNV - Giữa thung lũng Tả Van (Sapa), nơi những triền núi bao phủ bởi mây trắng, những nếp nhà người Giáy ẩn hiện sau thửa ruộng bậc thang, một hương thơm đang lặng lẽ lan tỏa, hòa quyện cùng gió mây của đất trời. Đó là hương thơm thảo mộc từ những nén hương do nghệ nhân Vũ Thị Xìn tỉ mỉ tạo nên. Từ căn nhà nhỏ nơi sườn núi, hương thơm ấy đã vượt qua thung lũng Tả Van đại ngàn, trở thành điểm nhấn văn hóa độc đáo tại Bản Mây - quần thể nhà ga cáp treo Sun World Fansipan Legend.
Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

Thái Nguyên là vùng đất gắn với cây chè truyền thống, sản phẩm chè được đem đi khắp các vùng miền và cả thị trường nước ngoài, được những người sành chè và nhiều thị trường khó tính chấp nhận. Tại Thái Nguyên vùng đất Tân Cương từ lâu được biết đến như “đệ nhất danh trà”, nơi hội tụ khí hậu, thổ nhưỡng và bàn tay cần mẫn của người trồng chè để tạo nên những búp trà xanh ngát, mang hương vị đặc trưng khó lẫn. Giữa không gian ấy, Hương Vân Trà nổi lên như một doanh nghiệp đi đầu trong hành trình gìn giữ và phát triển những giá trị trà truyền thống, đồng thời luôn mạnh dạn đổi mới để góp phần tạo nên một sản phẩm nông sản sạch, chất lượng, uy tín, đưa sản phẩm trà Tân Cương (Thái Nguyên) vươn tầm ra thế giới.
Vigo Bát Tràng: Hơi thở mới cho làng gốm nghìn năm tuổi

Vigo Bát Tràng: Hơi thở mới cho làng gốm nghìn năm tuổi

LNV - Bát Tràng ngôi làng gốm cổ kính ven sông Hồng, vốn nổi danh là “công xưởng” gốm sứ hàng đầu Việt Nam. Tuy nhiên, giữa guồng quay sản xuất hối hả, tiềm năng du lịch và giá trị văn hóa cốt lõi của làng nghề đôi khi bị lu mờ. Chính trong bối cảnh đó, một người con ưu tú của làng gốm, anh Lê Đình Tùng, đã nhen nhóm và hiện thực hóa dự án VIGO Bát Tràng, mang đến một hướng mới về trải nghiệm, kết nối và lan tỏa văn hóa Bát Tràng đến cộng đồng trong và ngoài nước.

Tin khác

Nghệ nhân thổi hồn vào những sản phẩm từ mây tre

Nghệ nhân thổi hồn vào những sản phẩm từ mây tre

LNV - Đến số nhà 19, Hồ Phương Lưu (phường Đông Hài – TP Hải Phòng) mọi người sẽ nhìn thấy một cổng vòm hoàn toàn bằng Tre trên có biển hiệu “ WSV - GYM & COFFEE”. Bên trong cống này là một quán cà phê, đồng thời cũng là xưởng chế tác, trưng bày sản phẩm làm từ tre của nghệ nhân Nguyễn Văn Mạnh (43 tuổi), một Nghệ nhân chuyên xây dựng các nhà hàng, quán cà phê và các sản phẩm gia dụng khác rất độc đáo vừa mang tình truyền thống và hiện đại mà nguyên liệu hoàn toàn làm từ mây và tre.
Sẵn sàng cho đề cử làng nghề truyền thống tham gia mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo Thế giới

Sẵn sàng cho đề cử làng nghề truyền thống tham gia mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo Thế giới

LNV - Làng nghề tạc tượng gỗ, tượng sơn son thếp vàng Sơn Đồng thu hút giới sành đồ thờ, trang trí bởi giá trị văn hóa truyền thống, lịch sử. Đây là làng nghề có sức sống bền bỉ theo suốt chiều dài lịch sử đất nước. Có lúc thăng lúc trầm nhưng mạch nguồn nghề truyền thống tạc tượng sơn son thiếp vàng vẫn tồn tại và phát triển.
"Nước mắm Cà Ná" Khánh Hoà 100 năm tinh hoa từ biển

"Nước mắm Cà Ná" Khánh Hoà 100 năm tinh hoa từ biển

LNV - Những con cá cơm ngọt tươi, nẩy thịt, giàu đạm ướp với muối tinh chất tốt nhất vùng Đông Nam Á theo công thức ủ chượp - kéo rút gia truyền đã tích lũy qua trăm năm, tạo nên đặc sản “nước mắm Cà Ná” màu hổ phách với vị đậm đà, thơm ngon đến đến giọt cuối cùng.
Chuyên Mỹ: Vùng đất của những bàn tay giữ lửa nghề truyền thống

Chuyên Mỹ: Vùng đất của những bàn tay giữ lửa nghề truyền thống

LNV - Sau sáp nhập, xã Chuyên Mỹ mới nổi lên như trung tâm nghề thủ công phía Nam Hà Nội, nơi hội tụ nhiều làng nghề lâu đời như khảm trai – sơn mài, da giày, mộc mỹ nghệ, may mặc. Với nền tảng văn hóa đặc sắc và tinh thần sáng tạo bền bỉ, Chuyên Mỹ đang từng bước chuyển mình, hướng tới phát triển công nghiệp văn hóa và du lịch làng nghề.
Hành trình chuyển mình của các làng nghề Việt Nam

Hành trình chuyển mình của các làng nghề Việt Nam

LNV - Làng nghề không chỉ đơn thuần làm ra sản phẩm, mà phải trở thành chủ thể sáng tạo văn hóa: chuyển hóa bản sắc địa phương, lịch sử và mỹ thuật cổ truyền thành những sản phẩm sống động, phù hợp với thị hiếu người dùng. Chất lượng, thiết kế, bao bì, câu chuyện văn hóa… trở thành các yếu tố quan trọng tạo nên giá trị gia tăng cho sản phẩm thủ công.
Khơi mở sức sống mới cho di sản làng nghề Huế

Khơi mở sức sống mới cho di sản làng nghề Huế

LNV - Giữa không gian trầm mặc của Ngự Hà Viên, buổi sáng mùa thu xứ Huế như hiện lên bằng những gam màu cổ kính: mái ngói rêu phong, mặt nước lặng, những đường cong của kiến trúc xưa vẫn đằm mình giữa nhịp sống hiện đại. Trong không gian ấy, hội thảo “Khơi nguồn cảm hứng di sản kiến tạo tương lai làng nghề” diễn ra như một cuộc chuyện trò sâu lắng về cách gìn giữ và đánh thức đời sống mới cho di sản làng nghề cố đô.
‘Xanh hóa’ làng nghề: Hà Nội chuyển mình vì môi trường và tương lai

‘Xanh hóa’ làng nghề: Hà Nội chuyển mình vì môi trường và tương lai

Hà Nội đang đẩy mạnh “xanh hóa” các làng nghề truyền thống thông qua quy hoạch đồng bộ, ứng dụng công nghệ sạch, hoàn thiện chính sách và nâng cao ý thức cộng đồng.
Bảo tồn và phát triển làng nghề gắn với du lịch trong bối cảnh mới

Bảo tồn và phát triển làng nghề gắn với du lịch trong bối cảnh mới

LNV - Hội thảo “Các giải pháp bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với du lịch, giữ gìn các giá trị văn hóa tạo ra đa giá trị cho làng nghề” vừa diễn ra với sự tham dự của đại diện các bộ, ngành, chuyên gia trong nước, quốc tế và các tổ chức nghề thủ công. Sự kiện nhằm chia sẻ kinh nghiệm, giới thiệu mô hình hiệu quả và đề xuất các giải pháp thiết thực để phát huy tiềm năng, lợi thế của làng nghề Việt Nam trong giai đoạn mới.
Người giữ hồn nón lá làng Chuông giữa nhịp sống hiện đại

Người giữ hồn nón lá làng Chuông giữa nhịp sống hiện đại

LNV - Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghề, nghệ nhân Lê Văn Tuy không chỉ làm nên những chiếc nón tinh xảo mà còn bền bỉ lan tỏa giá trị văn hóa làng Chuông ra thế giới.
Đưa khảm trai – sơn mài Chuyên Mỹ lên bản đồ thế giới

Đưa khảm trai – sơn mài Chuyên Mỹ lên bản đồ thế giới

Ngày 17/11, xã Chuyên Mỹ tiếp đón gần 200 đại biểu quốc tế trong khuôn khổ chương trình thẩm định để công nhận làng nghề khảm trai - sơn mài Chuyên Mỹ trở thành thành viên Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới năm 2025.
Nâng tầm làng nghề trong chiến lược phát triển nông thôn bền vững

Nâng tầm làng nghề trong chiến lược phát triển nông thôn bền vững

LNV - Sau 6 năm triển khai Nghị định 52/2018/NĐ-CP và 3 năm thực hiện Chương trình bảo tồn, phát triển làng nghề theo Quyết định 801/QĐ-TTg, khu vực làng nghề nông thôn đạt nhiều kết quả nổi bật nhưng cũng đối mặt không ít thách thức về nguyên liệu, công nghệ, thị trường và nhân lực.
Chuyên Mỹ khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn năm 2025

Chuyên Mỹ khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn năm 2025

Tối 15/11, UBND xã Chuyên Mỹ cùng Sở Nông nghiệp & Môi trường Hà Nội tổ chức khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tham dự khai mạc có đại diện các sở, ban, ngành Thành phố và địa phương lân cận.
Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Việt Nam gắn với Du lịch và Giá trị Văn hóa

Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Việt Nam gắn với Du lịch và Giá trị Văn hóa

Trong bối cảnh nhiều làng nghề truyền thống đang đối mặt với nguy cơ mai một, Hội thảo “Các giải pháp bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với du lịch, giữ gìn các giá trị văn hóa, tạo ra đa giá trị cho làng nghề” diễn ra nhằm tìm lời giải cho bài toán vừa gìn giữ bản sắc vừa nâng cao giá trị kinh tế.
Làng miến dong Bình Lư vươn mình từ đặc sản quê hương

Làng miến dong Bình Lư vươn mình từ đặc sản quê hương

LNV - Những ngày này, tại xã Bình Lư (tỉnh Lai Châu), không khí sản xuất miến dong trở nên rộn ràng hơn bao giờ hết. Từ sáng sớm, dọc các con ngõ nhỏ, từng mẻ miến mới được đưa ra phơi, phủ trắng những khoảng sân, báo hiệu một mùa dong riềng bội thu và một năm sản xuất đầy kỳ vọng.
Khai mạc Festival Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Quốc tế 2025

Khai mạc Festival Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Quốc tế 2025

Khai mạc Festival Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Quốc tế 2025, sự kiện quy mô lớn quy tụ những sản phẩm tinh hoa cùng hàng trăm nghệ nhân trong và ngoài nước. Bên cạnh trưng bày và trình diễn nghề, Festival còn tạo ra không gian kết nối thương mại, giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm nhằm thúc đẩy phát triển bền vững cho các làng nghề truyền thống.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Người đàn ông nửa đời thuần rắn với đôi tay đặc biệt

Người đàn ông nửa đời thuần rắn với đôi tay đặc biệt

LNV - Nổi tiếng với mệnh danh “thủ phủ rắn độc”, xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc (nay thuộc xã Thổ Tang, tỉnh Phú Thọ) có khoảng 60% số hộ dân nuôi rắn và chủ yếu là rắn hổ mang. Ông Phạm Thanh Hưng một người thợ giỏi của làng với hơn 30 năm
Sắp diễn ra Hội nghị kết nối cung cầu Thanh Hóa 2025

Sắp diễn ra Hội nghị kết nối cung cầu Thanh Hóa 2025

LNV - Hội nghị kết nối cung – cầu và trưng bày nông sản, thực phẩm an toàn tỉnh Thanh Hóa năm 2025 sẽ diễn ra từ ngày 11 đến 15/12, quy tụ hơn 200 doanh nghiệp và 300 gian hàng. Sự kiện được kỳ vọng tạo động lực mạnh mẽ cho tiêu thụ nông sản, phát triển O
Khai mạc Hội chợ triển lãm hàng công nghiệp nông thôn 2025

Khai mạc Hội chợ triển lãm hàng công nghiệp nông thôn 2025

LNV - Tối 26/11, tại Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc (tỉnh Bắc Ninh), Hội chợ triển lãm hàng công nghiệp nông thôn năm 2025 đã chính thức khai mạc. Đây là sự kiện quan trọng cấp quốc gia nằm trong chương trình khuyến công quốc gia năm 2025 do Bộ Công Thương ch
Tạo động lực mới cho kinh tế xã Nông Cống

Tạo động lực mới cho kinh tế xã Nông Cống

LNV - Dịch vụ, thương mại và ngành nghề nông thôn đang trở thành điểm sáng trong bức tranh phát triển kinh tế của xã Nông Cống, góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng đời sống của người dân.
Làng nghề xứ Thanh khởi sắc từ phát triển tiểu thủ công nghiệp

Làng nghề xứ Thanh khởi sắc từ phát triển tiểu thủ công nghiệp

LNV - Các làng nghề truyền thống ở Thanh Hóa đang hồi sinh mạnh mẽ nhờ sự phát triển của ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, góp phần tạo sinh kế bền vững, giữ gìn văn hóa và làm mới diện mạo kinh tế nông thôn.
Giao diện di động