Hà Nội: 25°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc sống Làng nghề và kinh tế nông thôn

LNV - Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta, từ một nền nông nghiệp lạc hậu đi lên, cư dân nông thôn chiếm đa số trong dân số cả nước, vấn đề nông nghiệp nông dân, nông thôn luôn có ý nghĩa chiến lược. Từ nhiều năm nay, Chương trình Xây dựng nông thôn mới đã thu được những kết quả quan trọng. Ngày nay, khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, Báo cáo Chính trị Đại hội XIII đã nêu ra khái niệm “Kinh tế nông thôn”, nhấn mạnh “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới“ và “Tập trung phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ môi trường sinh thái”. Đây là một chủ trương mới rất quan trọng, bài này nêu lên một số nhận thức bước đầu về vấn đề này và đề xuất một số ý kiến về hoạt động của làng nghề chúng ta để cùng nghiên cứu, trao đổi.
Từ "Tam nông" đến "Kinh tế nông thôn"

Từ nhiều năm trước đây, vấn đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn (thường gọi là “Tam nông”) đã được ghi vào nhiều nghị quyết và được triển khai với nhiều biện pháp mạnh mẽ. Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã nhấn mạnh: "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng”. Hội nghị lần thứ bảy Trung ương khóa X đã ra Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 5/8/2008 chuyên về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó khẳng định: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước".

Để thực hiện Nghị quyết 26, từ năm 2010, Chính phủ đã đề ra Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới. Đến nay, việc thực hiện Chương trình đã đạt được những kết quả quan trọng. Bộ mặt nông thôn có bước khởi sắc, từng bước gắn phát triển nông thôn với cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng ngành nông nghiệp, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn. Đến tháng 6//2020, cả nước đã có 5.177 xã (58,2%) đạt chuẩn nông thôn mới, vượt 8,2% so với mục tiêu đã đề ra cho năm 2020; 09 tỉnh/thành phố có 100% số xã đạt chuẩn; 127/664 đơn vị cấp huyện thuộc 45 tỉnh/thành phố được công nhận đạt chuẩn và 02 tỉnh (Nam Định, Đồng Nai) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Việc thực hiện Chương trình đã thực sự thành một phong trào phát triển rộng khắp, liên tục; Ngày càng có thêm nhiều xã đạt chuẩn ở mức cao hơn. Đến nay (5/2021), đã có 5.248 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 168 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 9 xã nông thôn mới kiểu mẫu.


Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc thực hiện Chương trình này thời gian qua còn một số yếu kém, đó là: (i) Một số địa phương chưa thực sự quan tâm tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, chưa chú trọng đến phát triển kinh tế nông thôn; (ii) Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, thu mua, tiêu thụ nông sản còn chưa đồng bộ; (iii) Áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp còn hạn chế; (iv) Ở một số địa phương, vai trò chủ thể của cộng đồng cư dân nông thôn chưa thực sự được đề cao; (v) Các yếu tố văn hóa dân tộc, truyền thống văn hóa vùng, miền chưa được coi trọng bảo tồn và phát huy.

Vì vậy, khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, công cuộc xây dựng nông thôn cần có tư duy mới với những nội dung mới như Đại hội XIII đã đề ra. Được biết, ngày 26/3/2021, Ban Bí thư đã ra Quyết định số 02-QĐ/TW về việc thành lập Ban Chỉ đạo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26 và xây dựng nghị quyết thay thế. Thông tin này càng cho thấy ý nghĩa quan trọng của nông thôn đối với sự phát triển của đất nước ta trong thời gian tới.

Từ thực tiễn, có thể thấy đang có những yêu cầu mới trong công cuộc xây dựng nông thôn nước ta. Đó là: (i) Sự phát triển của bản thân các ngành kinh tế trong nông thôn cần có những đổi mới căn cơ hơn trong sản xuất kinh doanh, từ mô hình tăng trưởng đến cơ cấu kinh tế; (ii) Về thị trường: Thị trường trong nước với 98 triệu dân đang có những yếu cầu mới cao hơn. Trong toàn cầu hóa ngày nay, thị trường ngoài nước cũng có những yêu cầu cao hơn; (iii) Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 đang tạo ra những công nghệ, kỹ thuật hiện đại thúc đẩy nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành, nghề cũng như toàn bộ nền kinh tế; (iv) Đại dịch Covid-19 còn đang diễn biến phức tạp, cũng đòi hỏi cách làm mới để thực hiện mục tiêu kép vừa phát triển kinh tế - xã hội vừa phòng chống dịch có hiệu quả.

Yêu cầu đối với Làng nghề

Những yêu cầu mới ấy đang đòi hỏi tư duy mới, nội dung và cách thực hiện mới trong phát triển kinh tế nông thôn như Đại hội XIII đã chủ trương. Làng nghề chúng ta cũng đang đứng trước những yêu cầu mới đòi hỏi làng nghề những chuyển biến thích ứng. Từ thực tiễn, xin nêu lên một số nội dung tóm tắt như sau.

Trước hết là về mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đổi mới, chuyển mạnh sang mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng năng suất, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, đồng thời chuyển đổi cơ cấu các ngành, các thành phần, các loại hình doanh nghiệp và thực hiện sự liên kết giữa các loại hình ấy. Kinh tế nông thôn cũng phải tập trung nâng cao năng suất lao động, đẩy mạnh chế biến sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng. Việc ứng dụng rộng rãi công nghệ 4.0 sẽ tạo điều kiện thuận lợi rất lớn trong thực hiện các mục tiêu nói trên.

Trong các làng nghề, cũng cần đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển mạnh sang sản xuất kinh doanh với năng suất, chất lượng cao hơn. Theo xu thế cách mạng công nghiệp 4.0, các làng nghề có thể ứng dụng công nghệ số vào thiết kế mẫu mã sản phẩm; Trong phát triển, liên kết chuỗi giá trị; Ứng dụng công cụ trí tuệ nhân tạo, công nghệ số trong một số khâu sản xuất sản phẩm thủ công; Ứng dụng công nghệ số trong quảng cáo, thương mại điện tử…

Hai là, phát huy những giá trị của văn hóa của nông thôn. Trong xây dựng kinh tế nông thôn, bản sắc văn hoá dân tộc phải được bảo tồn và phát huy, nâng lên một tầm cao mới thích ứng với sự phát triển của đất nước, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Văn hóa phải thực sự là nền tảng tinh thần của nông thôn mới: Tinh thần đoàn kết, hòa hợp, khoan dung, là ý chí vươn lên khắc phục khó khăn, là tinh thần hiếu học, tôn trọng hiền tài, cung cách ứng xử văn hóa trong sản xuất kinh doanh, từ trong đời sống xã hội, làng xã cho đến gìn giữ nếp nhà của mỗi gia đình, dòng họ, v.v…

Làng nghề nước ta, nhất là làng nghề truyền thống là một kho báu, một bảo tàng về di sản văn hóa truyền thống, không chỉ mang đặc sắc của dân tộc mà còn mang đặc sắc của từng vùng, miền, thậm chí của từng nghệ nhân. Kết tinh trong không gian tồn tại của mỗi làng nghề truyền thống là văn hóa sản xuất, văn hóa tinh thần, là nếp ăn, nếp ở, phong tục tập quán... Do đó, mỗi làng nghề là một không gian văn hóa giàu bản sắc, cũng là một bức tranh thu nhỏ về văn hóa làng Việt. Nhiều làng nghề còn gắn với danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử các vị tổ nghề. Thế mạnh này cần được phát huy, góp sức bảo tồn, chấn hưng văn hóa trong kinh tế nông thôn.

Ba là, về cơ cấu kinh tế nông thôn, nông nghiệp vẫn là chủ yếu, phải trở thành nền sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái. Cùng với nông nghiệp là công nghiệp, nhất là tiểu thủ công chế biến sản phẩm nống, lâm, thủy sản; Là các ngành dịch vụ. Trong nông thôn, đang có các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Điểm mới ở đây là sự gắn kết giữa các ngành sản xuất và dịch vụ (thường gọi là sự liên kết giữa các “nhà”: Nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà băng – ngân hàng), đồng thời hình thành các chuỗi giá trị nhằm nâng cao giá trị hàng hóa nông sản và mở rộng thị trường.

Là một bộ phận quan trọng trong kinh tế nông thôn, làng nghề đang sản xuất nhiều mặt hàng thủ công phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tiềm năng còn rất lớn. Nhiều sản phẩm làng nghề đã là sản phẩm có giá trị mỹ thuật, kỹ thuật cao, được công nhận là di sản văn hóa; Nghề thủ công đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoa phi vật thể. Theo xu hướng chung của xã hội hiện đại, nghề thủ công đang được ca ngợi vì tài năng sáng tạo vô tận của nghệ nhân; Đồng thời làng nghề đang là nơi thu hút khách tham quan trong tìm hiểu, trải nghiệm, mở ra triển vọng lớn trong du lịch làng nghề.
Bốn là, về môi trường: Bảo vệ môi trường sinh thái là một nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Phải khai thác, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; Xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường, cải tạo cảnh quan môi trường, phát triển các mô hình thôn, xóm xanh, sạch, đẹp. Đặc biệt quan tâm những nhiệm vụ cụ thể như: Bảo đảm nước sinh hoạt, xử lý nước thải, phân loại và xử lý rác, chất thải rắn. Đẩy mạnh xử lý môi trường ở những nơi gây ô nhiễm nghiêm trọng (làng nghề, bãi tập trung chôn lấp, xử lý rác, nước thải...)

Làng nghề chúng ta cũng cần tiếp tục thực hiện những biện pháp cụ thể để xử lý trước hết ở những làng nghề ô nhiễm nặng về không khí, về nước, chất thải đang gây ra nhiều bệnh tật, làm giảm tuổi thọ của cư dân làng nghề. Cần bảo vệ môi trường ngay từ mỗi hộ gia đình, khơi thông cống rãnh, xử lý chất thải trong làng, thực hiện việc di chuyển cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ các hộ ra các khu, cụm công nghiệp, v.v…để xử lý ô nhiễm một cách cơ bản hơn.

Tóm lại, qua những nội dung trên đây - những yêu cầu đang được đặt ra cho kinh tế nông thôn mà việc phát triển gắn liền với xây dựng nông thôn mới, có thể hình dung bộ mặt mới của nông thôn. Đó là (i) một nông thôn phát triển về kinh tế, có cơ cấu hợp lý với các ngành, nghề, các trang trại, doanh nghiệp, hộ kinh doanh; Những cơ sở sản xuất kinh doanh này đang tích cực ứng dụng công nghệ 4.0 và ngày càng lớn mạnh, tạo nên bước phát triển mới về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của kinh tế và môi trường xanh, sạch, đẹp của nông thôn, hình thành “một miền quê đáng sống”; (ii) Một nông thôn mà cư dân là chủ thể, có đủ các quyền trong xây dựng và giám sát việc thực hiện các cơ chế, chính sách liên quan nghĩa vụ và lợi ích chính đáng của mình; Trong phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất kinh doanh; Trong tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; Trong xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá, môi trường. Cư dân nông thôn được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc; Tầng lớp trung lưu phát triển, khoảng cách giàu nghèo trong nông thôn dược thu hẹp..

Phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới là một vấn đề mới, có nội dung rất rộng, bài viết này mới gợi lên một số ý kiến ban đầu. Làng nghề chúng ta bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của cư dân làng nghề sẽ là những đóng góp quan trọng trong phát triển
kinh tế nông thôn.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Kỳ họp thứ 26 HĐND TP Hà Nội sẽ xem xét 26 nội dung, với nhiều dự án hạ tầng quy mô lớn

Kỳ họp thứ 26 HĐND TP Hà Nội sẽ xem xét 26 nội dung, với nhiều dự án hạ tầng quy mô lớn

LNV - Ngày 16-9, HĐND thành phố Hà Nội đã có Thông báo số 38/TB- HĐND về nội dung, thời gian và công tác chuẩn bị tổ chức kỳ họp thứ 26 (kỳ họp chuyên đề) của HĐND thành phố khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026.
Thủ tướng: Từ năm học 2026-2027 triển khai bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc

Thủ tướng: Từ năm học 2026-2027 triển khai bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc

LNV - Với những chỉ tiêu cụ thể: bảo đảm chi tối thiểu 5% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, trong đó 3% cho giáo dục đại học; xây dựng thêm 100 trường phổ thông dân tộc nội trú tại khu vực biên giới, miền núi; từ năm học 2026–2027 triển khai sách
Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

LNV - Thời gian qua, xã Chiêm Hóa (Tuyên Quang) đã có bước phát triển vượt bậc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thương mại – dịch vụ, tài chính – tín dụng, ứng dụng công nghệ số phát triển mạnh, góp phần nâng cao đời s
OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OVN - Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được xác định là một trong những giải pháp quan trọng giúp các địa phương phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng sẵn có, đồng thời xây dựng thương hiệu cho sản phẩm đặc trưng. Tại Phú Thọ, sau sáp nhập, tỉnh
Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

OVN - An Giang – vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc hùng vĩ của núi non, rừng tràm và những cánh đồng lúa bạt ngàn, mà còn lưu giữ trong mình kho tàng ẩm thực độc đáo. Giữa muôn vàn sản vật địa phương, nước mắm Huỳnh Khoa đư
Giao diện di động