Hà Nội: 32°C Hà Nội
Đà Nẵng: 31°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 31°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 32°C Thừa Thiên Huế

Tiềm năng sáng tạo của nghề thủ công trong đại dịch Covid -19

LNV - Trong lịch sử dân tộc ta, nghề thủ công xuất hiện từ rất sớm và ngày càng phát triển, trở thành di sản văn hóa phi vật thể, góp phần quan trọng vào kho tàng văn hóa của làng nghề và của cả dân tộc. Cho đến nay, sức sáng tạo mạnh mẽ, vô tận của nghề thủ công đã trở thành tài sản và niềm tự hào của làng nghề nước ta. Trong tình hình đại dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, việc phát huy sức sáng tạo này lại càng cần thiết để làng nghề thích nghi, tồn tại đồng thời chuẩn bị cho bước phát triển mới trong thời gian tới. Nghiên cứu về sức sáng tạo của nghề thủ công là một đề tài rất quan trọng song rất rộng, bài này chỉ gợi lên một số vấn đề để cùng trao đổi.
SÁNG TẠO KHÔNG NGỪNG THEO DÒNG LỊCH SỬ

Theo các kết quả nghiên cứu khảo cổ học, dân tộc ta đã trải qua những bước tiến hóa quan trọng trong chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước; Trong tiến trình ấy, con người Việt đã biết dùng các công cụ chế tác từ nguyên liệu tại chỗ dùng cho lao động sản xuất và chống giặc, giữ nước; Nghề thủ công bắt đầu ra đời từ đó.

Thời tiền sử được ghi nhận từ thời đại Đồ đá cũ mà điển hình là Văn hóa Tràng An (23.000 – 1.000 năm trước Công nguyên) đến thời đại Đồ đá mới, điển hình là Văn hóa Hòa Bình (12.000 – 10.000 năm TCN), thời đại Đồ đồng đá, có Văn hóa Hạ Long (3.000 – 1.500 năm TCN), thời đại Đồ đồng với Văn hóa Gò Mun (1.000 – 600 năm TCN), thời đại Đồ sắt với Văn hóa Sa Huỳnh (1.000 – 200 năm TCN), Văn hóa Đông Sơn (800 – 200 năm TCN) và Văn hóa Ốc Eo (630 – 1 năm TCN). Qua các thời đại đó, có thể thấy nghề thủ công đã xuất hiện từ khi người Việt biết đẽo, gọt, mài, dũa các miếng đá thành dụng cụ trong đời sống, rồi tiến dần lên làm ra những công cụ bằng sắt, đồng dùng trong sinh hoạt, những vũ khí chống ngoại xâm. Con người cũng tiến lên làm đẹp cho mình bằng những sản phẩm đeo vào tay, vào cổ, v.v… ngay từ thời văn hóa Phùng Nguyên (cách đây gần 4.000 đến 3.500 năm). Đến thời Gò Mun (thời đại Đồng Thau), nhiều công cụ sinh hoạt được đúc bằng thau phát triển. Thời kỳ Đồ sắt mà tiêu biểu là Văn hóa Đông Sơn đã khẳng định sự phát triển của nghề đúc đồng, nổi bật là các trống đồng Đông Sơn, với quy mô đồ sộ, hình dáng cân đối, hài hoà thể hiện một trình độ rất cao về kỹ năng và nghệ thuật, đặc biệt là những hoa văn phong phú được khắc họa, miêu tả chân thật đời sống của con người thời kỳ dựng nước. Đến thời kỳ Lý, Trần (thế kỷ X – XV), nghề thủ công phát triển rực rỡ, cực thịnh với sự phát triển của nghề gốm, từ những vật liệu xây dựng, công cụ lao động, dụng cụ để chứa đựng, đun nấu, ăn uống tiến đến những sản phẩm trang trí, những tác phẩm có giá trị mỹ thuật ngày càng cao, nghề gốm đã thành một nghệ thuật tạo hình riêng biệt, phong phú với nhiều loại men gốm đẹp, quý hiếm, để lại cho đời sau những kiểu dáng sáng tạo, sắc men và hoa văn độc đáo.


Nhìn lại quá khứ, chính nghề thủ công, bằng kỹ năng biến các loại nguyên liệu (đá, đồng, sắt, xương, gỗ...) thành công cụ sản xuất, hàng tiêu dùng, vật liệu cho xây dựng... đã tạo ra sự phát triển của nhân loại. Điều đó giải thích vì sao các thời kỳ lịch sử của nhân loại đã được đặt tên theo các nguyên liệu được sử dụng trong sản xuất, ví dụ như những thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt... Kho tàng về nghề thủ công đó đã lưu truyền cho đến ngày nay; Càng sử dụng, kho tàng đó càng lớn thêm. Ở Châu Âu, người ta gọi sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là gốm sứ là trí nhớ hoặc là ký ức của tương lai, có nghĩa là sản phẩm thủ công mỹ nghệ phản ánh xã hội đương thời và lưu lại cho đời sau. Vì vậy sản phẩm gốm sứ đã, đang và sẽ hấp thụ hơi thở và nói tiếng nói của cuộc sống theo dòng lịch sử, không chỉ hấp dẫn cao về mặt nghệ thuật, làm mê hoặc người dân trong nước và cả bạn bè trên thế giới.

Qua phần trình bày trên đây, có thể khái quát một số điểm về giá trị sáng tạo của nghề thủ công nước ta như sau:

Một là, nghề thủ công là vốn quý, một di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc. Qua hàng nghìn năm, nhiều nghề thủ công truyền thống không những được duy trì mà còn phát triển cho đến nay, với các nghề tiêu biểu như: Sơn mài, gốm sứ, vàng bạc, thêu ren, mây tre đan, cói, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá… tạo nên nền văn hóa nghề với những bản sắc riêng biệt, đặc trưng góp phần quan trọng trong nền văn hóa phong phú, đa dạng của dân tộc. Những sản phẩm này không chỉ thuần túy chứa đựng giá trị sử dụng mà còn là sản phẩm văn hóa mang giá trị văn hóa và nghệ thuật, phương tiện chuyển tải văn hoá dân tộc Việt Nam ra thế giới (hàng thủ công mỹ nghệ nước ta đã bán được tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ).

Hai là, nghề thủ công nước ta có sức sáng tạo rất mạnh mẽ. Sức sáng tạo này bắt nguồn từ khối óc, trái tim mang sẵn vốn tinh hoa của dân tộc với đôi bàn tay khéo léo của nghệ nhân, thợ thủ công. Nếu như sức sáng tạo của con người là vô tận, thì nghề thủ công cũng mang trong mình bản chất sáng tạo không giới hạn, đặc biệt là ngày nay với lớp nghệ nhân trẻ tuổi được đào tạo bài bản. Đã và đang xuất hiện nhiều sản phẩm mới sản xuất bằng những nguyên liệu địa phương lâu nay chưa nghĩ đến. Đó là những sản phẩm ngày càng tiếp cận với công nghệ mới có giá trị cao về kỹ thuật và mỹ thuật, với ý chí tiếp nối truyền thống của cha, ông, đam mê với nghề mà người thợ thủ công nước ta không ngừng sáng tạo nên.

Ba là, nghề thủ công gắn bó với truyền thống văn hóa, đặc điểm kinh tế - xã hội mỗi địa phương, do đó công nghệ, kỹ thuật chế tác thường mang đặc trưng của các vùng, miền, thậm chí của từng nghệ nhân. Có thể thấy gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội) khác gốm Thổ Hà (Bắc Ninh) và gốm của nhiều địa phương khác. Đặc biệt là nghề gốm người Chăm (Bàu Trúc - Ninh Thuận), với kỹ thuật không dùng bàn xoay và không dùng lò đốt, mà nung lộ thiên bằng rơm, rạ, củi. Hoặc như nghề tạc tượng bằng gỗ, bằng đá, mỗi sản phẩm hầu như độc bản, mang dấu ấn sáng tạo của mỗi nghệ nhân, không tượng nào giống tượng nào.

MỞ RỘNG KHÔNG GIAN SÁNG TẠO CHO NGHỀ THỦ CÔNG

Không gian sáng tạo cho nghề thủ công là môi trường hỗ trợ quá trình sáng tạo, nơi người thợ thủ công được tạo điều kiện đầy đủ về tinh thần và vật chất, nơi họ cảm thấy thoải mái, được thúc đẩy, truyền cảm hứng, nảy nở ý tưởng mới và làm việc theo phong cách họ ưa thích. Mỗi làng nghề, mỗi hộ kinh doanh là một không gian khơi nguồn sáng tạo, do đó cần sự đầu tư trang thiết bị và nguồn lực cần thiết bao gồm cả giáo dục, đào tạo, là những điều kiện cần thiết để phát huy và nâng cao năng lực sáng tạo của nghệ nhân, thợ thủ công. Đại dịch Covid-19 gây cho chúng ta nhiều khó khăn, song cũng thúc đẩy làng nghề phát huy sáng tạo, để vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển lên một tầm cao mới. Dưới đây, xin nêu lên một số gợi ý để làng nghề cùng tham khảo.

Một là, phát huy bản chất sáng tạo của nghề thủ công. Nghề thủ công là một nghề sáng tạo, sáng tạo không ngừng. Trong thời đại mới, rất cần tư duy mới với những đột phá mới, sáng tạo mới; mỗi nghệ nhân cần có ý chí vượt lên chính mình bằng trí tuệ, tài năng sáng tạo của mình. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Lực, trong Tiểu luận “Giá trị của nghề thủ công và làng nghề”, nghề thủ công đã được nhiều học giả trên thế giới xếp vào “Nền Kinh tế da cam” - nền kinh tế sáng tạo từ năm 2011. Thuật ngữ này được đặt ra bởi nhà văn người Anh John Howkins, được Liên hợp quốc chấp thuận, đề cập mọi thứ được phát triển thông qua sự sáng tạo và cảm hứng của mọi người để trở thành các sản phẩm hoặc dịch vụ. Màu da cam được dùng vì đây là màu gắn liền với tuổi trẻ và hạnh phúc. Với chúng ta, những sản phẩm thủ công mỹ nghệ ngày càng đẹp hơn, tinh xảo hơn, với giá trị thẩm mỹ ngày càng cao, không chỉ phục vụ nhu cầu của cuộc sống hằng ngày, mà còn là những sản phẩm trang trí, thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần của khách hàng, kể cả khách hàng nước ngoài, góp phần quảng bá văn hóa Việt ra thế giới.

Hai là, bảo vệ môi trường. Nghề thủ công phát triển dựa trên nguồn nguyên vật liệu sắn có tại địa phương, đó là đất, gỗ, mây tre, v.v…nguồn nguyên liệu dồi dào và thuận tiện cho trí sáng tạo và bàn tay khéo léo của nghệ nhân làm ra những sản phẩm mới về ý tưởng và kỹ thuật, từ những sản phẩm tạo hình đơn giản, thô sơ tiến đến những sản phẩm mỹ thuật cao cấp. Trong xu hướng tiêu dùng ngày nay, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của làng nghề ngày càng cần được quan tâm hơn về các vấn đề liên quan đến môi trường và xã hội, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến nguồn gốc và tính hợp pháp của nguyên liệu sử dụng, đến an toàn và sức khỏe, sản xuất sạch thân thiện với môi trường…Vì vậy, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề cần đăng ký thương hiệu, ghi nhãn nguồn gốc xuất sứ QRcode, v.v… chứng minh những vấn đề nói trên, tạo thuận lợi trong thương mại điện tử.

Ba là, phát hiện và tôn vinh. Trong thực tế, qua các phương tiện thông tin đại chúng, hằng ngày, chúng ta có những thông tin rất quý giá rất đáng hoan nghênh. Đó là những bức tranh tạo nên bằng cát, bằng lá bàng, bằng vải vụn, giấy màu, lá tre, v.v… có giá trị mỹ thuật cao. Đó cũng là những đồ gỗ nội thất với những kiểu dáng phong phú phù hợp với nhu cầu khi làm việc tại nhà thời Covid-19 đang được khách hàng châu Âu ưa chuộng. Khó có thể kể hết những sáng tạo nảy nở trong thực tiễn, nhất là từ những nghệ nhân trẻ tuổi đang độ xung sức. Vấn đề đặt ra cho các cơ quan chức năng nhà nước, các tổ chức xã hội là kịp thời phát hiện, trân trọng từng sáng kiến, thống kê, lưu giữ, tổ chức phát huy bằng nhiều hình thức. Các cuộc tôn vinh sản phẩm tinh hoa thủ công mỹ nghệ cần được tổ chức đúng mục tiêu khuyến khích sáng tạo, tránh tệ nạn mua – bán danh hiệu. Cần khuyến khich thành lập các bảo tàng, nhà truyền thống. Theo Báo Kinh tế đô thị ngày 12/5/2021, Hà Nội đang xây dựng kế hoạch phát triển Trung tâm Bảo tồn nghề gốm tại xã Bát Tràng, tiến tới xây dựng thành Trung tâm Bảo tồn, phát triển sản phẩm gốm quốc gia; có thể coi đây là một tín hiệu đáng mừng. Cũng rất nên phát triển các câu lạc bộ nghệ nhân nghề thủ công, coi dây là nơi nuôi dưỡng, ươm mầm và thúc đẩy sáng tạo của họ và do họ cùng xây dựng; đối với lớp nghệ nhân trẻ tuổi, đây là nơi họ rèn luyện, phát triển và khẳng định tài năng, tiếp nối mạch nguồn sáng tạo của thế hệ đi trước.

Bốn là, hội nhập quốc tế. Cần tạo điều kiện rộng rãi để nghệ nhân, thợ thủ công nước ta tiếp cận kịp thời những thành tựu của nghề thủ công thế giới, qua đó cùng giao lưu, tiếp thu cái mới và đóng góp vào kho tàng nghề thủ công đang được thế giới tôn vinh. Theo Báo Thanh niên ngày 9/6/2021, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia đã tham gia dự án xây dựng nền tảng chia sẻ thông tin về di sản văn hóa phi vật thể khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Dự án này sẽ giúp kết nối và chia sẻ nhiều dữ liệu, nội dung về di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam trong đó có di sản thủ công nghiệp với các quốc gia thành viên ở khu vực, qua đó, quảng bá hình ảnh di sản nước ta ra thế giới, đồng thời là cơ hội tốt để số hóa hệ thống các thông tin, tư liệu di sản trong nước. Các cơ quan, tổ chức hữu quan cần hướng dẫn cụ thể các cơ sở để tranh thủ cơ hội, thực hiện có hiệu quả.

Tóm lại, lịch sử dân tộc ta đã chứng minh tiềm năng sáng tạo của nghề thủ công nước ta là vô cùng to lớn, xứng đáng là di sản văn hóa phi vật thể của đất nước; sức sáng tạo ấy đã không ngừng phát triển, ngày càng đạt những đỉnh cao mới; đó là di sản quý báu, niềm tự hào của làng nghề chúng ta. Ngày nay, Đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, thì nhiệm vụ phát huy tiềm năng sáng tạo của nghề thủ công lại càng cần các cơ quan, tổ chức xã hội liên quan như Hiệp hội Làng nghề Việt Nam quan tâm thực hiện, với sứ mệnh bảo tồn và phát huy văn hóa làng nghề, góp phần có ý nghĩa vào nền văn hóa dân tộc phong phú, đa dạng của nước ta.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

#Thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính Phủ#

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

LNV - Thời gian qua, xã Chiêm Hóa (Tuyên Quang) đã có bước phát triển vượt bậc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thương mại – dịch vụ, tài chính – tín dụng, ứng dụng công nghệ số phát triển mạnh, góp phần nâng cao đời s
OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OVN - Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được xác định là một trong những giải pháp quan trọng giúp các địa phương phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng sẵn có, đồng thời xây dựng thương hiệu cho sản phẩm đặc trưng. Tại Phú Thọ, sau sáp nhập, tỉnh
Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

OVN - An Giang – vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc hùng vĩ của núi non, rừng tràm và những cánh đồng lúa bạt ngàn, mà còn lưu giữ trong mình kho tàng ẩm thực độc đáo. Giữa muôn vàn sản vật địa phương, nước mắm Huỳnh Khoa đư
Dấu ấn, thách thức và hướng đi mới trong xây dựng nông thôn mới ở Thanh Hóa

Dấu ấn, thách thức và hướng đi mới trong xây dựng nông thôn mới ở Thanh Hóa

LNV - Sau hơn một thập kỷ triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (XDNTM) và giảm nghèo bền vững, nông thôn Thanh Hóa đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, trở thành điểm sáng trong cả nước. Tuy nhiên, để tiến tới giai đoạn phát triển m
Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

LNV - Xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) – “thủ phủ” gốm sứ của cả nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới khi mô hình chính quyền địa phương hai cấp.
Giao diện di động