Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc sống Làng nghề và kinh tế nông thôn

LNV - Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta, từ một nền nông nghiệp lạc hậu đi lên, cư dân nông thôn chiếm đa số trong dân số cả nước, vấn đề nông nghiệp nông dân, nông thôn luôn có ý nghĩa chiến lược. Từ nhiều năm nay, Chương trình Xây dựng nông thôn mới đã thu được những kết quả quan trọng. Ngày nay, khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, Báo cáo Chính trị Đại hội XIII đã nêu ra khái niệm “Kinh tế nông thôn”, nhấn mạnh “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới“ và “Tập trung phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ môi trường sinh thái”. Đây là một chủ trương mới rất quan trọng, bài này nêu lên một số nhận thức bước đầu về vấn đề này và đề xuất một số ý kiến về hoạt động của làng nghề chúng ta để cùng nghiên cứu, trao đổi.
Từ "Tam nông" đến "Kinh tế nông thôn"

Từ nhiều năm trước đây, vấn đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn (thường gọi là “Tam nông”) đã được ghi vào nhiều nghị quyết và được triển khai với nhiều biện pháp mạnh mẽ. Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã nhấn mạnh: "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng”. Hội nghị lần thứ bảy Trung ương khóa X đã ra Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 5/8/2008 chuyên về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó khẳng định: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước".

Để thực hiện Nghị quyết 26, từ năm 2010, Chính phủ đã đề ra Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới. Đến nay, việc thực hiện Chương trình đã đạt được những kết quả quan trọng. Bộ mặt nông thôn có bước khởi sắc, từng bước gắn phát triển nông thôn với cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng ngành nông nghiệp, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn. Đến tháng 6//2020, cả nước đã có 5.177 xã (58,2%) đạt chuẩn nông thôn mới, vượt 8,2% so với mục tiêu đã đề ra cho năm 2020; 09 tỉnh/thành phố có 100% số xã đạt chuẩn; 127/664 đơn vị cấp huyện thuộc 45 tỉnh/thành phố được công nhận đạt chuẩn và 02 tỉnh (Nam Định, Đồng Nai) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Việc thực hiện Chương trình đã thực sự thành một phong trào phát triển rộng khắp, liên tục; Ngày càng có thêm nhiều xã đạt chuẩn ở mức cao hơn. Đến nay (5/2021), đã có 5.248 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 168 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 9 xã nông thôn mới kiểu mẫu.


Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc thực hiện Chương trình này thời gian qua còn một số yếu kém, đó là: (i) Một số địa phương chưa thực sự quan tâm tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, chưa chú trọng đến phát triển kinh tế nông thôn; (ii) Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, thu mua, tiêu thụ nông sản còn chưa đồng bộ; (iii) Áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp còn hạn chế; (iv) Ở một số địa phương, vai trò chủ thể của cộng đồng cư dân nông thôn chưa thực sự được đề cao; (v) Các yếu tố văn hóa dân tộc, truyền thống văn hóa vùng, miền chưa được coi trọng bảo tồn và phát huy.

Vì vậy, khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, công cuộc xây dựng nông thôn cần có tư duy mới với những nội dung mới như Đại hội XIII đã đề ra. Được biết, ngày 26/3/2021, Ban Bí thư đã ra Quyết định số 02-QĐ/TW về việc thành lập Ban Chỉ đạo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26 và xây dựng nghị quyết thay thế. Thông tin này càng cho thấy ý nghĩa quan trọng của nông thôn đối với sự phát triển của đất nước ta trong thời gian tới.

Từ thực tiễn, có thể thấy đang có những yêu cầu mới trong công cuộc xây dựng nông thôn nước ta. Đó là: (i) Sự phát triển của bản thân các ngành kinh tế trong nông thôn cần có những đổi mới căn cơ hơn trong sản xuất kinh doanh, từ mô hình tăng trưởng đến cơ cấu kinh tế; (ii) Về thị trường: Thị trường trong nước với 98 triệu dân đang có những yếu cầu mới cao hơn. Trong toàn cầu hóa ngày nay, thị trường ngoài nước cũng có những yêu cầu cao hơn; (iii) Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 đang tạo ra những công nghệ, kỹ thuật hiện đại thúc đẩy nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành, nghề cũng như toàn bộ nền kinh tế; (iv) Đại dịch Covid-19 còn đang diễn biến phức tạp, cũng đòi hỏi cách làm mới để thực hiện mục tiêu kép vừa phát triển kinh tế - xã hội vừa phòng chống dịch có hiệu quả.

Yêu cầu đối với Làng nghề

Những yêu cầu mới ấy đang đòi hỏi tư duy mới, nội dung và cách thực hiện mới trong phát triển kinh tế nông thôn như Đại hội XIII đã chủ trương. Làng nghề chúng ta cũng đang đứng trước những yêu cầu mới đòi hỏi làng nghề những chuyển biến thích ứng. Từ thực tiễn, xin nêu lên một số nội dung tóm tắt như sau.

Trước hết là về mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đổi mới, chuyển mạnh sang mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng năng suất, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, đồng thời chuyển đổi cơ cấu các ngành, các thành phần, các loại hình doanh nghiệp và thực hiện sự liên kết giữa các loại hình ấy. Kinh tế nông thôn cũng phải tập trung nâng cao năng suất lao động, đẩy mạnh chế biến sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng. Việc ứng dụng rộng rãi công nghệ 4.0 sẽ tạo điều kiện thuận lợi rất lớn trong thực hiện các mục tiêu nói trên.

Trong các làng nghề, cũng cần đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển mạnh sang sản xuất kinh doanh với năng suất, chất lượng cao hơn. Theo xu thế cách mạng công nghiệp 4.0, các làng nghề có thể ứng dụng công nghệ số vào thiết kế mẫu mã sản phẩm; Trong phát triển, liên kết chuỗi giá trị; Ứng dụng công cụ trí tuệ nhân tạo, công nghệ số trong một số khâu sản xuất sản phẩm thủ công; Ứng dụng công nghệ số trong quảng cáo, thương mại điện tử…

Hai là, phát huy những giá trị của văn hóa của nông thôn. Trong xây dựng kinh tế nông thôn, bản sắc văn hoá dân tộc phải được bảo tồn và phát huy, nâng lên một tầm cao mới thích ứng với sự phát triển của đất nước, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Văn hóa phải thực sự là nền tảng tinh thần của nông thôn mới: Tinh thần đoàn kết, hòa hợp, khoan dung, là ý chí vươn lên khắc phục khó khăn, là tinh thần hiếu học, tôn trọng hiền tài, cung cách ứng xử văn hóa trong sản xuất kinh doanh, từ trong đời sống xã hội, làng xã cho đến gìn giữ nếp nhà của mỗi gia đình, dòng họ, v.v…

Làng nghề nước ta, nhất là làng nghề truyền thống là một kho báu, một bảo tàng về di sản văn hóa truyền thống, không chỉ mang đặc sắc của dân tộc mà còn mang đặc sắc của từng vùng, miền, thậm chí của từng nghệ nhân. Kết tinh trong không gian tồn tại của mỗi làng nghề truyền thống là văn hóa sản xuất, văn hóa tinh thần, là nếp ăn, nếp ở, phong tục tập quán... Do đó, mỗi làng nghề là một không gian văn hóa giàu bản sắc, cũng là một bức tranh thu nhỏ về văn hóa làng Việt. Nhiều làng nghề còn gắn với danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử các vị tổ nghề. Thế mạnh này cần được phát huy, góp sức bảo tồn, chấn hưng văn hóa trong kinh tế nông thôn.

Ba là, về cơ cấu kinh tế nông thôn, nông nghiệp vẫn là chủ yếu, phải trở thành nền sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái. Cùng với nông nghiệp là công nghiệp, nhất là tiểu thủ công chế biến sản phẩm nống, lâm, thủy sản; Là các ngành dịch vụ. Trong nông thôn, đang có các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Điểm mới ở đây là sự gắn kết giữa các ngành sản xuất và dịch vụ (thường gọi là sự liên kết giữa các “nhà”: Nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà băng – ngân hàng), đồng thời hình thành các chuỗi giá trị nhằm nâng cao giá trị hàng hóa nông sản và mở rộng thị trường.

Là một bộ phận quan trọng trong kinh tế nông thôn, làng nghề đang sản xuất nhiều mặt hàng thủ công phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tiềm năng còn rất lớn. Nhiều sản phẩm làng nghề đã là sản phẩm có giá trị mỹ thuật, kỹ thuật cao, được công nhận là di sản văn hóa; Nghề thủ công đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoa phi vật thể. Theo xu hướng chung của xã hội hiện đại, nghề thủ công đang được ca ngợi vì tài năng sáng tạo vô tận của nghệ nhân; Đồng thời làng nghề đang là nơi thu hút khách tham quan trong tìm hiểu, trải nghiệm, mở ra triển vọng lớn trong du lịch làng nghề.
Bốn là, về môi trường: Bảo vệ môi trường sinh thái là một nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Phải khai thác, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; Xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường, cải tạo cảnh quan môi trường, phát triển các mô hình thôn, xóm xanh, sạch, đẹp. Đặc biệt quan tâm những nhiệm vụ cụ thể như: Bảo đảm nước sinh hoạt, xử lý nước thải, phân loại và xử lý rác, chất thải rắn. Đẩy mạnh xử lý môi trường ở những nơi gây ô nhiễm nghiêm trọng (làng nghề, bãi tập trung chôn lấp, xử lý rác, nước thải...)

Làng nghề chúng ta cũng cần tiếp tục thực hiện những biện pháp cụ thể để xử lý trước hết ở những làng nghề ô nhiễm nặng về không khí, về nước, chất thải đang gây ra nhiều bệnh tật, làm giảm tuổi thọ của cư dân làng nghề. Cần bảo vệ môi trường ngay từ mỗi hộ gia đình, khơi thông cống rãnh, xử lý chất thải trong làng, thực hiện việc di chuyển cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ các hộ ra các khu, cụm công nghiệp, v.v…để xử lý ô nhiễm một cách cơ bản hơn.

Tóm lại, qua những nội dung trên đây - những yêu cầu đang được đặt ra cho kinh tế nông thôn mà việc phát triển gắn liền với xây dựng nông thôn mới, có thể hình dung bộ mặt mới của nông thôn. Đó là (i) một nông thôn phát triển về kinh tế, có cơ cấu hợp lý với các ngành, nghề, các trang trại, doanh nghiệp, hộ kinh doanh; Những cơ sở sản xuất kinh doanh này đang tích cực ứng dụng công nghệ 4.0 và ngày càng lớn mạnh, tạo nên bước phát triển mới về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của kinh tế và môi trường xanh, sạch, đẹp của nông thôn, hình thành “một miền quê đáng sống”; (ii) Một nông thôn mà cư dân là chủ thể, có đủ các quyền trong xây dựng và giám sát việc thực hiện các cơ chế, chính sách liên quan nghĩa vụ và lợi ích chính đáng của mình; Trong phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất kinh doanh; Trong tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; Trong xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá, môi trường. Cư dân nông thôn được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc; Tầng lớp trung lưu phát triển, khoảng cách giàu nghèo trong nông thôn dược thu hẹp..

Phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới là một vấn đề mới, có nội dung rất rộng, bài viết này mới gợi lên một số ý kiến ban đầu. Làng nghề chúng ta bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của cư dân làng nghề sẽ là những đóng góp quan trọng trong phát triển
kinh tế nông thôn.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.

Tin khác

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

LNV - Tạp chí Làng Nghề Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng” của đồng chí Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH T.W Đảng cộng sản Việt Nam.
Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

LNV - Trải qua hàng trăm năm lịch sử, các làng nghề không chỉ mang nhiều giá trị về mặt kinh tế mà còn là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc và mang đậm dấu ấn của kiến trúc truyền thống Việt Nam. Khai thác tiềm năng của làng nghề để thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch đang được coi là một trong những hướng đi triển vọng của đất nước. Tuy nhiên, làng nghề truyền thống trong thời kỳ đổi mới cũng đang đặt ra những thách thức đặc biệt là bảo tồn và phát triển về không gian kiến trúc.
Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam

LNV - Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam từ lâu đã được biết đến với những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa, nghệ thuật truyền thống, thể hiện tài hoa của những nghệ nhân làng nghề. Tuy nhiên, khi bước vào thời đại hội nhập và toàn cầu hóa, để giữ vững được thị trường trong nước và cạnh tranh với các sản phẩm quốc tế, các doanh nghiệp và làng nghề phải tìm ra cách tiếp cận hiệu quả hơn thông qua chiến lược marketing xuất khẩu.
Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em, giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có những hướng đi bền vững.
Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề

LNV - Vượt ra khỏi vai trò vỏ bọc bên ngoài, bao bì sản phẩm còn là câu chuyện thương hiệu và thông điệp mà nhà sản xuất muốn gửi gắm. Vì vậy, thiết kế bao bì không chỉ đòi hỏi sự sáng tạo, mà còn cần sự hiểu biết sâu sắc về sản phẩm, thị trường và khách hàng.
Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề

LNV - Dù đã đưa ra nhiều biện pháp, giải pháp, quy định đối với các cơ sở sản xuất tại làng nghề nhưng việc bảo vệ môi trường vẫn đang gây nhiều khó khăn cho các cấp chính quyền quản lý. Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại làng nghề cũng đặt ra nhiều thách thức. Trong đó, việc gia tăng phát triển cả về số lượng làng nghề và loại ngành nghề đã khiến ô nhiễm môi trường cũng ngày càng cao, nhiều nơi vượt quá tầm kiểm soát của các cấp chính quyền quản lý.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao

LNV - Nhân dịp Tết Ất Tỵ 2025, ông Đặng Khánh Duy, Tổng giám đốc điều hành (CEO) Công ty TNHH Tân Nhiên - Chủ thể đầu tiên của tỉnh Tây Ninh có sản phẩm đạt OCOP 5 sao đã có những chia sẻ với Tạp chí Làng nghề Việt Nam.
Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ

LNV - Với những giá trị của hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) trên mọi phương diện từ những giá trị của văn hóa dân tộc, mỹ thuật, sáng tạo, trí tuệ, tri thức và kinh tế… có thể thấy đây là một hàng hóa có nhiều giá trị lớn đối với cuộc sống con người và tiềm năng góp phần làm giàu mạnh đất nước.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam

Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam

LNV - Trong tiến trình lịch sử dân tộc, các tôn giáo không chỉ đóng vai trò tín ngưỡng mà còn là những trụ cột tinh thần, tham gia vào việc ổn định xã hội, điều tiết đời sống văn hóa và phản ánh tâm thế con người trước các biến động lịch sử. Cuốn sách “Qu
Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam

Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam

LNV - Trong hệ thống thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt, những công trình như đình, chùa, đền, miếu đã được nghiên cứu sâu rộng và trở thành biểu tượng quen thuộc trong tâm thức cộng đồng. Tuy nhiên, các quán Đạo giáo, nơi thờ phụng các vị thần
Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị

Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị

LNV - Khi các thiết chế tôn giáo quen thuộc như đình, chùa, đền, miếu đã khẳng định vị thế vững chắc trong nhận thức cộng đồng và chính sách bảo tồn di sản, thì quán Đạo giáo là một loại hình di tích gắn liền với sự du nhập và bản địa hóa của Đạo giáo ở V
Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước

Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước

LNV - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn kiện pháp lý có giá trị cao nhất, phản ánh ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đồng thời là nền tảng chính trị, pháp lý cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP

Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP

OVN - Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến tháng 6-2025, cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm) đạt 3 sao trở lên, tăng 12.056 sản phẩm so với năm 2020. Trong đó, có 73,2% sản phẩm 3 sao, 26,4% sản phẩm 4 sao, 79 sản
Giao diện di động