Hà Nội: 30°C Hà Nội
Đà Nẵng: 31°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 0°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 0°C Thừa Thiên Huế

Tháo gỡ những rào cản pháp lý về năng lực tài chính để ngành thủ công mỹ nghệ phát triển và hội nhập quốc tế

Tạp chí Làng nghề Việt Nam! Cơ quan Trung Ương Hiệp Hội Làng Nghề Việt Nam, Tiếng Nói Của Các Làng Nghề, Nghệ Nhân Cả Nước
Sau 30 năm đổi mới, vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế đất nước từng bước được định hình và khẳng định trong các văn kiện của Đảng. Về mặt Nhà nước, những quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân từng bước được thể chế hóa trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trên nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử. Theo đó, những cơ sở thủ công mỹ nghệ hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp (công ty cổ phần, công ty TNHH) về cơ bản có nhiều thuận lợi, nhất là về cơ hội và điều kiện tiếp cận các nguồn vốn. Các cơ sở thủ công mỹ nghệ hoạt động dưới hình thức hộ gia đình cũng được bảo đảm về mặt pháp lý trên cơ sở các nghị định của Chính phủ, thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành như: Nghị định số 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nghị định số 61/2010/NĐ-CP chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách tạo việc làm và quỹ quốc gia tạo việc làm; Các thông tư hướng dẫn một số điểm cụ thể của các nghị định này. Có thể khẳng định rằng, hành lang pháp lý nói chung, về góc độ tiếp cận các nguồn vốn nói riêng của ngành TCMN đã được cải thiện đáng kể, cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn vốn tốt hơn cho ngành TCMN tiếp tục phát triển. Theo thông tin từ Bộ NN& PTNT, ngành TCMN đã thu hút khoảng 11 triệu lao động và hằng năm đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 1,7 tỷ đô la.

Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta tiếp tục mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, trở thành thành viên của nhiều hiệp định thương mại thế hệ mới, theo đó đi đôi với cơ hội mở ra cũng đã và đang xuất hiện nhiều thách thức không nhỏ đối với tương lai phát triển của ngành TCMN trên con đường hội nhập. Điểm hạn chế chung của ngành TCMN nước ta là quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, chủ yếu dựa trên nền tảng hộ gia đình là chủ yếu. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn từ phía Nhà nước, các tổ chức tín dụng, thị trường vốn, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước rất hạn chế. Do quá trình hình thành và phát triển gắn bó với khu vực nông thôn, ngành TCMN chịu nhiều ảnh hưởng của tư duy sản xuất tiểu nông nhỏ lẻ, dựa trên kinh nghiệm của những cá nhân (nghệ nhân, thợ cả) nên việc tiếp thu những vấn đề mới, vấn đề có tính đột phá về đầu tư, về thay đổi quy trình sản xuất, mẫu mã sản phẩm.v.v thường gặp nhiều khó khăn hơn so với các lĩnh vực khác.


Luật sư Lê Việt Trường.


Năng lực tài chính của ngành TCMN

Năng lực tài chính của ngành TCMN gồm năng lực huy động các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, năng lực sử dụng hiệu quả các nguồn vốn huy động được, năng lực chống đỡ rủi ro, năng lực quản lý tài chính nội bộ. Do quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ trong phạm vi hộ gia đình, vì vậy năng lực tài chính của ngành TCMN chủ yếu bao gồm vốn của chủ cơ sở sản xuất, một phần vay của các tổ chức tín dụng và vốn vay thông qua các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước. Theo nhiều báo cáo chính thức của cơ quan quản lý chuyên ngành về TCMN và phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng, hầu hết các cơ sở sản xuất TCMN trong cả nước đều gặp khó khăn về vốn. Đây là rào cản lớn nhất đối với ngành TCMN trên con đường tiếp tục đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế.
Cần tháo gỡ những rào cản pháp lý

Với mục đích hỗ trợ, nâng cao năng lực tài chính cho ngành TCMN phát triển và hội nhập, Nghị định 52/2018/NĐ-CP đã quy định về đầu tư, tín dụng (Điều 8) đối với ngành nghề nông thôn, trong đó có ngành TCMN: “(1) Hưởng ưu đãi đầu tư theo Luật đầu tư công. (2) Được áp dụng các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. (3) Được ưu tiên vay vốn từ các tổ chức tín dụng, Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia theo quy định của pháp luật”.

Về lý thuyết, ngành TCMN được hưởng khá nhiều chính sách về huy động vốn cho sản xuất kinh doanh như quy định trên của pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, các cơ sở sản xuất TCMN luôn gặp khó khăn về vốn, vì để thụ hưởng các nguồn vốn quy định tại Điều 8 Nghị định 52 về đầu tư, tín dụng đòi hỏi đối tượng thụ hưởng phải bảo đảm những tiêu chí và quy trình thủ tục cụ thể khá phức tạp, nhiều trường hợp đã trở thành rào cản đối với hộ gia đình khi tiếp cận các nguồn đầu tư, tín dụng mà pháp luật quy định. Tình hình đó do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Một là, chưa có sự thống nhất về định danh ngành thủ công mỹ nghệ trong hệ thống pháp luật. Thực tế, ngành TCMN vẫn được hiểu nằm trong khái niệm ngành nghề nông thôn và đã được thể chế hóa về mặt nhà nước tại Nghị định 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ. Hơn nữa, về pháp lý Hộ gia đình làm nghề TCMN là chủ thể chỉ có tư cách pháp nhân hạn chế trong một số quan hệ dân sự nhất định (quan hệ về đất đai, bảo vệ môi trường và phòng cháy chữa cháy). Mặt khác, quy định của BLDS về trách nhiệm của người đại diện hộ gia đình trong giao dịch dân sự (khoản 2 Điều 138) lại chưa có quy định cụ thể việc xác lập chủ hộ mang tính pháp lý nên việc thỏa thuận cử người đại diện hộ gia đình tham gia giao dịch dân sự theo ủy quyền rất linh hoạt. Vấn đề sổ đỏ của hộ gia đình cũng rất phức tạp khi một số thành viên trong hộ trưởng thành đã tách hộ nhưng vẫn để chung sổ đỏ. Tới đây, nếu dự thảo Luật cư trú sửa đổi được Quốc hội thông qua (cuối năm 2020) khả năng lớn sẽ bỏ sổ hộ khẩu giấy, việc xác định chủ hộ sẽ linh hoạt hơn, tùy mỗi hộ lựa chọn một trong số thành viên từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự, khi đó vấn đề đại diện hộ gia đình trong các giao dịch dân sự còn phức tạp hơn, nhất là khi giao dịch phát sinh quyền và nghĩa vụ tài sản.

Thứ hai, quy định của pháp luật có nhưng thiếu cụ thể, thiếu khả thi, một số quy định thiếu thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật nên ngành thủ công mỹ nghệ chỉ có thể thụ hưởng các chính sách trên giấy. Quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định 52 về đầu tư, tín dụng ngành nghề nông thôn được “Hưởng ưu đãi đầu tư theo Luật đầu tư công” hoàn toàn thiếu tính khả thi, vì với quy mô sản xuất hộ gia đình là chủ yếu, ngành TCMN không thể có được các dự án nhóm A, nhóm B hoặc nhóm C như Luật đầu tư quy định. Tương tự như vậy, khoản 3 Điều 8 của Nghị định về tiếp cận nguồn vốn từ các Quỹ quốc gia tính khả thi cũng thấp, vì hộ gia đình sản xuất thủ công mỹ nghệ khó có thể bảo đảm đủ các tiêu chí và năng lực thực hiện theo quy trình thủ tục để được vay vốn từ các quỹ Quốc gia mà Nghị định đã viện dẫn.

Thứ ba, một số quy định của pháp luật rất đúng nhưng chưa phù hợp với thực tế vô hình chung trở thành rào cản đối với ngành TCMN. Quy định về bảo vệ môi trường làng nghề gắn với việc công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống là một ví dụ. Sản xuất phải bảo vệ môi trường, muốn bảo vệ môi trường phải xử lý chất thải đúng quy định.v.v. Quy định này rất đúng và cần thiết cho phát triển bền vững. Tuy nhiên, vốn liếng của hộ gia đình làm TCMN có hạn, xử lý chất thải thì tốn kém; Di chuyển đến khu sản xuất tập trung nơi thì thiếu quỹ đất, nơi có đất nhưng giá thuê cao hoặc quá xa bất tiện cho người dân.v.v. dẫn đến các hộ sản xuất TCMN tiến thoái lưỡng nan, làm đúng pháp luật thì họ chỉ có thể đóng cửa hoặc phá sản.

Tháo gỡ rào cản

Nhà nước cần hoàn thiện thể chế đảm bảo thống nhất định danh và địa vị pháp lý cho ngành TCMN. Đây là loại ngành nghề có sự phát triển lâu đời. Trong tương lai ngành TCMN dù phát triển đến đâu thì vẫn phải mang đầy đủ tính đặc thù vốn có của nó là sản phẩm được tạo tác chủ yếu bởi bàn tay và óc thẩm mỹ của người thợ, các nghệ nhân có sự hỗ trợ của công cụ, máy móc một số công đoạn. Nếu ứng dụng khoa học, công nghệ để sản xuất hàng loạt, không còn yếu tố bàn tay, óc thẩm mỹ sáng tạo của người thợ, nghệ nhân thì không còn là sản phẩm TCMN.

Xác định địa vị pháp lý và tư cách pháp nhân của hộ gia đình sản xuất TCMN tạo thuận lợi để hộ gia đình tham gia các quan hệ dân sự được thuận lợi, có điều kiện nâng cao năng lực tài chính của mình. Tại kỳ họp thứ IX vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp sửa đổi và đã tiếp thu ý kiến của đông đảo người dân không đưa hộ gia đình kinh doanh vào phạm vi điều chỉnh của Luật. Hộ gia đình kinh doanh nói chung, hộ gia đình sản xuất kinh doanh TCMN nói riêng cần có một văn bản quy phạm pháp luật riêng, điều chỉnh là rất thỏa đáng, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, không thể nóng vội, áp dụng dập khuôn máy móc kinh nghiệm của các nước khác. Bảo đảm địa vị pháp lý và tư cách pháp nhân cho hàng triệu hộ sản xuất kinh doanh sẽ đem lại lợi ích to lớn cho đất nước về thu ngân sách, việc làm và sự ổn định xã hội.

Cải cách đơn giản hóa quy trình, thủ tục tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, các quỹ hỗ trợ quốc gia, các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước để hộ gia đình sản xuất kinh doanh TCMN có thể trở thành bạn hàng thân thiết của các tổ chức tín dụng, gắn kết giúp nhau cùng phát triển. Ở chiều ngược lại, các tổ chức tín dụng, ngân hàng cần chủ động hỗ trợ hộ gia đình trong việc xây dựng hồ sơ vay vốn.
Cụ thể hóa vai trò, trách nhiệm của các tổ chức chính trị-xã hội trong việc bảo lãnh cho hộ gia đình sản xuất kinh doanh TCMN vay tín chấp. Với quy mô sản xuất kinh doanh hộ gia đình, việc vay vốn bằng đảm bảo tài sản rất khó khăn, do đó cứu cánh đối với hộ gia đình sản xuất kinh doanh TCMN là phương thức vay tín chấp. Điều này đòi hỏi sự chủ động từ 2 phía: hộ gia đình và đại diện các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội nghề nghiệp. Tuy nhiên đề bảo đảm sự gắn kết giữa các chủ thể này rất cần vai trò của chính quyền địa phương các cấp trong việc bảo đảm và thúc đẩy bằng những chủ trương, cơ chế, chính sách cụ thể trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Luật sư Lê Việt Trường- Nguyên Phó chủ nhiệm
Ủy ban Quốc phòng - An ninh Quốc Hội

Tin liên quan

Tin mới hơn

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

LNV - Ðại hội XIII của Ðảng xác định rõ: Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

LNV - Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm (Hà Nội) có hai nghề truyền thống là dát vàng bạc quì và may đồ da đã có từ lâu đời. Làm vàng bạc quì là một nghề truyền thống, chế biến vàng thật, bạc thật thành bột vàng, bạc (gọi là quì) bằng phương pháp sản xuất thủ công lâu đời, độc đáo.

Tin khác

Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình số 04-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVII về "Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành Nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân giai đoạn 2021-2025".
Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

LNV - Theo ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ NN-PTNT, Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ nhiều năm, tuy nhiên có thời điểm chúng ta sản xuất đại trà, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Vì vậy, thời gian tới phải nâng tầm hơn nữa cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

LNV - Đẩy mạnh việc tuyên truyền làm cho doanh nghiệp, hộ sản xuất, hộ kinh doanh dịch vụ hiểu và quan tâm về maketing và bán hàng online
Nghề và Làng nghề truyền thống

Nghề và Làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề, làng có nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo ra nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em; giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn.
Vai trò, vị thế của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam

Vai trò, vị thế của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam

LNV - Nhiệm kỳ 2018 – 2023 vừa qua, Hiệp hội và các tổ chức, hội viên đã triển khai Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường do tác động tiêu cực lâu dài của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, các cuộc xung đột vũ trang Nga – Ukraina; Israel – Hamas; Israel – Houthi, Israel – Iran…làm đứt gãy chuỗi cung ứng vật tư, nguyên, nhiên liệu toàn cầu, đặc biệt là xăng, dầu. Ảnh hưởng đến đến sức mua và làm suy giảm các thị trường xuất, nhập khẩu truyền thống. Tình hình trên làm cho sản xuất kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế và làng nghề trong cả nước bị đình đốn, việc làm và đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn.
Hướng đi bền vững để bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống

Hướng đi bền vững để bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo nhiều cơ hội việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em, giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có những hướng đi bền vững.
Văn hóa làng nghề trong văn hóa xứ Nghệ

Văn hóa làng nghề trong văn hóa xứ Nghệ

LNV - Làng nghề truyền thống là một nhân tố quan trọng trong văn hóa vùng miền. Với một vùng văn hóa độc đáo như xứ Nghệ, làng nghề có vai trò to lớn, là bông hoa đẹp trong bức tranh văn hóa chung. Làng nghề thể hiện sự đa dạng của văn hóa, thể hiện tính đặc sắc của địa phương. Và trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển làng nghề hợp lý là hướng đi đúng đắn để gắn bảo tồn văn hóa với phát triển kinh tế.
Phát triển bền vững du lịch làng nghề Thừa Thiên Huế

Phát triển bền vững du lịch làng nghề Thừa Thiên Huế

LNV - Du lịch lễ hội văn hoá, du lịch làng nghề truyền thống là một thế mạnh và nét đặc trưng vốn có của du lịch Thừa Thiên Huế hiện tại và trong tương lai. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần khai thác và phát huy các làng nghề truyền thống như một chiến lược phát triển du lịch bền vững gắn với cộng đồng dân cư địa phương, góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Gìn giữ tinh hoa làng nghề thời 4.0

Gìn giữ tinh hoa làng nghề thời 4.0

LNV - Người Việt Nam tự hào có những làng nghề truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm, vang danh xứ người. Thế nhưng, theo năm tháng, các làng nghề truyền thống đang ngày càng mai một. Bên cạnh đó, thời đại công nghệ 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức cho các làng nghề, đòi hỏi công tác duy trì, bảo tồn và phát triển làng nghề cần sự chung tay của nhiều thế hệ và chính quyền các cấp.
Lợi ích của việc bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Lợi ích của việc bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Nhiều năm qua, việc bán hàng online đã khá phổ biến với nhiều lĩnh vực và đã quen thuộc với nhiều khách hàng, nhưng trong lĩnh vực hàng thủ công mỹ nghệ rất ít cơ sở tham gia bán hàng online. Cho đến nay, chủ yếu là các cơ sở sản xuất đồ gốm và điêu khắc gỗ bắt đầu thực hiện bán hàng online.
Chuyển đổi số trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Chuyển đổi số trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

LNV - Bên cạnh cơ hội, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang phải đối mặt với những thách thức lớn từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số trong doanh nghiệp được xác định là giải pháp quan trọng, là xu hướng tất yếu để các doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng lực, lợi thế cạnh tranh, tăng tốc và phát triển.
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam

LNV - Công nghệ 4.0 phát triển mạnh mẽ giúp cho việc mua bán hàng hóa trực tuyến thuận tiện và phổ biến hơn bao giờ hết. Hơn nữa, khi dịch Covid-19 bùng nổ trên nhiều quốc gia với tốc độ lây lan nhanh chóng thì mua bán trực tuyến là giải pháp tối ưu thay thế cho phương thức mua bán truyền thống.
Hà Nội phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa

Hà Nội phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa

LNV - Thành phố Hà Nội là nơi có nhiều làng nghề truyền thống với 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó có 305 làng nghề truyền thống đã được công nhận thuộc 23 quận, huyện và thị xã. Đây là nguồn tài nguyên dồi dào cho phát triển công nghiệp văn hóa.
Lợi ích bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Lợi ích bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Nhiều năm qua, việc bán hàng online đã khá phổ biến với nhiều lĩnh vực và quen thuộc với khách hàng, nhưng trong lĩnh vực hàng thủ công mỹ nghệ rất ít cơ sở tham gia bán hàng online. Cho đến nay, chủ yếu là các cơ sở sản xuất đồ gốm và điêu khắc gỗ bắt đầu thực hiện bán hàng online.
Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc kinh doanh online trên nền tảng kỹ thuật số

Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc kinh doanh online trên nền tảng kỹ thuật số

LNV - Nghề dệt lụa ở Vạn Phúc (quận Hà Đông, TP. Hà Nội) từ lâu đã nổi tiếng bởi nét tài hoa của những nghệ nhân làng nghề. Với những ai yêu lụa Vạn Phúc khi về nơi đây như được trở lại cội nguồn với nhiều nét xưa cũ. Bao đời nay, lụa Vạn Phúc chỉ sử dụng chất liệu tơ tằm truyền thống, do bàn tay của người lao động tạo nên. Điều đáng quý là các sản phẩm ở đây được làm từ nguyên liệu tự nhiên, có nhiều ưu điểm khác hẳn với các sản phẩm trôi nổi trên thị trường.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
TỔNG THUẬT: LỄ TRUY ĐIỆU VÀ LỄ AN TÁNG TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

TỔNG THUẬT: LỄ TRUY ĐIỆU VÀ LỄ AN TÁNG TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

LNV - Lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tổ chức lúc 13 giờ 00 phút ngày 26 tháng 7 năm 2024 tại Nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội.
Huyện Bình Liêu (Quảng Ninh): Ứng dụng công nghệ số trong xây dựng Nông thôn mới

Huyện Bình Liêu (Quảng Ninh): Ứng dụng công nghệ số trong xây dựng Nông thôn mới

LNV - Ứng dụng công nghệ số trong xây dựng nông thôn mới đã góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống người dân, thu hẹp dần khoảng cách về chất lượng cung cấp dịch vụ giữa nông thôn với thành thị.
Nghề đan võng ngô đồng đón nhận danh hiệu Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia

Nghề đan võng ngô đồng đón nhận danh hiệu Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia

LNV - Lễ đón nhận danh hiệu Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia nghề đan võng ngô đồng được tổ chức trong khuôn khổ Festival “Cù Lao Chàm - Mùa Ngô đồng đỏ” 2024 tại xã đảo Tân Hiệp (Quảng Nam).
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Khuyến công Hà Nam: Hỗ trợ cơ sở công nghiệp nông thôn thiết bị tiên tiến vào sản xuất

Khuyến công Hà Nam: Hỗ trợ cơ sở công nghiệp nông thôn thiết bị tiên tiến vào sản xuất

LNV - 6 tháng đầu năm 2024, Sở Công Thương Hà Nam đã chỉ đạo triển khai đề án hỗ trợ cho 4 cơ sở công nghiệp nông thôn ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến vào sản xuất với nguồn kinh phí hỗ trợ là 1 tỷ đồng.
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động