Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 28°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 27°C Thừa Thiên Huế

Tháo gỡ những rào cản pháp lý về năng lực tài chính để ngành thủ công mỹ nghệ phát triển và hội nhập quốc tế

Tạp chí Làng nghề Việt Nam! Cơ quan Trung Ương Hiệp Hội Làng Nghề Việt Nam, Tiếng Nói Của Các Làng Nghề, Nghệ Nhân Cả Nước
Sau 30 năm đổi mới, vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế đất nước từng bước được định hình và khẳng định trong các văn kiện của Đảng. Về mặt Nhà nước, những quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân từng bước được thể chế hóa trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trên nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử. Theo đó, những cơ sở thủ công mỹ nghệ hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp (công ty cổ phần, công ty TNHH) về cơ bản có nhiều thuận lợi, nhất là về cơ hội và điều kiện tiếp cận các nguồn vốn. Các cơ sở thủ công mỹ nghệ hoạt động dưới hình thức hộ gia đình cũng được bảo đảm về mặt pháp lý trên cơ sở các nghị định của Chính phủ, thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành như: Nghị định số 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nghị định số 61/2010/NĐ-CP chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách tạo việc làm và quỹ quốc gia tạo việc làm; Các thông tư hướng dẫn một số điểm cụ thể của các nghị định này. Có thể khẳng định rằng, hành lang pháp lý nói chung, về góc độ tiếp cận các nguồn vốn nói riêng của ngành TCMN đã được cải thiện đáng kể, cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn vốn tốt hơn cho ngành TCMN tiếp tục phát triển. Theo thông tin từ Bộ NN& PTNT, ngành TCMN đã thu hút khoảng 11 triệu lao động và hằng năm đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 1,7 tỷ đô la.

Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta tiếp tục mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, trở thành thành viên của nhiều hiệp định thương mại thế hệ mới, theo đó đi đôi với cơ hội mở ra cũng đã và đang xuất hiện nhiều thách thức không nhỏ đối với tương lai phát triển của ngành TCMN trên con đường hội nhập. Điểm hạn chế chung của ngành TCMN nước ta là quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, chủ yếu dựa trên nền tảng hộ gia đình là chủ yếu. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn từ phía Nhà nước, các tổ chức tín dụng, thị trường vốn, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước rất hạn chế. Do quá trình hình thành và phát triển gắn bó với khu vực nông thôn, ngành TCMN chịu nhiều ảnh hưởng của tư duy sản xuất tiểu nông nhỏ lẻ, dựa trên kinh nghiệm của những cá nhân (nghệ nhân, thợ cả) nên việc tiếp thu những vấn đề mới, vấn đề có tính đột phá về đầu tư, về thay đổi quy trình sản xuất, mẫu mã sản phẩm.v.v thường gặp nhiều khó khăn hơn so với các lĩnh vực khác.


Luật sư Lê Việt Trường.


Năng lực tài chính của ngành TCMN

Năng lực tài chính của ngành TCMN gồm năng lực huy động các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, năng lực sử dụng hiệu quả các nguồn vốn huy động được, năng lực chống đỡ rủi ro, năng lực quản lý tài chính nội bộ. Do quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ trong phạm vi hộ gia đình, vì vậy năng lực tài chính của ngành TCMN chủ yếu bao gồm vốn của chủ cơ sở sản xuất, một phần vay của các tổ chức tín dụng và vốn vay thông qua các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước. Theo nhiều báo cáo chính thức của cơ quan quản lý chuyên ngành về TCMN và phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng, hầu hết các cơ sở sản xuất TCMN trong cả nước đều gặp khó khăn về vốn. Đây là rào cản lớn nhất đối với ngành TCMN trên con đường tiếp tục đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế.
Cần tháo gỡ những rào cản pháp lý

Với mục đích hỗ trợ, nâng cao năng lực tài chính cho ngành TCMN phát triển và hội nhập, Nghị định 52/2018/NĐ-CP đã quy định về đầu tư, tín dụng (Điều 8) đối với ngành nghề nông thôn, trong đó có ngành TCMN: “(1) Hưởng ưu đãi đầu tư theo Luật đầu tư công. (2) Được áp dụng các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. (3) Được ưu tiên vay vốn từ các tổ chức tín dụng, Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia theo quy định của pháp luật”.

Về lý thuyết, ngành TCMN được hưởng khá nhiều chính sách về huy động vốn cho sản xuất kinh doanh như quy định trên của pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, các cơ sở sản xuất TCMN luôn gặp khó khăn về vốn, vì để thụ hưởng các nguồn vốn quy định tại Điều 8 Nghị định 52 về đầu tư, tín dụng đòi hỏi đối tượng thụ hưởng phải bảo đảm những tiêu chí và quy trình thủ tục cụ thể khá phức tạp, nhiều trường hợp đã trở thành rào cản đối với hộ gia đình khi tiếp cận các nguồn đầu tư, tín dụng mà pháp luật quy định. Tình hình đó do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Một là, chưa có sự thống nhất về định danh ngành thủ công mỹ nghệ trong hệ thống pháp luật. Thực tế, ngành TCMN vẫn được hiểu nằm trong khái niệm ngành nghề nông thôn và đã được thể chế hóa về mặt nhà nước tại Nghị định 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ. Hơn nữa, về pháp lý Hộ gia đình làm nghề TCMN là chủ thể chỉ có tư cách pháp nhân hạn chế trong một số quan hệ dân sự nhất định (quan hệ về đất đai, bảo vệ môi trường và phòng cháy chữa cháy). Mặt khác, quy định của BLDS về trách nhiệm của người đại diện hộ gia đình trong giao dịch dân sự (khoản 2 Điều 138) lại chưa có quy định cụ thể việc xác lập chủ hộ mang tính pháp lý nên việc thỏa thuận cử người đại diện hộ gia đình tham gia giao dịch dân sự theo ủy quyền rất linh hoạt. Vấn đề sổ đỏ của hộ gia đình cũng rất phức tạp khi một số thành viên trong hộ trưởng thành đã tách hộ nhưng vẫn để chung sổ đỏ. Tới đây, nếu dự thảo Luật cư trú sửa đổi được Quốc hội thông qua (cuối năm 2020) khả năng lớn sẽ bỏ sổ hộ khẩu giấy, việc xác định chủ hộ sẽ linh hoạt hơn, tùy mỗi hộ lựa chọn một trong số thành viên từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự, khi đó vấn đề đại diện hộ gia đình trong các giao dịch dân sự còn phức tạp hơn, nhất là khi giao dịch phát sinh quyền và nghĩa vụ tài sản.

Thứ hai, quy định của pháp luật có nhưng thiếu cụ thể, thiếu khả thi, một số quy định thiếu thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật nên ngành thủ công mỹ nghệ chỉ có thể thụ hưởng các chính sách trên giấy. Quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định 52 về đầu tư, tín dụng ngành nghề nông thôn được “Hưởng ưu đãi đầu tư theo Luật đầu tư công” hoàn toàn thiếu tính khả thi, vì với quy mô sản xuất hộ gia đình là chủ yếu, ngành TCMN không thể có được các dự án nhóm A, nhóm B hoặc nhóm C như Luật đầu tư quy định. Tương tự như vậy, khoản 3 Điều 8 của Nghị định về tiếp cận nguồn vốn từ các Quỹ quốc gia tính khả thi cũng thấp, vì hộ gia đình sản xuất thủ công mỹ nghệ khó có thể bảo đảm đủ các tiêu chí và năng lực thực hiện theo quy trình thủ tục để được vay vốn từ các quỹ Quốc gia mà Nghị định đã viện dẫn.

Thứ ba, một số quy định của pháp luật rất đúng nhưng chưa phù hợp với thực tế vô hình chung trở thành rào cản đối với ngành TCMN. Quy định về bảo vệ môi trường làng nghề gắn với việc công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống là một ví dụ. Sản xuất phải bảo vệ môi trường, muốn bảo vệ môi trường phải xử lý chất thải đúng quy định.v.v. Quy định này rất đúng và cần thiết cho phát triển bền vững. Tuy nhiên, vốn liếng của hộ gia đình làm TCMN có hạn, xử lý chất thải thì tốn kém; Di chuyển đến khu sản xuất tập trung nơi thì thiếu quỹ đất, nơi có đất nhưng giá thuê cao hoặc quá xa bất tiện cho người dân.v.v. dẫn đến các hộ sản xuất TCMN tiến thoái lưỡng nan, làm đúng pháp luật thì họ chỉ có thể đóng cửa hoặc phá sản.

Tháo gỡ rào cản

Nhà nước cần hoàn thiện thể chế đảm bảo thống nhất định danh và địa vị pháp lý cho ngành TCMN. Đây là loại ngành nghề có sự phát triển lâu đời. Trong tương lai ngành TCMN dù phát triển đến đâu thì vẫn phải mang đầy đủ tính đặc thù vốn có của nó là sản phẩm được tạo tác chủ yếu bởi bàn tay và óc thẩm mỹ của người thợ, các nghệ nhân có sự hỗ trợ của công cụ, máy móc một số công đoạn. Nếu ứng dụng khoa học, công nghệ để sản xuất hàng loạt, không còn yếu tố bàn tay, óc thẩm mỹ sáng tạo của người thợ, nghệ nhân thì không còn là sản phẩm TCMN.

Xác định địa vị pháp lý và tư cách pháp nhân của hộ gia đình sản xuất TCMN tạo thuận lợi để hộ gia đình tham gia các quan hệ dân sự được thuận lợi, có điều kiện nâng cao năng lực tài chính của mình. Tại kỳ họp thứ IX vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp sửa đổi và đã tiếp thu ý kiến của đông đảo người dân không đưa hộ gia đình kinh doanh vào phạm vi điều chỉnh của Luật. Hộ gia đình kinh doanh nói chung, hộ gia đình sản xuất kinh doanh TCMN nói riêng cần có một văn bản quy phạm pháp luật riêng, điều chỉnh là rất thỏa đáng, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, không thể nóng vội, áp dụng dập khuôn máy móc kinh nghiệm của các nước khác. Bảo đảm địa vị pháp lý và tư cách pháp nhân cho hàng triệu hộ sản xuất kinh doanh sẽ đem lại lợi ích to lớn cho đất nước về thu ngân sách, việc làm và sự ổn định xã hội.

Cải cách đơn giản hóa quy trình, thủ tục tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, các quỹ hỗ trợ quốc gia, các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước để hộ gia đình sản xuất kinh doanh TCMN có thể trở thành bạn hàng thân thiết của các tổ chức tín dụng, gắn kết giúp nhau cùng phát triển. Ở chiều ngược lại, các tổ chức tín dụng, ngân hàng cần chủ động hỗ trợ hộ gia đình trong việc xây dựng hồ sơ vay vốn.
Cụ thể hóa vai trò, trách nhiệm của các tổ chức chính trị-xã hội trong việc bảo lãnh cho hộ gia đình sản xuất kinh doanh TCMN vay tín chấp. Với quy mô sản xuất kinh doanh hộ gia đình, việc vay vốn bằng đảm bảo tài sản rất khó khăn, do đó cứu cánh đối với hộ gia đình sản xuất kinh doanh TCMN là phương thức vay tín chấp. Điều này đòi hỏi sự chủ động từ 2 phía: hộ gia đình và đại diện các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội nghề nghiệp. Tuy nhiên đề bảo đảm sự gắn kết giữa các chủ thể này rất cần vai trò của chính quyền địa phương các cấp trong việc bảo đảm và thúc đẩy bằng những chủ trương, cơ chế, chính sách cụ thể trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Luật sư Lê Việt Trường- Nguyên Phó chủ nhiệm
Ủy ban Quốc phòng - An ninh Quốc Hội

Tin liên quan

Tin mới hơn

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có hơn 5.000 làng nghề và làng có nghề, thu hút gần 10 triệu lao động, mang lại giá trị xuất khẩu hơn 1,7 tỷ USD/năm. Những con số trên cho thấy sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đã mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng đất nước, an sinh xã hội và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.
Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.
Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.

Tin khác

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

LNV - Ðại hội XIII của Ðảng xác định rõ: Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

LNV - Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm (Hà Nội) có hai nghề truyền thống là dát vàng bạc quì và may đồ da đã có từ lâu đời. Làm vàng bạc quì là một nghề truyền thống, chế biến vàng thật, bạc thật thành bột vàng, bạc (gọi là quì) bằng phương pháp sản xuất thủ công lâu đời, độc đáo.
Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình số 04-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVII về "Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành Nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân giai đoạn 2021-2025".
Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

LNV - Theo ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ NN-PTNT, Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ nhiều năm, tuy nhiên có thời điểm chúng ta sản xuất đại trà, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Vì vậy, thời gian tới phải nâng tầm hơn nữa cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Phú Yên: OCOP góp phần phát triển kinh tế nông thôn

Phú Yên: OCOP góp phần phát triển kinh tế nông thôn

LNV - Sau gần 5 năm triển khai thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), đến nay toàn tỉnh Phú Yên có gần 350 sản phẩm OCOP. Chương trình đã thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo hướng phát triển nội lực và gia tăng giá trị.
Bình Định: Phát triển du lịch Làng nghề tiện gỗ mỹ nghệ Nhơn Hậu

Bình Định: Phát triển du lịch Làng nghề tiện gỗ mỹ nghệ Nhơn Hậu

LNV - Các sản phẩm của Làng nghề tiện gỗ mỹ nghệ Nhơn Hậu nổi tiếng không chỉ bởi sự đa dạng, chất lượng, sự tinh xảo về nghệ thuật chế tác mà còn thể hiện tính đặc trưng của văn hóa làng nghề tiểu thủ công truyền thống của thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Chị Nguyễn Thị Thanh Nga – Hành trình xây dựng thương hiệu Yến Sào Thiên Nga

Chị Nguyễn Thị Thanh Nga – Hành trình xây dựng thương hiệu Yến Sào Thiên Nga

OVN - Chị Nguyễn Thị Thanh Nga - chủ cơ sở kinh doanh Yến Sào Thiên Nga, là một trong những người tiên phong trong việc dẫn dụ, nuôi và chế biến tổ yến
Hành trình Khát vọng Việt Nam Hùng cường – Phát triển nền kinh tế xanh bền vững, tôn vinh làng nghề và sản phẩm Ocop

Hành trình Khát vọng Việt Nam Hùng cường – Phát triển nền kinh tế xanh bền vững, tôn vinh làng nghề và sản phẩm Ocop

LNV - Ngày 2/12/2024, tại Nhà khách Chính phủ, Viện Nghiên cứu Phát triển Doanh nhân Việt Nam -Asean (EDRI) đã trang trọng công bố “Hành trình Khát vọng Việt Nam Hùng cường”, một chương trình mang tầm Quốc gia dân tộc hằm đoàn kết, phát triển doanh nhân c
Phú Yên: Xây dựng mô hình du lịch nông thôn và phát triển sản phẩm OCOP

Phú Yên: Xây dựng mô hình du lịch nông thôn và phát triển sản phẩm OCOP

LNV - UBND tỉnh Phú Yên vừa có Quyết định phê duyệt Đề án thí điểm xây dựng mô hình du lịch nông thôn và phát triển sản phẩm OCOP trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Phú Yên giai đoạn 2024 -2025.
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động