Hà Nội: 32°C Hà Nội
Đà Nẵng: 30°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 30°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 29°C Thừa Thiên Huế

Phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới ở Nam Định

LNV - Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến phát triển du lịch, thể hiện qua việc ban hành Nghị quyết số 08-NQ/ TW, ngày 16/01/2017, của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”; Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các Quyết định: số 147/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 xác định mục tiêu phát triển của du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; số 150/QĐ- TTg ngày 28/01/2022 về Phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; đặc biệt là Quyết định số 263/QĐ- TTg ngày 22/02/2022 về Phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2021-2025: “Thực hiện hiệu quả Chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng NTM giai đoạn 2021 - 2025 gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống theo hướng bền vững, bao trùm và đa giá trị...”. Đây là cơ hội thuận lợi để Nam Định phát huy tiềm năng phát triển mô hình làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới của tỉnh.
Năm 2020, Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO - World Tourism Organization) đã lấy chủ đề ‘Du lịch và phát triển nông thôn” cho ngày Du lịch thế giới 27/9 nhằm khẳng định vị thế và mối quan hệ mật thiết giữa du lịch và nông nghiệp, nông thôn cũng như động lực phát triển trong thời gian tới. Việt Nam là đất nước nông nghiệp với hơn 60% dân số sinh sống tại khu vực nông thôn, tài nguyên cho phát triển du lịch Việt Nam từ khu vực nông nghiệp, nông thôn là rất lớn. Việc định hướng phát triển du lịch dựa trên khai thác giá trị nông nghiệp, nông thôn đặc biệt là phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống; Sản phẩm du lịch cộng đồng; Mô hình liên kết chuỗi du lịch - nông nghiệp; Kết nối giữa làng nghề với lễ hội và di tích lịch sử, hình thành các tuor du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm... sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho cả hai ngành du lịch và nông nghiệp, vừa góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, vừa nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của nông dân từ hoạt động du lịch mang lại, xây dựng thành công chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới.

Nam Định nằm ở trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng, có diện tích đất tự nhiên là 1652,14 km2, bao gồm 09 huyện và 01 thành phố. Thành phố Nam Định là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của tỉnh, cách thủ đô Hà Nội 90 km về phía Nam theo quốc lộ 1 và 21. Nam Định nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của Tam giác tăng trưởng Hà Nội- Hải Phòng - Quảng Ninh và tuyến hành lang kinh tế Côn Minh- Lào cai - Hà Nội - Hải Phòng, hành lang Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng và Vành đai kinh tế ven vịnh Bắc Bộ (QL1, QL10, QL 21), đường biển và hệ thống sông ngòi thuận lợi cho giao lưu kinh tế, phát triển du lịch.


Khung cảnh khang trang “sáng, xanh, sạch, đẹp” của huyện nông thôn mới Hải Hậu (Nam Ðịnh).


Nam Định không chỉ được biết đến là vùng đất địa linh nhân kiệt - nơi phát tích của vương triều Trần, một trong những triều đại hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam (từ năm 1225 đến 1400, 12 đời vua Trần), mà còn được biết đến bởi kho tàng quý giá gồm trên 1600 di tích lịch sử văn hóa, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc, ẩm thực phong phú. Đặc biệt, những làng nghề nổi tiếng như làng nghề truyền thống hoa, cây cảnh Vị Khê (có từ thế kỷ thứ XIII, năm 1211), Lã Điền, Trừng Uyên (Điền Xá, Nam Trực); Làng nghề mộc Mỹ nghệ truyền thống La Xuyên (Yên Ninh, Ý Yên); Làng nghề đồ gỗ khảm trai Bình Minh (Hải Minh, Hải Hậu); Làng nghề đúc đồng truyền thống Tống Xá (có trên 900 năm)... với những sản phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước.

Nghề và làng nghề đã tồn tại và phát triển như một phần không thể tách rời lịch sử mỗi làng quê, thôn xóm. Đức kiên trì, bền bỉ, sự sáng tạo, khéo léo, bàn tay tài hoa của cha ông đã ghi dấu trên tất cả các di tích lịch sử, văn hóa qua các triều đại. Mỗi làng nghề đều hàm chứa những giá trị văn hóa độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Việc bảo tồn, khôi phục, tuyên truyền quảng bá khơi dậy tiềm năng thế mạnh của mỗi làng nghề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó không chỉ là giải quyết việc làm cho người lao động, xóa đói, giảm nghèo mà còn góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giới thiệu rộng rãi tinh hoa văn hóa Việt đến bè bạn trên thế giới.


Nam Định được mệnh danh là “đất trăm nghề”. Nơi đây đã và đang tồn tại phát triển hàng trăm làng nghề từ xa xưa từng nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam Hạ. Đến bất cứ địa phương nào trong tỉnh, chúng ra đều bắt gặp những di tích thờ các ông tổ nghề và các lễ hội tôn vinh nghề truyền thống với tục “hiến xảo” (dâng các sản phẩm tinh, khéo lên các vị tổ nghề bày tỏ sự tri ân).

Nam Định hiện đang sở hữu nhiều làng nghề có lịch sử hàng trăm năm, được giữ gìn qua nhiều thế hệ. Nếu như huyện Nam Trực nức tiếng gần xa với làng rèn Vân Chàng, làng hoa cây cảnh Vị Khê (Điền Xá); Đan tre ở Thạch Cầu, Trung Lao; Làm hoa giấy, hoa lụa ở Báo Đáp; Luyện đồng, chạm vàng bạc ở Đồng Quỹ… thì huyện Trực Ninh lại được biết đến với nghề ươm tơ, dệt lụa ở các làng Cự Trữ, Cổ Chất, Dịch Diệp. Tiếp đến, Nghĩa Hưng với khâu nón Nghĩa Châu, dệt chiếu Nghĩa Trung, Nghĩa Sơn; đan vó cá Hoàng Nam; Mỹ Lộc với nghề làm chăn bông, quần áo ở Mỹ Thắng. Huyện Vụ Bản - vùng đất “địa linh nhân kiệt” cũng khá giàu có về làng nghề: Rèn Quang Trung; Sơn mài, sơn then làng Hổ Sơn; Gối mây Tiên Hào. Huyện Ý Yên từ lâu đã được xem là đất nghề: Nào là chạm khắc gỗ La Xuyên; Đúc đồng Tống Xá, Vạn Điểm; Nào là sơn mài Cát Đằng, mây tre đan Yên Tiến… Làng sơn mài Cát Đằng vẫn còn truyền tụng câu ca: “Sơn Định Bảng khéo cầm, khéo chế/Thợ tỉnh Nam chạm vẽ khéo tay” nhằm ca ngợi sự tài hoa, thông minh, sáng tạo của những nghệ nhân nơi đây. Với tính kế thừa tay nghề điêu luyện của cả một vùng, sản phẩm của Cát Đằng không những có chất lượng, giá trị sử dụng lâu bền mà còn mang tính mỹ thuật và giá trị xuất khẩu cao. Những mặt hàng chủ yếu của sơn mài Cát Đằng như các loại đĩa, khay, hộp, rương, lọ hoa, tranh sơn thủy… tạo dáng đẹp, trang trí họa tiết hài hòa, kết hợp vỏ trai, vỏ trứng tạo nên chất liệu quý, màu sắc lộng lẫy nhưng vẫn trang nhã, có chiều sâu của sơn mài cổ truyền. Nghề đúc ở huyện Ý Yên với lịch sử lâu đời hơn 900 năm cũng khá nổi danh, hàng trăm xưởng đúc quy mô doanh nghiệp và hộ gia đình, trong đó nhiều doanh nghiệp đã tạo dựng được uy tín trên thương trường, đạt giá trị sản xuất mỗi năm hàng chục tỷ đồng. Đặc biệt, đúc đồng những năm gần đây được cả nước biết đến qua những công trình văn hóa - lịch sử tầm cỡ: Tượng vua Lê Thái Tổ đặt tại vườn hoa Chí Linh (Hải Dương), tượng đài chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ tại thành phố Điện Biên, chùa Đồng ở Yên tử (Quảng Ninh), tượng 14 vị hoàng đế thời Trần (Nam Định), tượng Tam Thế Phật chùa Bãi Đính...


Hơn thế nữa, Chương trình Nông thôn mới: Nam Định trở thành một trong hai tỉnh đầu tiên của cả nước hoàn thành xây dựng NTM (2019), về đích sớm hơn 1,5 năm so với mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX đề ra, 100% số xã, thị trấn và 10/10 huyện, thành phố được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Tính đến 31/12/2021, toàn tỉnh có 106/204 (52%) xã, thị trấn được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Tổng số sản phẩm OCOP của tỉnh là 226 sản phẩm OCOP được công nhận từ 3 sao trở lên. Đây là lợi thế để phát triển du lịch, bởi đã có sự vào cuộc quyết liệt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền từ tỉnh đến cơ sở nhận thức của người dân đã thoát khỏi tư duy đơn thuần là phát triển nông nghiệp, mà hướng tới các loại hình dịch vụ để nâng cao đời sống và thu nhập; mặt khác, cơ sở hạ tầng (đường giao thông, điện, nước sạch, môi trường, thông tin liên lạc, y tế...) được đầu tư xây dựng đồng bộ, hợp lý; Cảnh quan đẹp, môi trường trong lành... sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút du khách và kéo dài thời gian lưu trú.

Một số giải pháp phát triển mô hình làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới tỉnh Nam Định

Sử dụng phân tích SWOT (S: Strengths (thế mạnh); W: Weaknesses (Điểm yếu); O: Opporunities (Cơ hội) và T: Threats (Thách thức) để đề xuất các giải pháp phát triển mô hình làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới:

Trên cơ sở phân tích tiềm năng, sự kết hợp ma trận SWOT về phát triển mô hình làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới tỉnh Nam Định, tác giả xin đề xuất một số giải pháp cơ bản như sau:

Thứ nhất, rà soát xây dựng đề án, tích hợp quy hoạch các khu đủ điều kiện phát triển mô hình du lịch làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới tỉnh Nam Định để thu hút đầu tư; đề xuất chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang kết hợp kinh doanh du lịch theo nhu cầu của từng địa phương và thị trường, trong đó cần gắn với mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Sản phẩm du lịch phải được khai thác dựa trên giá trị cốt lõi/thế mạnh của từng vùng, đảm bảo sự hoàn chỉnh của dịch vụ du lịch, hình thành chuỗi giá trị du lịch - nông nghiệp, tránh sự phát triển ồ ạt, phong trào, quy mô manh mún, nhỏ lẻ. Đặc biệt, chú trọng bảo tồn cảnh quan sinh thái, giá trị văn hóa, không gian văn hóa, di tích lịch sử; Phát triển du lịch phải đảm bảo tính ổn định nhất quán, tránh việc chạy theo thị hiếu nhất thời của khách hàng.

Thứ hai, nâng cao nhận thức về phát triển mô hình làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới: tuyên truyền, nâng cao nhận thức, bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm về phát triển du lịch gắn với nông thôn mới; tăng cường phối hợp giữa các cấp chính quyền với các doanh nghiệp du lịch để đào tạo kỹ năng hướng dẫn du lịch cho người dân làng nghề, tạo môi trường du lịch thân thiện, cởi mở, gần gũi giữa người dân với du khách. Trong đó, cần chú trọng phát triển du lịch phải gắn với thị trường (nhu cầu bền vững, khách hàng tiềm năng), gắn với năng lực cung ứng dịch vụ của điểm đến, tránh việc phát triển theo phong trào, nhu cầu nhất thời không bền vững. Đặc biệt cần có sự đồng thuận, quyết tâm, quyết liệt của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở.

Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch nông thôn: Lựa chọn, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho các nghệ nhân, thợ giỏi, thợ lành nghề trong làng nghề, bà con nông dân. Những người thật sự tâm huyết, có tâm với nghề về các kỹ năng thực hành, thuyết minh, văn hóa, giao tiếp công chúng, thái độ phục vụ du khách...

Thứ tư, đổi mới công tác truyền thông quảng bá sản phẩm du lịch làng nghề truyền thống gắn với xây dựng nông thôn mới, khai thác hiệu quả việc quảng bá trên mạng internet (công nghệ 4.0); Xây dựng bản đồ du lịch bằng các tour du lịch khép kín, kết hợp du lịch làng nghề trong xây dựng nông thôn mới với du lịch tâm linh, thưởng thức ẩm thực, đặc sản, đồ lưu niệm mang văn hóa đặc trưng của các địa phương, của tỉnh; Mở rộng khai thác các thị trường nội địa và quốc tế.

Thứ năm, đẩy mạnh liên kết phát triển du lịch: cần có sự liên kết chặt chẽ của các ngành (nông nghiệp, công thương, công nghiệp chế biến và du lịch) với các công ty lữ hành trong và ngoài nước; Hình thành các dịch vụ ăn uống, lưu trú, tăng cường các hoạt động vui chơi, giải trí phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, giúp du khách có cơ hội giao lưu, trải nghiệm thực tế; thiết kế, chọn lựa các sản phẩm phù hợp làm quà lưu niệm để phục vụ nhu cầu mua sắm của du khách.


Thứ sáu, ngày 11/10/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết 128 để đưa cả nước sang trạng thái bình thường mới, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, trước những diễn biến hết sức phức tạp của đại dịch Covid - 19 phát triển du lịch cần phải linh hoạt trên cơ sở đảm bảo phòng chống dịch bệnh, ứng dụng công nghệ số để đa dạng trong phát triển mô hình du lịch làng nghề truyền thống gắn với xây dựng nông thôn mới như công nghệ thực tế ảo và các tour thực tế với hạn chế số lượng khách...

Thứ bảy, đào tạo, tập huấn phát triển kỹ năng, tiếp cận tài chính, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển đổi kỹ thuật số, đa dạng hóa kinh tế, quản trị mới và đánh giá tác động... trong phát triển mô hình làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới; Năng lực của đội ngũ quản lý Nhà nước về phát triển du lịch nông nghiêp, nông thôn.

Thứ tám, tăng cường công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường bằng các quy định, chế tài, quy định trách nhiệm đảm bảo môi trường cho các khu, điểm du lịch và chính quyền cơ sở; Trang bị công cụ, dụng cụ đảm bảo thu gom và xử lý rác thải; Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cấp, các ngành.

Thứ chín, quản lý chặt chẽ điểm đến, kiểm soát chất lượng dịch vụ; An ninh trật tự, an toàn xã hội: Chú trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy giá trị văn hóa làng nghề truyền thống; Nâng cao nhận thức, ý thức, đạo đức, trách nhiệm đối với nghề cho người dân. Đảm bảo hài hòa lợi ích các bên tham gia, trong đó chú trọng lợi ích của người dân, đặc biệt là những người trực tiếp đóng lịch trong xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Nam Định; Tham mưu Chính phủ ban hành vai trò quan trọng trong hoạt động du lịch tại nông thôn; Quản lý chặt chẽ chất lượng dịch vụ, lồng ghép những yếu tố về bảo tồn văn hóa truyền thống, văn hóa làng nghề thông qua quy chế và ký kết cam kết giữa các nhà cung ứng dịch vụ với các doanh nghiệp lữ hành; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về cấp giấy phép các dự án du lịch nông nghiệp, nông thôn; Rà soát, thực hiện việc công nhận khu, điểm du lịch làng nghề truyền thống theo quy định của pháp luật; trước mắt thực hiện mô hình thí điểm, trên cơ sở kết quả để nhân rộng mô hình trên địa bàn toàn tỉnh.

Đề xuất và kiến nghị:

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Điều tra, khảo sát thực trạng phát triển du lịch nông thôn; Xây dựng cơ sở dữ liệu về hệ thống mạng lưới điểm đến du lịch nông thôn, đề xuất hỗ trợ đầu tư phát triển đồng bộ một số điểm đến, sản phẩm du lịch tiêu biểu tại khu vực nông thôn; Hỗ trợ đầu tư và xây dựng mô hình điểm về làng nghề truyền thống gắn với du du lịch trong xây dựng nông thôn mới; Xây dựng bộ tiêu chí, tiêu chuẩn cho quy hoạch và thực hiện quy hoạch du lịch nông thôn, đặc biệt là du lịch làng nghề truyền thống gắn với xây dựng NTM; Tăng cường quảng bá du lịch nông thôn thông qua ứng dụng chuyển đổi số; Bổ sung kinh phí cho các địa phương để phát triển mô hình du lịch nông nghiệp.

Ủy ban nhân dân tỉnh có cơ chế chính sách bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống; khôi phục các làng nghề truyền thống bị mai một, thất truyền có giá trị văn hóa, bản sắc của tỉnh; tạo điều kiện phát triển mô hình điểm về làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu UBND tỉnh, Bộ Nông nghiệp và PTNT xây dựng thí điểm mô hình làng nghề truyền thống gắn với du lịch trong xây dựng nông thôn mới; Lồng ghép nguồn vốn từ Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới để phát triển mô hình.

Với những tiềm năng và giá trị to lớn của các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Nam Định, việc phát triển các sản phẩm du lịch kết nối giữa làng nghề với lễ hội và di tích, danh thắng ở tỉnh ta cần có sự vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt, chung tay sát cánh giữa các cơ quan chính quyền các cấp, các ngành và sự tham gia tích cực của người dân địa phương, các công ty du lịch, lữ hành trong và ngoài tỉnh để đưa ra các chính sách, định hướng phát triển du lịch nông nghiệp một cách bền vững và hiệu quả góp phần thực hiện thành công Nghị quyết đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020-2025.

Lê Hồng Đức
Chi cục Phát triển nông thôn Nam Định

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Kỳ họp thứ 26 HĐND TP Hà Nội sẽ xem xét 26 nội dung, với nhiều dự án hạ tầng quy mô lớn

Kỳ họp thứ 26 HĐND TP Hà Nội sẽ xem xét 26 nội dung, với nhiều dự án hạ tầng quy mô lớn

LNV - Ngày 16-9, HĐND thành phố Hà Nội đã có Thông báo số 38/TB- HĐND về nội dung, thời gian và công tác chuẩn bị tổ chức kỳ họp thứ 26 (kỳ họp chuyên đề) của HĐND thành phố khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026.
Thủ tướng: Từ năm học 2026-2027 triển khai bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc

Thủ tướng: Từ năm học 2026-2027 triển khai bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc

LNV - Với những chỉ tiêu cụ thể: bảo đảm chi tối thiểu 5% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, trong đó 3% cho giáo dục đại học; xây dựng thêm 100 trường phổ thông dân tộc nội trú tại khu vực biên giới, miền núi; từ năm học 2026–2027 triển khai sách
Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

LNV - Thời gian qua, xã Chiêm Hóa (Tuyên Quang) đã có bước phát triển vượt bậc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thương mại – dịch vụ, tài chính – tín dụng, ứng dụng công nghệ số phát triển mạnh, góp phần nâng cao đời s
OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OVN - Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được xác định là một trong những giải pháp quan trọng giúp các địa phương phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng sẵn có, đồng thời xây dựng thương hiệu cho sản phẩm đặc trưng. Tại Phú Thọ, sau sáp nhập, tỉnh
Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

OVN - An Giang – vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc hùng vĩ của núi non, rừng tràm và những cánh đồng lúa bạt ngàn, mà còn lưu giữ trong mình kho tàng ẩm thực độc đáo. Giữa muôn vàn sản vật địa phương, nước mắm Huỳnh Khoa đư
Giao diện di động