Hà Nội: 20°C Hà Nội
Đà Nẵng: 21°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 28°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 19°C Thừa Thiên Huế

Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam

LNV - Trong Dự thảo phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và Dự thảo Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam giai đoạn 2021-2030, Đảng và Nhà nước ta xác định: Để tăng trưởng, phát triển kinh tế ổn định, bền vững, đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu vực tư nhân cũng như đảm bảo phát triển đội ngũ cán bộ, công chức (ĐNCBCC) nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại các địa phương trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) thì công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cần thiết phải được quan tâm đầu tư đúng mức, đặc biệt phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã, phường tại cơ sở. Bài viết trình bày những nội dung cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã để phát triển kinh tế xã hội tại các địa phương trong bối cảnh CMCN 4.0 hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu thực tế của xã hội, từ Quy hoạch phát triển nhân lực khu vực công giai đoạn 2021-2030, từ những yêu cầu phát triển nguồn nhân lực quản lý Nhà nước (CBCC) tại địa phương trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị giai đoạn hiện nay nhằm hình thành một số yếu tố năng lực, nhân cách mới cho đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và thực hiện thắng lợi cuộc CMCN 4.0.
1. Đặt vấn đề

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang trở thành xu thế chung, lôi cuốn nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cơ hội lớn để các tỉnh thành trong cả nước đẩy mạnh CNH-HĐH. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn quán triệt quan điểm “coi con người là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu, là mục tiêu của sự phát triển”. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở Việt Nam là chiến lược đột phá, góp phần nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ nhân lực khu vực công, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp hơn với cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao lợi thế cạnh tranh, bảo đảm phát triển kinh tế xã hội của địa phương nhanh, hiệu quả và bền vững, nhất là trong tình trạng phải ứng phó với đại dịch Sars-Covid hiện nay. Tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng ta đề ra nhiệm vụ: “…Đảng ta xác định nội dung phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được cụ thể hơn trong giai đoạn 5 năm tới là ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo…”. Để đạt được các mục tiêu phát triển xã hội, vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước nhằm phát triển đội ngũ CBCC cấp xã trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 là nhiệm vụ chính trị quan trọng, cấp thiết hàng đầu để nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ chính trị, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

2. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

2.1. Đôi nét về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư - được gọi là công nghiệp thế hệ 4.0 đã và đang tạo ra những biến động mạnh mẽ, gây ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống con người trong thế kỷ 21. Theo Gartner, cách mạng công nghiệp 4.0 xuất phát từ khái niệm “Industrie 4.0” kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa công nghiệp, kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong.

Theo Klaus Schwab, chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra quan điểm về cách mạng công nghiệp 4.0: “Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học”.(Hình 1)

2.2. Yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị tại các xã, phường. Công chức cấp xã là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính quyền địa phương cấp xã, tổ chức chính trị xã hội cấp xã, được giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Với mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp có đủ phẩm chất, trình độ chuyên môn và năng lực trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập kinh tế quốc tế, cán bộ, công chức cấp xã cần đáp ứng một số yêu cầu:

Thứ nhất, cán bộ, công chức cấp xã cần có năng lực, trình độ ngày càng cao. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và để phục vụ người dân tốt hơn, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có năng lực quản lý, triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị, cung ứng dịch vụ công một cách hiệu quả. Điều đó đặt ra những yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức vừa phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vừa thông thạo kỹ năng hành chính, hiểu biết pháp luật, có năng lực làm việc và ứng xử phù hợp đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính, xây dựng chính quyền địa phương hiện đại, chuyên nghiệp, phục vụ tốt nhất nhu cầu của công dân.

Thứ hai, cán bộ, công chức cấp xã cần có đạo đức, tư cách tốt, có phẩm chất chính trị vững vàng, có trách nhiệm công vụ, tuân thủ các giá trị, đáp ứng tốt các nhu cầu của người dân, góp phần tạo niềm tin của nhân dân, xã hội đối với chính quyền địa phương. Điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cần có năng lực thực thi công vụ, tính chuyên nghiệp, đạo đức, liêm chính, minh bạch, trách nhiệm và đảm bảo chất lượng dịch vụ công cung ứng cho người dân, phải có ý thức trách nhiệm và thái độ, hành vi chuẩn mực trong thực thi công vụ, nhiệm vụ.

Thứ ba, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đội ngũ cán bộ, công chức cần có tư duy sáng tạo, đổi mới và có năng lực thích ứng với sự thay đổi, có khả năng nắm bắt, tiếp thu các kiến thức, kỹ năng mới trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, công nghệ thông tin và chuyển đổi số được ứng dụng sâu, rộng trong quá trình thực hiện công việc của cán bộ, công chức tại chính quyền địa phương. Có như vậy, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, chất lượng dịch vụ công mà đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cung ứng cho xã hội mới đảm bảo tính nhanh chóng, hiệu quả, chính xác, đầy đủ, phục vụ tốt nhất cho các tổ chức và công dân.

Thứ tư, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cần phải tuân thủ các chuẩn mực trong giao tiếp công vụ, chuẩn mực trong xây dựng văn hóa công vụ, tích cực xây dựng văn hóa thực thi công vụ theo hướng phục vụ. Vì vậy, trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cần phải hướng đến việc thực thi đầy đủ các nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học, phẩm chất nghề nghiệp, đạo đức công vụ để xây dựng, phát triển đội ngũ công chức cấp xã đạt về cả chất và lượng.

2.3. Đặc điểm đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam

2.3.1. Về mặt quy mô đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở Việt Nam


Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, năm 2021, số lượng cán bộ, công chức từ cấp huyện trở lên có 247.344 người, trong đó ở Trung ương có 106.836 người, địa phương cấp tỉnh và huyện có 140.508 người. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã là 226.210 người và số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là 171.894 người, trong đó về mặt quy mô đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có 226.210 người với quy mô và cơ cấu, chất lượng.



2.3.2. Về mặt chất lượng, trình độ, cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam

Qua bảng 2 ta thấy, về mặt quy mô và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của Việt Nam có vào năm 2021 như sau:

Về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam.


- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Trong tổng số 226.210 cán bộ, công chức cấp xã, có 27.258 CBCC có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ (chiếm 12,05%); trình độ đại học có 180.991 người (chiếm tỷ lệ đại bộ phận 80,01%); trình độ cao đẳng có 12.306 người (chiếm tỷ lệ 5,44%); trình độ trung cấp và lao động phổ thông chưa qua đào tạo có 5.655 CBCC (chiếm 2,21%).

- Về trình độ lý luận chính trị: Trong tổng số 226.210 cán bộ, công chức cấp xã có: Cao cấp lý luận chính trị có 10.587 người (chiếm 4,68%); trung cấp lý luận chính trị có 32.325 người (chiếm 14,25%); sơ cấp: 74.310 người (32,85%); chưa qua đào tạo có 108.988 người (48,22%).

- Về trình độ quản lý nhà nước: Trong tổng số 226.210 cán bộ, công chức cấp xã: Đã qua đào tạo có 204.313 người (chiếm 90,32%); chưa qua đào tạo có 21.897 người (9,68%).
- Về phẩm chất, năng lực thực hiện công việc: Trong năm 2021, theo báo cáo của Bộ Nội vụ, tỷ lệ CBCC cấp xã hoàn thành nhiệm vụ trở lên chiếm 98,25% tổng số CBCC, tỷ lệ công chức hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và không hoàn thành nhiệm vụ chiếm 1,75% tổng số CBCC cấp xã. Mặc dù kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của đội ngũ CBCC cấp xã ở Việt Nam năm qua có nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên ở phía các chính quyền địa phương cấp xã đã và đang tiếp tục ban hành nhiều kế hoạch,
chính sách đào tạo, bồi dưỡng, phát triển CBCC cấp xã nhằm kiện toàn về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý CBCC cấp xã trong bối cảnh cuộc CMCN
4.0. Đây là những ưu điểm trong chiến lược phát triển đội ngũ CBCC cấp xã, là tiền đề vững chắc đảm bảo sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội và cuộc CMCN 4.0 của các chính quyền hành chính cấp xã.

Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đạt được nêu trên, hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam nhìn chung vẫn còn những yếu kém, bất cập về nhiều mặt, tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã chưa được đào tạo một cách bài bản về chuyên môn nghiệp vụ còn cao, tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn còn thấp so với yêu cầu. Nhiều cán bộ, công chức cơ sở chưa nắm vững chức năng nhiệm vụ và các quy định của pháp luật, vì vậy quá trình chỉ đạo điều hành, giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, tuỳ tiện, cảm tính. Năng lực ngoại ngữ, tin học còn thấp, đặc biệt năng lực ứng dụng CNTT, chuyển đổi số trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức tại chính quyền cấp xã còn yếu. Năng lực sáng tạo, năng lực thích ứng và năng lực quản lý điều hành chưa ngang tầm với nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ phát triển kinh tế của đất nước và địa phương trong bối cảnh gắn với cuộc CMCN 4.0 hiện nay.

3. Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

3.1. Cơ sở pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức

Chương trình tổng thể cái cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 ban hành kèm theo Nghị quyết số 30cNQ-CP của Chính phủ ngày 08 - 11 - 2011 đã xác định nhiệm vụ xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là khâu then chốt trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước[1]. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18 - 10 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”, trong đó đề ra nhiệm vụ phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Gần đây nhất, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã xác định mục tiêu “…Đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đi đôi với việc củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, công tác tổ chức cán bộ”. Với cơ quan quản lý theo ngành dọc, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và Thông tư số 01/2018/TT-BNV của Bộ Nội vụ hướng dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP nhấn mạnh những yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo vị trí việc làm, chức danh, yêu cầu công việc. Theo đó, xác định đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay là nhiệm vụ trọng tâm, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển bền vững của quốc gia. Đây là các căn cứ pháp lý quan trọng cho các chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước làm cơ sở tổ chức quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng, năng lực lao động giỏi, phẩm chất nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức hợp lý theo ngành, theo thành phần kinh tế, theo khu vực đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước tại chính quyền xã trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 theo đúng các Luật, Nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương cấp xã nhanh, hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

3.2. Công cụ quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là việc giáo dục, đào tạo, bổ sung, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm làm cho họ trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định về mặt trình độ chuyên độ, kỹ năng, năng lực.

Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những định hướng chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam sau năm 2021 là căn cứ chiến lược tổng hợp cấp quốc gia để định hướng cơ sở cho việc lập, trình duyệt và triển khai thực hiện các kế hoạch, chính sách, chương trình và đề án đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ căn cứ của các UBND tỉnh, Sở, Ban, ngành, tổ chức chính quyền địa phương. Vì vậy, đối với chính quyền địa phương cấp xã, các công cụ quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm kế hoạch, chương trình, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam là nhiệm vụ quản lý vĩ mô quan trọng của cấp tỉnh ủy, UBND cấp tỉnh do các chủ tịch, phó chủ tịch, ban tổ chức thành ủy, sở, ban, ngành quản lý CBCC triển khai xây dựng, tổ chức thực hiện.

3.2.1. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam

Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã: Các Sở, Ban, ngành, các tổ chức công trực thuộc chính quyền địa phương cấp tỉnh, huyện, xã tiến hành khảo sát nhu cầu về trình độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ cán bộ, công chức cần đào tạo, bồi dưỡng làm cơ sở lập kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn nâng cao trình độ CMKT cho đội ngũ CBCC cấp xã đáp ứng yêu cầu nhân lực cho các chính quyền địa phương cấp xã để thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0.

Các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, từ Trung ương đến cơ sở, đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản pháp luật để cụ thể hóa đường lối của Đảng, trong đó có lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Các cấp ủy, chính quyền đã coi trọng và đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và không ngừng nâng cao trình độ, kiến thức các mặt của đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã từng bước được phát triển cả số lượng và chất lượng.

Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có kiến thức chuyên môn, đủ năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết tốt các vấn đề thực tiễn ở chính quyền cơ sở. Từng bước nâng cao tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn và vượt chuẩn các chức danh theo quy định, đáp ứng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện thắng lợi cuộc CMCN 4.0 của chính quyền địa phương.

Thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cấp xã đã mang lại những thành tựu to lớn: Trong thời gian qua, nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, Nhà nước và chính quyền địa phương đã thực hiện xây dựng kế hoạch, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã áp dụng linh hoạt một số hình thức đào tạo sau: Tham gia lớp đào tạo, bồi dưỡng tập trung do Trung ương và địa phương mở, qua đó tạo điều kiện cho số lượng lớn CBCC cấp xã đi học tập, góp phần nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã. Việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC đã gắn liền với việc bố trí sử dụng sau đào tạo, luân chuyển, điều động CBCC. Đào tạo, bồi dưỡng tập trung dài hạn qua việc phối hợp với một số trường đại học, cao đẳng, trung cấp trong cả nước. Tổ chức thực hiện kế hoạch bồi dưỡng xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương các lớp quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, lãnh đạo cấp phòng, các lớp lý luận chính trị, các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ một cách thường xuyên, liên tục nhằm nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ CBCC đáp ứng mục tiêu tổng thể cải cách hành chính nhà nước, được xác định bắt đầu từ cấp xã trong giai đoạn hiện nay.

Bên cạnh đó, đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã ở Việt Nam hiện nay còn một số hạn chế như đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn liền với quy hoạch, kế hoạch; đào tạo và sử dụng CBCC cấp xã chưa ăn khớp với nhau; đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự đồng bộ với yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Chưa có kế hoạch đào tạo cụ thể đội ngũ CBCC cấp xã đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực khu vực công trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 ở Việt Nam.

3.2.2. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã

Nhận thức được tầm quan trọng của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nói riêng trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0, Ban Thường vụ tỉnh ủy, Sở, Ban, ngành, chính quyền địa phương các cấp đã ban hành các nghị quyết, chuyên đề về công tác cán bộ như: Các Nghị quyết, các chương trình, đề án về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp giai đoạn 2021 - 2025”. Hàng năm chính quyền địa phương các cấp, các ngành rà soát, đánh giá thực trạng trình độ đội ngũ CBCC cấp xã hiện có, chủ động quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng các chức danh gắn với quy hoạch, bố trí, sắp xếp CBCC phù hợp với vị trí việc làm. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã dự nguồn, CBCC nữ. Rà soát toàn diện CBCC cấp xã để lập kế hoạch đào tạo, phát triển theo phương châm thiếu tiêu chuẩn nào thì đào tạo, bồi dưỡng để hoàn chỉnh tiêu chuẩn đó.

Thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước về nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương cấp xã trong bối cảnh CMCN 4.0. Có được kết quả này là do Nhà nước, các địa phương đã chỉ đạo rà soát quy hoạch phát triển cán bộ, công chức cấp xã, thu hút, tuyển dụng theo chức danh nghề nghiệp, theo vị trí việc làm; dành một lượng ngân sách cho đào tạo CBCC cấp xã, đồng thời áp dụng Thông tư số 06/2012/TT-BNV và Thông tư số 13/2019/TT-BNV để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ CBCC cấp xã giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030.

Thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã ở Việt Nam đã có những ưu điểm: Đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã gắn liền với đặc thù điều kiện kinh tế kỹ thuật tại chính quyền địa phương cấp xã, căn cứ vào tình hình thực tiễn và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã, trong những năm gần đây, chính quyền các cấp đã tổ chức các chương trình, các lớp đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã đảm bảo: Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho CBCC cấp xã; Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lý luận quản lý Nhà nước cho CBCC cấp xã; Đào tạo, bồi dưỡng chương trình tiền công vụ, chương trình quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên, ngạch chuyên viên chính và bồi dưỡng kiến thức lãnh đạo quản lý cấp phòng cho CBCC cấp xã; Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức ngoại ngữ, tin học cho CBCC cấp xã….

Tuy nhiên, mặc dù đã được sự quan tâm của chính quyền và Nhà nước về công tác, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở các chương trình cấp trên, nhưng do còn hạn chế về điều kiện cơ sở vật chất, sự thiếu thốn về nguồn lực và những hạn chế về không gian đối với các xã ở vùng sâu, vùng xa, chưa đủ điều kiện áp dụng công nghệ 4.0 vào trong giải quyết công việc, vẫn sử dụng phương pháp truyền thống nên còn những hạn chế trong đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giữa các vùng, các địa phương với nhau vẫn chưa đồng bộ giữa số lượng, chất lượng và cơ cấu. Các nhóm đối tượng cán bộ, công chức còn chưa đạt các tiêu chuẩn theo quy định, đặc biệt đội ngũ CBCC xã, phường trình độ còn thấp, đặc biệt chưa đạt các tiêu chuẩn quốc tế về nhân sự trong khu vực công.

3.2.3. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã

Để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, chính quyền các cấp, từ tỉnh ủy, UBND tỉnh đến cấp xã cần phối hợp với Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh ban hành các chính sách đào tạo, bồi dưỡng như chính sách phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức; chính sách đầu tư nguồn nhân tài vật lực cho phát triển giáo dục, chính sách đầu tư tài chính cho phát triển giáo dục, đào tạo, kiện toàn hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục nghề nghiệp; chính sách phát triển đội ngũ giáo viên (chính sách đầu tư, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đãi ngộ); chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị giáo dục… trong các trường cao đẳng, đại học nhằm góp phần nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng, phát triển trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 ở Việt Nam hiện nay.

Như vậy, địa phương các cấp đã tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách đào tạo, bồi dưỡng về nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ CBCC cấp xã, góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong bối cảnh CMCN 4.0 và đã đạt được các kết quả sau: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ CBCC cấp xã ở Việt Nam tăng nhanh và tích cực qua các năm (tỷ lệ CBCC có trình độ cao - thạc sĩ, tiến sĩ và đại học tăng nhanh, tỷ lệ CBCC có trình độ cao đẳng, trung cấp giảm rõ rệt hàng năm). Trong những năm qua, từ Trung ương đến địa phương cấp xã đều gia tăng đầu tư các nguồn lực cho giáo dục, đào tạo đội ngũ CBCC cấp xã cho khu vực công trong bối cảnh CMCN 4.0. Điều này đã góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện công việc của đội ngũ CBCC cấp xã và góp phần tích cực vào thực hiện nhanh, mạnh mục tiêu tổng thể cải cách hành chính của Việt Nam giai đoạn hiện nay.

3.3. Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã tại Việt Nam

Thực hiện các chủ trương, chính sách của chính quyền địa phương cấp tỉnh về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cấp xã, bảo đảm nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực, chất lượng đội ngũ CBCC, thực hiện có năng suất, chất lượng, hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế xã hội của chính quyền địa phương cấp xã theo hướng công nghiệp, hiện đại trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 hiện nay, lãnh đạo các tỉnh ủy, UBND cấp tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ CBCC cấp xã đạt các kết quả:

Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ CBCC cấp xã : Theo kết quả báo cáo của Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, Bộ Nội vụ, năm 2021 kết quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cấp xã của toàn Việt Nam đạt 79,92% có trình độ, sơ cấp lý luận chính trị trở lên trong đó có trên 4,68% có trình độ cao cấp lý luận chính trị. Đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn: Đạt 92,06% cán bộ công chức cấp xã được đào tạo có trình độ đại học trở lên.

Bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và kỹ năng cho đội ngũ CBCC cấp xã: Năm 2021 kết quả bồi dưỡng cho đội ngũ CBCC cấp xã của toàn Việt Nam đã đạt: 100% được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước; 100% cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học theo chuẩn Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT của Bộ GD-ĐT và Thông tư 03/2014/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chuẩn kỹ năng sử dụng CNTT.

Năm 2021, theo chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Nội vụ, Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức Bộ đã chỉ đạo các địa phương cấp tỉnh rà soát quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển CBCC theo từng chức danh nghề nghiệp, từng vị trí việc làm, đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo quản lý điều hành đến tận cấp xã hàng năm và 5 năm; hàng năm Bộ Nội vụ đề xuất với Quốc hội, Bộ Tài chính dành trung bình 20% ngân sách cho đào tạo, phát triển CBCC giai đoạn 2020-2025.

Như vậy, nhờ có kết quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã mà trình độ, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam giai đoạn 2015 - 2021 có chất lượng tăng khá đồng đều, năm 2015, tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo có trình độ từ thạc sĩ trở lên chiếm 8,06%,…, đến năm 2021, đạt 12,05% trong khi khối tư nhân tỷ lệ này chỉ đạt dưới 3%. Về trình độ đại học của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chiếm đại bộ phận, năm 2015 tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo đại học chiếm 68,50%, đến năm 2021 đạt tỷ lệ 80,01%. Tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã có trình độ cao đẳng giảm, năm 2021, cán bộ, công chức có trình độ cao đẳng chỉ còn trình này chỉ còn 5,44%. Đạt được kết quả này là do có định hướng của Đảng, Nhà nước, Bộ chủ quản (Bộ Nội vụ) và chính quyền địa phương các cấp đã nỗ lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nói riêng. Các địa phương và tổ chức lãnh đạo khu vực công đã áp dụng Thông tư số 06/2012/TT-BNV và Thông tư số 13/2019/TT-BNV yêu cầu công chức cấp xã phải tốt nghiệp đại học trở lên. Điều này đã góp phần phát triển chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã toàn Việt Nam tăng trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 giai đoạn 2015 - 2021.

Đứng trước tình hình diễn biến căng thẳng của đại dịch Sars-Covid diễn ra khó lường, trong 3 năm 2019 - 2021, Bộ Nội vụ và chính quyền địa phương các cấp đã nhanh chóng chuyển hướng kịp thời, tạo ra sự thích ứng nhanh chóng trong đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ CBCC cấp xã về trình độ chuyên môn, năng lực thích ứng, năng lực sáng tạo, các kỹ năng cần có (đã triển khai hàng vạn lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về CNTT và kỹ năng sử dụng phần mềm họp trực tuyến Meeting, Trans và Zoom. Kết quả thực hiện là 100% cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam đã được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn đủ về CNTT và các phần mềm trực tuyến để phục vụ thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao) để giải quyết, thực hiện nhiệm vụ chính trị ứng phó với đại dịch Sars-Covid nhằm tạo sự bình ổn, phát triển kinh tế xã hội của địa phương theo hướng công nghiệp, hiện đại và tinh nhuệ.

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã đáp ứng về kỹ năng, năng lực và phẩm chất nghề nghiệp của CBCC trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 ở Việt Nam, cụ thể như sau:

Về năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã: Trong điều kiện làm việc của quá trình lao động trong điều kiện CMCN 4.0 thực tế hiện nay, năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã cần có các năng lực gồm: Năng lực hành nghề, năng lực khởi nghiệp, năng lực tự phát triển, năng lực đổi mới, sáng tạo, thích ứng. Theo đánh giá của các cơ quan thì đội ngũ CBCC cấp xã của Việt Nam hiện nay sau đào tạo, bồi dưỡng cơ bản có đủ năng lực để thực hiện công việc, với nhiều năng lực đạt mức khá tốt như năng lực khởi nghiệp, năng lực tự phát triển và khả năng thích ứng đạt mức khá và có đủ năng lực làm việc trong bối cảnh CMCN 4.0.

Về kỹ năng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đội ngũ CBCC cấp xã: Trong bối cảnh CMCN 4.0, các địa phương cấp xã dần chuyển đổi từ mô hình quản lý nông nghiệp, sản xuất thủ công sang sản xuất công nghiệp hiện đại thì đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cần có đủ kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng được yêu cầu thực hiện công việc có tính công nghiệp ngày càng cao như hiện nay. Theo kết quả khảo sát ở một số xã, về kỹ năng thực hiện công việc của đội ngũ CBCC cấp xã đã đạt mức khá, đặc biệt với kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng giao tiếp, làm việc tập thể đạt mức khá tốt, đặc biệt trong công tác giải quyết các thủ tục hành chính có liên quan. Chỉ có kỹ năng KHCN, kỹ năng CNTT còn đạt mức trung bình khá. Điều này cũng cho thấy năng lực CNTT và năng lực ngoại ngữ của đội ngũ CBCC cấp xã còn nhiều hạn chế và cần phải được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung kiến thức, kỹ năng, năng lực về KHCN, CNTT, ngoại ngữ, tin học cho CBCC cấp xã để họ làm tốt các nhiệm vụ chính trị trong bối cảnh CMCN 4.0.

Về phẩm chất nghề nghiệp của đội ngũ CBCC cấp xã trong bối cảnh CMCN 4.0: Thực tế, ở các địa phương, đội ngũ CBCC cấp xã thường có sự cạnh tranh gay gắt để có được vị trí việc làm trong khu vực công vì vậy, đội ngũ CBCC cấp xã luôn nỗ lực rèn luyện phẩm chất nghề nghiệp, luôn cầu thị, thực hiện đúng chủ trương, đường lối, luật pháp, có kỷ luật lao động tốt để duy trì công việc. Tuy nhiên, họ có mức thu nhập không cao, do đó CBCC cấp xã có chiều hướng dịch chuyển ra ngoài làm việc để mưu cầu công việc và cuộc sống, làm chảy máu chất xám sang khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, hiện còn bộ phận nhỏ CBCC cấp xã vẫn bị ảnh hưởng của phương thức sản xuất nông nghiệp, tự do, tùy tiện và chậm rãi trong thực hiện công việc…Điều này ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã trong bối cảnh CMCN 4.0 ở Việt Nam hiện nay.

4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của Việt Nam trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0

Một là, phải xác định đúng đắn mục tiêu đào tạo, phát triển CBCC cấp xã: Thực tế cho thấy, mục tiêu đào tạo, phát triển CBCC ở Việt Nam nói chung đang bị xác định sai lệch. Nhiều CBCC cấp xã tham gia các lớp, các khóa đào tạo, bồi dưỡng chỉ để lấy chứng chỉ, bằng cấp nhằm hợp thức hóa những đòi hỏi về bằng cấp theo yêu cầu của cơ quan. Như vậy, mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ CBCC cấp xã để đạt được kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đã bị đẩy lùi về phía sau. Để nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ CBCC cấp, các cơ quan quản lý cán bộ, công chức, bản thân người cán bộ, công chức và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần phải đẩy mục tiêu kiến thức lên đúng vị trí số một. Muốn vậy, phải xác định đào tạo, phát triển đúng đối tượng CBCC cấp xã, đúng nhu cầu, đúng địa điểm và đúng yêu cầu công việc, cụ thể CBCC cấp xã nào cần phải đi đào tạo, bồi dưỡng thì cho đi; cán bộ, công chức nào thiếu kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ gì thì cho đi đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng đó. Có như vậy, mới kích thích được nhu cầu lĩnh hội kiến thức một cách tự giác và hiệu quả cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã góp phần nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.

Hai là, phải đổi mới, cập nhật liên tục tính mới, tính thời sự, tính khoa học đối với tài liệu, giáo trình phục vụ đào tạo, phát triển CBCC cấp xã: Theo đánh giá của các chuyên gia đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã, hiện nay hệ thống giáo trình, bài giảng, tài liệu phục vụ đào tạo, bồi dưỡng CBCC còn lạc hậu, nhiều tài liệu, giáo trình quá cũ. Có những tài liệu đưa vào giảng dạy đến thời điểm hiện tại vẫn chưa cập nhật kiến thức mới kể từ khi Hiến pháp mới ra đời (2013). Để nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã của các địa phương, các cơ quan quản lý CBCC cấp xã, các cơ sở giáo dục cần phải cập nhật tính mới, tính khoa học, tính thời sự và đảm bảo tính quốc tế đối với hệ thống giáo tình, bài giảng, tập tài liệu phục vụ đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

Ba là, giảm thiểu tính hình thức trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, mang các lớp học đến các cơ sở làm việc tại các địa phương: Ở Việt Nam, hiện nay vẫn đang diễn ra hiện tượng mở lớp đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên viên chính, giảng viên chính cho nhiều cán bộ, công chức bản thân đã là chuyên viên chính, giảng viên chính theo quy định cứng nhắc của nhà nước. Điều này đã dẫn đến hiện tượng nhiều cán bộ, công chức cấp xã tham gia học cho có, hoặc học nhưng không tập trung, lướt điện thoại hoặc làm việc riêng và chờ đợi được nhận tấm chứng chỉ để hợp thức hóa điều mà CBCC đã đạt được trước đó - chuyên viên chính, giảng viên chính. Vì vậy các cơ quan quản lý chuyên môn, quản lý hành chính cần xem xét, nếu CBCC đã là chuyên viên chính, giảng viên chính thì không bắt buộc tham gia những lớp này nữa nhằm giảm tính hình thức, tránh lãng phí nhân tài vật lực trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng CBCC. Bên cạnh đó, hiện nay điều kiện cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, bồi dưỡng CBCC tại các xã cũng đảm bảo vì vậy việc mang lớp học đến với CBCC cấp xã tại cơ sở sẽ tránh lãng phí về cơ sở vật chất, giảm xáo trộn trong giải quyết công việc tại địa phương, nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng do CBCC được thực hành tại cơ sở, vừa học vừa vận dụng vào thực tiễn công việc.

Bốn là, tăng dần kinh phí đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã. Sẽ không có hiệu quả thích đáng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nếu kinh phí đầu tư hạn hẹp. Vì vậy các nhà quản lý, các cơ quan chủ quản, các chính quyền các cấp cần tăng cường đầu tư tài chính, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.

Năm là, gắn đào tạo, phát triển với sử dụng CBCC cấp xã đồng thời tăng cường sự kiểm tra, giám sát đánh giá kết quả thực hiện của CBCC cấp xã sau đào tạo, bồi dưỡng. Đây là biện pháp không thể thiếu trong đào tạo, bồi dưỡng CBCC ở bất kỳ cấp nào bởi hiệu quả sử dụng CBCC là kết quả trực tiếp của quá trình đào tạo, phát triển mang lại. Đào tạo, bồi dưỡng CBCC mà không sử dụng tốt, không đúng vị trí sẽ không phát huy được hiệu quả, gây lãng phí nguồn nhân lực và lãng phí tiền bạc, thời gian. Bên cạnh đó, Sở Nội vụ các tỉnh cần phối hợp với các Phòng Nội vụ ở các huyện tăng cường rà soát, đánh giá kết quả thực hiện công việc của CBCC trước, trong và sau khi đào tạo, bồi dưỡng nhằm đo lường chính xác hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng mang lại.

5. Kết luận

Trong định hướng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của nói riêng, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ: “Đào tạo và phát triển cán bộ, công chức, viên chức, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững đất nước”. Chính vì vậy, việc phân tích để đưa ra các giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở các chính quyền địa phương Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển nhanh và rộng như hiện nay thực sự có ý
nghĩa to lớn.

Trần Lệ Hường
Trường Đại học Nội vụ phân hiệu TP. Hồ Chí Minh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Nội vụ (2021), Báo cáo số lượng cán bộ, công chức cấp xã năm 2015 - 2021, Hà Nội.
2. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 2021-2030 và Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, năm 2021.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, X, XI, XII, XIII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội.
4. Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức (2021), Báo cáo kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức năm 2021, Hà Nội.
5. Trần Thị Thanh Bình (2020), Cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội và thách thức của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản, Hà Nội.

Tin liên quan

Tin mới hơn

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

LNV - Dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngành thủ công, mỹ nghệ Việt Nam vẫn có thể vươn lên khi thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ đô la vào năm 2025 và 6 tỉ đô la vào năm 2030 theo Quyết định đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

LNV - Nghề thủ công truyền thống của các tộc người là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc, qua việc nghiên cứu cũng chính là sự bảo lưu và phát triển bản sắc văn hóa của họ trong cuộc sống hiện đại, đồng thời cũng là sự thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất những giá trị nhân văn cùng những tinh hoa của văn hóa tộc người, đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong đó có các nghề thủ công truyền thống của người Mường Tân Lạc - Hòa Bình.
Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

LNV - Ngay từ năm 1958, sản phẩm thủ công của các làng nghề đã được chọn làm mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Trong suốt thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, thị trường xuất khẩu của sản phẩm thủ công chỉ bó hẹp trong các nước Xã hội chủ nghĩa. Đến thời kỳ đổi mới và gỡ bỏ cấm vận, các sản phẩm thủ công mới có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận với các nước Âu, Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công tăng lên nhanh chóng, và nhiều chủng loại mặt hàng mới cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có hơn 5.000 làng nghề và làng có nghề, thu hút gần 10 triệu lao động, mang lại giá trị xuất khẩu hơn 1,7 tỷ USD/năm. Những con số trên cho thấy sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đã mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng đất nước, an sinh xã hội và nâng cao đời sống cho nhân dân.

Tin khác

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.
Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.
Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Bình Định triển khai Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp”

Bình Định triển khai Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp”

LNV - Thực hiện Quyết định số 897, ngày 26/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình “Hỗ trợ Thanh niên khởi nghiệp” giai đoạn 2022 - 2030, UBND tỉnh Bình Định vừa ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệ
Quảng Ngãi: Đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP đạt 4, 5 sao

Quảng Ngãi: Đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP đạt 4, 5 sao

LNV - Ngày 25/12, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Trần Phước Hiền chủ trì cuộc họp Hội đồng đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP có tiềm năng đạt 4, 5 sao năm 2024.
Phú Yên: Phục hồi và phát triển Làng nghề bánh tráng Long Bình

Phú Yên: Phục hồi và phát triển Làng nghề bánh tráng Long Bình

LNV - Làng nghề bánh tráng Long Bình, ở khu phố Long Bình, thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân là một trong ba làng nghề truyền thống được UBND tỉnh Phú Yên hỗ trợ về vốn đầu tư, đào tạo nghề, tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm tạo điều kiện cho Làng nghề đ
Hội Nhà văn Hà Nội: Tổng kết công tác năm, trao giải thưởng văn học và kết nạp hội viên mới 2024

Hội Nhà văn Hà Nội: Tổng kết công tác năm, trao giải thưởng văn học và kết nạp hội viên mới 2024

LNV - Sáng 25/12/2024, tại Nhà Văn hóa quận Đống Đa, Hội Nhà văn Hà Nội long trọng tổ chức Lễ tổng kết công tác năm và trao giải thưởng văn học Thủ đô; trao quyết định kết nạp hội viên mới của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2024.
Quận Cầu Giấy (Hà Nội): Vươn mình trong kỷ nguyên mới

Quận Cầu Giấy (Hà Nội): Vươn mình trong kỷ nguyên mới

LNV - Năm 2024, quận Cầu Giấy tiếp tục ghi nhận những bước phát triển đồng bộ và toàn diện trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, tài chính - ngân sách, văn minh đô thị. Vượt qua khó khăn, quận Cầu Giấy khẳng định vai trò là một trong
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
Giao diện di động