Hà Nội: 19°C Hà Nội
Đà Nẵng: 23°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 21°C Thừa Thiên Huế

Những gia đình cuối cùng ở Khe Nhè giữ nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan

LNV - Nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan ở bản Khe Nghè(xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang) đã có ngay từ những ngày đầu tiên khi họ tới vùng đất vải sinh sống. Dù nắm giữ trong tay những bí quyết riêng tạo nên thương hiệu giấy dó Cao Lan từng một thời được ưu chuộng nhưng giờ đây ở Khe Nhè chỉ còn một vài hộ gia đình còn gìn giữ nghề truyền thống của cha ông bằng lòng đam mê.


Công đoạn tráng bột giấy ra khuôn để làm giấy dó của người Cao Lan. (Ảnh: Báo Bắc Giang).

Sự khác biệt của dó Cao Lan

Nghề giấy dó của người Việt được một số thư tịch cổ nước ngoài nói rằng có từ thế kỷ 3 sau công nguyên. Khi đó, người Giao Chỉ đã biết dùng gỗ mật hương để chế tác thành một loại giấy bản tốt, có tên gọi là giấy mật hương.

Khi nhà nước Đại Việt ra đời và quyết định lựa chọn Thăng Long làm kinh đô thì nghề làm giấy càng phát triển. Bởi thời điểm này nhu cầu của xã hội bắt nguồn từ việc học tập, giao dịch, thi cử phát triển đã giúp nghề làm giấy dó phát triển mạnh mẽ. Ở nhiều địa phương như: làng Đống Cao (Kinh Bắc); làng An Thái, Yên Hòa (Thăng Long); làng An Phúc ở (Hà Tây) và một số đồng bào dân tộc thiểu số cũng có nghề làm giấy dó như dân tộc Mông; Cao Lan; Dao;…

Họa sĩ Đào Ngọc Hân, Ủy viên Ban chấp hành Hội Khảo cổ học Việt Nam, Phó Giám đốc Trung tâm Khảo cổ học ứng dụng từng khẳng định: “Nghề làm giấy dó không chỉ là “đặc sản” của người Kinh sinh sống ở miền Bắc Việt Nam mà một số dân tộc thiểu số nước ta cũng có nghề làm giấy dó từ các nguyên liệu giàu bột giấy như các loại cây dó, cây dướng, thân tre non và cuống rơm”.

Trong số đó, kỹ thuật, chất lượng giấy dó của người Cao Lan sống ở bản Khe Nghè, sườn Tây Yên Tử được nhiều nơi biết tới bởi có nhiều khác biệt với cách làm của những nơi khác.

Bản Khe Nghè có hơn 70 hộ, chủ yếu là người Cao Lan. Đồng bào nơi đây có nhiều nét văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó có nghề dệt thổ cẩm và làm giấy dó. Theo lời kể của nhiều bậc cao niên trong làng, từ ngày người Cao Lan tới vùng đất này sinh sống, nghề làm giấy dó đã rất thịnh hành, phần lớn các gia đình ở đây đều làm giấy.


Anh Dương Văn Quang giới thiệu công đoạn cuối cùng để làm giấy dó.

Ở vùng cao, trong đời sống tâm linh, giấy dó được sử dụng trong nhiều nghi lễ truyền thống. Ví dụ như trong đám ma, họ đục hoa văn trên giấy để làm lễ cúng, giống như một loại tranh thờ. Về sau đóng thành quyển để làm sách, viết chữ. Nhiều khách từ các tỉnh lân cận như Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội đều tìm đến để mua cho kỳ được giấy dó, vì giấy dó của người Cao Lan nổi tiếng là chất lượng tốt nên thu hút được nhiều khách hàng.

Những ngày cả bản nhà nhà, người người làm giấy dó đó chỉ còn trong quá khứ. Ngày nay, ở bản Khe Nghè chỉ còn một vài ba hộ làm để giữ nghề truyền thống chứ không ai thực sự sống được với nghề. Bà Trạc Thị Ngọn (80 tuổi) cùng con trai là Dương Văn Quang là một trong số ít người ở Khe Nghè còn theo đuổi đam mê làm giấy dó. Bà Ngọn cho biết, xưa kia, giấy dó được sử dụng phổ biến để lưu giữ chữ viết, tranh vẽ, tranh thờ, in dập các văn tự cổ, ghi chép gia phả của các dòng họ, gia đình...

Giấy dó được ưa chuộng bởi nó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc dòn gẫy, ẩm nát. Tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, trong số những tài liệu giấy, thì tài liệu giấy dó có tuổi thọ cao nhất. Các tài liệu giấy dó là những loại tài liệu được sản sinh lâu đời nhất, từ khi các phương tiện bảo quản chưa được phát triển.

Ở Việt Nam có nhiều nơi làm giấy dó, nhưng mỗi nơi có những kỹ thuật, bí quyết riêng. Điểm khác biệt trong kỹ thuật làm giấy dó của người Cao Lan là họ không seo giấy trong bể seo mà đồ bột giấy lên khuôn tráng có căng lớp vải để thoát nước. Khuôn tráng giấy dó được dựng nghiêng để phơi cho đến khi tách được tờ giấy ra...


Anh Dương Văn Quang giới thiệu cho học sinh về các công đoạn làm giấy dó.

Anh Dương Văn Quang cho biết: “Nguyên liệu chính để làm ra sản phẩm giấy dó của người Cao Lan gồm hai loại là cây vợt pạ và dây hau pau (cây dưỡng). Hai loại cây và dây này đều có trên những ngọn núi, khu rừng cao. Người Cao Lan khi làm giấy phải cất công lên rừng, lên núi, trèo đèo, lội suối để tìm kiếm hai loại cây này. Trong đó, hau pau được dùng để làm thành bột giấy, còn vạt pạ được ngâm để lấy nước, tạo thành chất hồ của giấy”.

Cây hau pau sau khi lấy về sẽ được làm sạch vỏ, ngâm với nước vôi trong và ninh cùng nước hòa tro bếp. Vỏ cây hau pau dễ bóc vỏ, nhất là khoảng tháng 3 và tháng 7. Vỏ cây hau pau sẽ tiếp tục được làm sạch tro bám. Đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất, đòi hỏi sự tỉ mỉ, không thể nóng vội để tạo được độ sáng trắng của giấy. Hau pau sau khi được ninh nhừ sẽ được đem đi giã hoặc đập dập.

Đối với cây vợt pạ phải tách lấy vỏ, cạo sạch lớp vỏ lụa ngoài màu nâu, bó thành cuộn rồi ngâm vào chậu nước sạch một đêm. Sáng hôm sau, mớ vỏ được vớt ra, người làm sẽ thu được một chậu keo có màu trong vắt. Công đoạn cuối cùng là đem phần vỏ được đập nát xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh. Trong quá trình khuấy trộn cùng nước ngâm vạt pạ để giấy khi vào khung sẽ không bị dính.

Cũng giống nhiều vùng khác, đồng bào Cao Lan cũng tự sáng chế khung làm giấy dó cho mình. Khung được ghép vuông bằng bốn thanh gỗ, ở giữa căng vải màn hay vải xô, độ dày mỏng của vải căng quyết định độ dày, mỏng của giấy dó.Ngoài ra, còn có một nồi nấu chất liệu giấy và một chậu đựng nước pha bột giấy...

“Khi trộn hồ với bột phải bằng cách cảm nhận, không thể đong đếm được. Tôi học làm giấy từ rất lâu rồi, lúc đầu làm cũng thử đong xem nhưng không được bởi vì khi cái cây hồ non thì tỷ lệ hồ kém hơn một chút, nếu mình cứ đong bằng một ca như mọi khi thì lại không đủ, còn cây già hơn một chút thì đong bằng một ca đó lại bị quá nhiều. Vậy nên chỉ bằng cách pha xuống khung, mình sờ tay xuống cảm nhận. Sau này khi mình sờ, cảm nhận bằng tay quen rồi thì đủ lượng là mình biết luôn, mình tráng lên tờ giấy lại phải tráng tay thật đều, thật phẳng không thì tờ giấy bị chỗ mỏng chỗ dầy”, anh Dương Văn Quang cho hay.


Bộ tranh Tố Nữ của họa sĩ Lý Trực Sơn trên chất liệu giấy dó.

Khi bột giấy đã dàn đều thì dựng khung nghiêng, tìm nơi sạch sẽ, thoáng đãng, nhiều nắng gió để phơi giấy cho khô. Khi phơi cũng phải đặt khuôn phẳng mặt thì tờ giấy mới mịn đều. Lấy giấy khô cần gỡ mép trước, sau đó lột cả tờ giấy lên. Sản phẩm cuối cùng, giấy dó có màu trắng, giấy dày đều, phẳng và dai.

Ở trong bản Khe Nghè, những người còn nặng lòng với nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan cùng chung nỗi lo bởi giờ đây còn rất ít người trong bản và những nơi khác biết làm giấy dó truyền thống.Được làm từ bàn tay khéo léo của người Cao Lan theo bí quyết riêng, sản phẩm giấy dó tuy mỏng nhưng dai và bền hơn giấy sản xuất công nghiệp. Nếu bảo quản cẩn thận có thể để vài chục năm vẫn sử dụng tốt. Giấy dó giờ không còn được nhiều ưu chuộng và mua như trước khi giấy công nghiệp đa dạng, rẻ và trở nên thông dụng.

Ngành Văn hóa địa phương đã từng có một số chương trình hỗ trợ bảo tồn, phát huy giá trị nghề làm giấy dó ở Khe Nghè. Ông Nguyễn Văn Quế, Trưởng phòng Chính sách, Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang cho biết: Là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống lâu đời, tồn tại hàng trăm năm với tên tuổi, bản sắc văn hóa dân tộc, tỉnh Bắc Giang đã và đang thực hiện quy hoạch phát triển làng nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trong đó có nghề làm giấy dó ở xã Lục Sơn.

Tuy nhiên, bản thân anh Quang đã nhiều lần được mời tham gia trình diễn làm giấy dó tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, song vẫn chưa tìm được người trẻ tâm huyết để truyền nghề. Nguy cơ thất truyền nghề làm giấy dó chỉ là thời gian không xa.

Cơ hội cho giấy dó ở thời đại 4.0

Vào tháng 5/2019, Trung tâm Quản lý văn hoá phổ cổ Hà Nội đã tổ chức toạ đàm chủ đề: “Dó Việt xưa - nay” tại đình Kim Ngân (phố Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội).

Cũng như một số nghề truyền thống khác của người Việt xưa, nghề làm giấy dó đã có nhiều thế kỷ hưng thịnh trước khi bị dòng thời gian và sự biến đổi, phát triển của xã hội làm mai một. Được đánh giá là một trong những loại giấy bền nhất thế giới có niên đại lên đến 500 – 600 năm, giấy dó một thời huy hoàng trong đời sống người Việt.

Trước khi làm ra giấy, từ thời cổ, người Việt cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới đã dùng các loại vật liệu khác để ghi chép như khắc trên đồng, trên đá, trên mai rùa, xương thú, trên đất sét, đất nung, viết trên tre, nứa, trúc, trên lá cọ, trên lụa,... Những loại “sách vở” ấy đến nay còn lại khá nhiều ở nước ta. Các nhà khảo cổ, các nhà dân tộc học gần đây còn phát hiện được sách đồng ở Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam và sách đá ở Thanh Hoá…

Họa sĩ Đào Ngọc Hân cho biết, nghề làm giấy dó ở Việt Nam xuất hiện trong sử sách và các tư liệu vào thế kỷ thứ 3 cho đến khi nước Đại Việt ra đời, định đô ở Thăng Long. Vào thời xưa, giấy dó rất hưng thịnh, trong các khu chợ bán giấy như làng Yên Thái, Nghĩa Đô, Cầu Giấy… người mua kẻ bán rất tấp nập, cả làng trắng xóa bởi giấy dó đem phơi…

Theo họa sỹ Đào Ngọc Hân, câu chuyện về tổ nghề giấy ở Việt Nam có nhiều dị bản khác nhau nhưng nhìn chung, theo những ghi chép về giấy của ta thời thượng cổ do người Việt viết thì đến nay vẫn chưa tìm thấy trong vốn sách sử cổ còn sót lại của nước nhà. Sách “Thiên tự Văn” của Trung Quốc viết rằng: Thái Luân đã sáng chế ra giấy, bằng cách dùng vỏ cây có xơ, gọi là ma chỉ, dùng vải cũ, lưới đánh cá cũ giã ra làm giấy gọi là võng chỉ, dùng cây dó làm giấy gọi là cốc chỉ. Thái Luân làm quan và chế ra giấy vào đời vua Hoà Đế nhà Hán.

Trong quá trình lịch sử, trên lĩnh vực sản xuất giấy, thợ thủ công Việt Nam đã tỏ ra hết sức tài khéo. Họ làm ra nhiều loại giấy, trong đó có một số loại giấy quý, rất đẹp và qua thử thách của thời gian, khí hậu, đã tỏ ra vô cùng bền. Do đó, ngay từ thời vua Lý Cao Tông (1176-1210) một số loại giấy tốt của ta đã thuộc vào hàng đặc sản cống phẩm cho nhà Tống.

Khoảng cuối đời nhà Lý đến đầu đời nhà Trần mới thấy có tài liệu lịch sử ghi lại rằng: “Ở phía Tây của kinh đô Thăng Long, có một xóm thợ thủ công chuyên về làm giấy. Đó là phường giấy làng Dịch Vọng. Gần đấy có Cầu Giấy”. Đến thế kỷ thứ 15, một phường làm giấy khác nổi lên, phồn thịnh hơn cả phường giấy Dịch Vọng, đó là phường giấy Yên Thái (làng Bưởi - Hà Nội). Sách “Dư địa chí” trong “Nguyễn Trãi toàn tập” của Nguyễn Trãi có nói đến làng giấy này. Nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn, ở thế kỷ 18, trong bộ sách bách khoa “Vân đài loại ngữ” của ông đã có khảo cứu về nghề làm giấy ở nước ta…

Như vậy, nghề làm giấy ở nước ta có lịch sử lâu đời và đến đầu thế kỉ 18 thì đã phát triển khá rộng rãi ở nhiều địa phương. Sản lượng giấy lúc này đạt mức đủ đảm bảo để in được nhiều sách bằng “giấy nội hoá”.

Là một họa sĩ có nhiều tác phẩm tham gia triển lãm “Dó Việt xưa-nay”, họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, chia sẻ: Trong đời sống xã hội ngày nay, giấy dó đã được sử dụng phổ biến hơn trong mỹ thuật, trở thành chất liệu để sáng tạo văn hóa mỹ thuật Việt. Tôi rất thích sử dụng giấy dó để vẽ, bởi nó có giá trị thẩm mỹ trong nghệ thuật rất đắc địa và có sự phóng túng, mộc mạc, dung dị hơn hẳn nguyên liệu vẽ tranh lụa.

“Các chuyên gia quốc tế đánh giá rất cao về giá trị của giấy dó Việt, họ khẳng định giấy dó Việt là tốt nhất. Điều đáng tiếc là, nguồn chất liệu quý giá siêu bền giờ mới chỉ phục hồi trong mỹ thuật, cung cấp một chất liệu sáng tạo văn hóa và phục vụ được nhóm đối tượng rất nhỏ. Chúng ta cần đưa giấy dó đi chinh phục để nhiều người biết đến và có thể ứng dụng rộng rãi vào đời sống đương đại”, ông Đức nhấn mạnh.

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, giấy Dó truyền thống đang bị lấn át bởi các loại giấy khác. Hiện nay, rất khó để có thể tìm được một cửa hàng bán tranh vẽ trên giấy dó.

Theo nghệ nhân Ngô Thu Huyền, một trong những người trẻ hiếm hoi của làng Dương Ổ, phường Phong Khê, thành phố Bắc Ninh còn tiếp tục theo nghiệp làm giấy dó, đối với một nghề truyền thống thì không chỉ để dành cho việc trưng bày mà nó cần phải có giá trị ứng dụng vào đời sống cao. Ngày nay, sự ra đời của công nghệ in ấn, giấy công nghiệp ngày càng chiếm ưu thế, được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội bởi sự tiện lợi phù hợp với nhu cầu sử dụng. Do đó, muốn giấy Dó được nhiều người sử dụng, cần làm tăng giá trị ứng dụng của nó.

Chị Ngô Thu Huyền chia sẻ: “Về giấy dó trên thị trường hiện nay thì nhu cầu sử dụng của mọi người cũng khác nhau. Ví dụ như dòng giấy để lưu trữ bảo quản thì phải có chất lượng rất tốt. Thứ hai là nếu muốn sử dụng dòng giấy thủ công thì cần phải có tính thẩm mỹ, ví dụ mình có thêm họa tiết khác nhau để tạo nên những tờ giấy có tính thẩm mỹ cao. Và mình cũng sản xuất thêm dòng giấy dành cho các bạn viết thư pháp phương Tây và vẽ màu nước. Vẫn là chất liệu giấy Dó nhưng phải có sự thay đổi để phù hợp với nhu cầu sử dụng”.

Do đó, Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức cho rằng để giấy Dó không bị mai một, chúng ta cần hỗ trợ về công nghệ, tạo ra một thị trường rộng hơn cho những người sản xuất, thay vì chỉ đáp ứng nhu cầu cho một vài đối tượng như hiện nay, có như vậy những nghệ nhân mới có thể sống được với nghề.

Cao Lan là một trong hai nhóm của dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chí). Trước đây các học giả người Pháp coi người Cao Lan là một bộ phận của dân tộc Dao. Người Cao Lan còn được gọi là người Trại. Cho đến nay, người Cao Lan ở Bắc Giang vẫn tự nhận mình là người dân tộc Cao Lan, có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.

Theo kết quả khảo sát, nguồn gốc của người Cao Lan ở Bắc Giang là từ Quảng Đông, Quảng Tây, Dương Châu, Quý Châu (Trung Quốc) di cư sang Việt Nam đã được 300 năm. Đến Việt Nam, người Cao Lan cư trú ở tỉnh Quảng Ninh sau đó di cư đến các huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang.

Theo số liệu thống kê năm 2014, nhóm dân tộc Cao Lan - Sán Chí ở Bắc Giang có khoảng trên 25 nghìn người, sống tập trung ở 4 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế.

Theo Tiểu Vũ

Tin liên quan

Tin mới hơn

Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

Thái Nguyên là vùng đất gắn với cây chè truyền thống, sản phẩm chè được đem đi khắp các vùng miền và cả thị trường nước ngoài, được những người sành chè và nhiều thị trường khó tính chấp nhận. Tại Thái Nguyên vùng đất Tân Cương từ lâu được biết đến như “đệ nhất danh trà”, nơi hội tụ khí hậu, thổ nhưỡng và bàn tay cần mẫn của người trồng chè để tạo nên những búp trà xanh ngát, mang hương vị đặc trưng khó lẫn. Giữa không gian ấy, Hương Vân Trà nổi lên như một doanh nghiệp đi đầu trong hành trình gìn giữ và phát triển những giá trị trà truyền thống, đồng thời luôn mạnh dạn đổi mới để góp phần tạo nên một sản phẩm nông sản sạch, chất lượng, uy tín, đưa sản phẩm trà Tân Cương (Thái Nguyên) vươn tầm ra thế giới.
Vigo Bát Tràng: Hơi thở mới cho làng gốm nghìn năm tuổi

Vigo Bát Tràng: Hơi thở mới cho làng gốm nghìn năm tuổi

LNV - Bát Tràng ngôi làng gốm cổ kính ven sông Hồng, vốn nổi danh là “công xưởng” gốm sứ hàng đầu Việt Nam. Tuy nhiên, giữa guồng quay sản xuất hối hả, tiềm năng du lịch và giá trị văn hóa cốt lõi của làng nghề đôi khi bị lu mờ. Chính trong bối cảnh đó, một người con ưu tú của làng gốm, anh Lê Đình Tùng, đã nhen nhóm và hiện thực hóa dự án VIGO Bát Tràng, mang đến một hướng mới về trải nghiệm, kết nối và lan tỏa văn hóa Bát Tràng đến cộng đồng trong và ngoài nước.
Nghệ nhân thổi hồn vào những sản phẩm từ mây tre

Nghệ nhân thổi hồn vào những sản phẩm từ mây tre

LNV - Đến số nhà 19, Hồ Phương Lưu (phường Đông Hài – TP Hải Phòng) mọi người sẽ nhìn thấy một cổng vòm hoàn toàn bằng Tre trên có biển hiệu “ WSV - GYM & COFFEE”. Bên trong cống này là một quán cà phê, đồng thời cũng là xưởng chế tác, trưng bày sản phẩm làm từ tre của nghệ nhân Nguyễn Văn Mạnh (43 tuổi), một Nghệ nhân chuyên xây dựng các nhà hàng, quán cà phê và các sản phẩm gia dụng khác rất độc đáo vừa mang tình truyền thống và hiện đại mà nguyên liệu hoàn toàn làm từ mây và tre.
Sẵn sàng cho đề cử làng nghề truyền thống tham gia mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo Thế giới

Sẵn sàng cho đề cử làng nghề truyền thống tham gia mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo Thế giới

LNV - Làng nghề tạc tượng gỗ, tượng sơn son thếp vàng Sơn Đồng thu hút giới sành đồ thờ, trang trí bởi giá trị văn hóa truyền thống, lịch sử. Đây là làng nghề có sức sống bền bỉ theo suốt chiều dài lịch sử đất nước. Có lúc thăng lúc trầm nhưng mạch nguồn nghề truyền thống tạc tượng sơn son thiếp vàng vẫn tồn tại và phát triển.
"Nước mắm Cà Ná" Khánh Hoà 100 năm tinh hoa từ biển

"Nước mắm Cà Ná" Khánh Hoà 100 năm tinh hoa từ biển

LNV - Những con cá cơm ngọt tươi, nẩy thịt, giàu đạm ướp với muối tinh chất tốt nhất vùng Đông Nam Á theo công thức ủ chượp - kéo rút gia truyền đã tích lũy qua trăm năm, tạo nên đặc sản “nước mắm Cà Ná” màu hổ phách với vị đậm đà, thơm ngon đến đến giọt cuối cùng.
Chuyên Mỹ: Vùng đất của những bàn tay giữ lửa nghề truyền thống

Chuyên Mỹ: Vùng đất của những bàn tay giữ lửa nghề truyền thống

LNV - Sau sáp nhập, xã Chuyên Mỹ mới nổi lên như trung tâm nghề thủ công phía Nam Hà Nội, nơi hội tụ nhiều làng nghề lâu đời như khảm trai – sơn mài, da giày, mộc mỹ nghệ, may mặc. Với nền tảng văn hóa đặc sắc và tinh thần sáng tạo bền bỉ, Chuyên Mỹ đang từng bước chuyển mình, hướng tới phát triển công nghiệp văn hóa và du lịch làng nghề.

Tin khác

Hành trình chuyển mình của các làng nghề Việt Nam

Hành trình chuyển mình của các làng nghề Việt Nam

LNV - Làng nghề không chỉ đơn thuần làm ra sản phẩm, mà phải trở thành chủ thể sáng tạo văn hóa: chuyển hóa bản sắc địa phương, lịch sử và mỹ thuật cổ truyền thành những sản phẩm sống động, phù hợp với thị hiếu người dùng. Chất lượng, thiết kế, bao bì, câu chuyện văn hóa… trở thành các yếu tố quan trọng tạo nên giá trị gia tăng cho sản phẩm thủ công.
Khơi mở sức sống mới cho di sản làng nghề Huế

Khơi mở sức sống mới cho di sản làng nghề Huế

LNV - Giữa không gian trầm mặc của Ngự Hà Viên, buổi sáng mùa thu xứ Huế như hiện lên bằng những gam màu cổ kính: mái ngói rêu phong, mặt nước lặng, những đường cong của kiến trúc xưa vẫn đằm mình giữa nhịp sống hiện đại. Trong không gian ấy, hội thảo “Khơi nguồn cảm hứng di sản kiến tạo tương lai làng nghề” diễn ra như một cuộc chuyện trò sâu lắng về cách gìn giữ và đánh thức đời sống mới cho di sản làng nghề cố đô.
‘Xanh hóa’ làng nghề: Hà Nội chuyển mình vì môi trường và tương lai

‘Xanh hóa’ làng nghề: Hà Nội chuyển mình vì môi trường và tương lai

Hà Nội đang đẩy mạnh “xanh hóa” các làng nghề truyền thống thông qua quy hoạch đồng bộ, ứng dụng công nghệ sạch, hoàn thiện chính sách và nâng cao ý thức cộng đồng.
Bảo tồn và phát triển làng nghề gắn với du lịch trong bối cảnh mới

Bảo tồn và phát triển làng nghề gắn với du lịch trong bối cảnh mới

LNV - Hội thảo “Các giải pháp bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với du lịch, giữ gìn các giá trị văn hóa tạo ra đa giá trị cho làng nghề” vừa diễn ra với sự tham dự của đại diện các bộ, ngành, chuyên gia trong nước, quốc tế và các tổ chức nghề thủ công. Sự kiện nhằm chia sẻ kinh nghiệm, giới thiệu mô hình hiệu quả và đề xuất các giải pháp thiết thực để phát huy tiềm năng, lợi thế của làng nghề Việt Nam trong giai đoạn mới.
Người giữ hồn nón lá làng Chuông giữa nhịp sống hiện đại

Người giữ hồn nón lá làng Chuông giữa nhịp sống hiện đại

LNV - Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghề, nghệ nhân Lê Văn Tuy không chỉ làm nên những chiếc nón tinh xảo mà còn bền bỉ lan tỏa giá trị văn hóa làng Chuông ra thế giới.
Đưa khảm trai – sơn mài Chuyên Mỹ lên bản đồ thế giới

Đưa khảm trai – sơn mài Chuyên Mỹ lên bản đồ thế giới

Ngày 17/11, xã Chuyên Mỹ tiếp đón gần 200 đại biểu quốc tế trong khuôn khổ chương trình thẩm định để công nhận làng nghề khảm trai - sơn mài Chuyên Mỹ trở thành thành viên Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới năm 2025.
Nâng tầm làng nghề trong chiến lược phát triển nông thôn bền vững

Nâng tầm làng nghề trong chiến lược phát triển nông thôn bền vững

LNV - Sau 6 năm triển khai Nghị định 52/2018/NĐ-CP và 3 năm thực hiện Chương trình bảo tồn, phát triển làng nghề theo Quyết định 801/QĐ-TTg, khu vực làng nghề nông thôn đạt nhiều kết quả nổi bật nhưng cũng đối mặt không ít thách thức về nguyên liệu, công nghệ, thị trường và nhân lực.
Chuyên Mỹ khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn năm 2025

Chuyên Mỹ khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn năm 2025

Tối 15/11, UBND xã Chuyên Mỹ cùng Sở Nông nghiệp & Môi trường Hà Nội tổ chức khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tham dự khai mạc có đại diện các sở, ban, ngành Thành phố và địa phương lân cận.
Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Việt Nam gắn với Du lịch và Giá trị Văn hóa

Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Việt Nam gắn với Du lịch và Giá trị Văn hóa

Trong bối cảnh nhiều làng nghề truyền thống đang đối mặt với nguy cơ mai một, Hội thảo “Các giải pháp bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với du lịch, giữ gìn các giá trị văn hóa, tạo ra đa giá trị cho làng nghề” diễn ra nhằm tìm lời giải cho bài toán vừa gìn giữ bản sắc vừa nâng cao giá trị kinh tế.
Làng miến dong Bình Lư vươn mình từ đặc sản quê hương

Làng miến dong Bình Lư vươn mình từ đặc sản quê hương

LNV - Những ngày này, tại xã Bình Lư (tỉnh Lai Châu), không khí sản xuất miến dong trở nên rộn ràng hơn bao giờ hết. Từ sáng sớm, dọc các con ngõ nhỏ, từng mẻ miến mới được đưa ra phơi, phủ trắng những khoảng sân, báo hiệu một mùa dong riềng bội thu và một năm sản xuất đầy kỳ vọng.
Khai mạc Festival Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Quốc tế 2025

Khai mạc Festival Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Quốc tế 2025

Khai mạc Festival Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Quốc tế 2025, sự kiện quy mô lớn quy tụ những sản phẩm tinh hoa cùng hàng trăm nghệ nhân trong và ngoài nước. Bên cạnh trưng bày và trình diễn nghề, Festival còn tạo ra không gian kết nối thương mại, giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm nhằm thúc đẩy phát triển bền vững cho các làng nghề truyền thống.
Chào đón Đại biểu Quốc tế dự Festival Bảo tồn và Phát triển Làng nghề 2025

Chào đón Đại biểu Quốc tế dự Festival Bảo tồn và Phát triển Làng nghề 2025

Chiều ngày 14/11, UBND TP. Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (Bộ NN &MT) đã tổ chức buổi làm việc với Hội đồng Thủ công thế giới và đoàn khách quốc tế tham dự Festival Bảo tồn và phát triển làng nghề quốc tế năm 2025
Tò he Xuân La và hành trình trong kỷ nguyên số

Tò he Xuân La và hành trình trong kỷ nguyên số

LNV - Trong nhịp sống sôi động của thời đại công nghệ, khi trò chơi điện tử và giải trí trực tuyến chiếm lĩnh phần lớn đời sống tinh thần thì tò he vẫn giữ được chỗ đứng riêng. Tò he giờ đây không đây không chỉ xuất hiện bên cổng trường hay khu vui chơi, ngày nay bên cổng trường hay khu vui chơi, ngày nay thứ đồ chơi truyền thống ấy đã bước tới không gian mạng, đến gần hơn với công chúng trẻ. Người góp phần quan trọng trong hành trình ấy là nghệ nhân Đặng Văn Hậu, người con của làng Xuân La (xã Phượng Dực, Thành phố Hà Nội) - cái nôi của nghề nặn tò he trứ danh đất Thăng Long.
Hiệp hội Làng nghề Thành phố Hải Phòng phát huy thành tích tiến tới đại hội nhiệm kỳ 2025 - 2030

Hiệp hội Làng nghề Thành phố Hải Phòng phát huy thành tích tiến tới đại hội nhiệm kỳ 2025 - 2030

LNV - Bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội II Hiệp hội Làng nghề thành phố Hải Phòng trong bối cảnh chính trị, kinh tế - xã hội của thế giới có những biến đổi sâu sắc, khó lường; thiên tai, bão lũ, dịch bệnh, đặc biện là đại dịch Covid – 19 đã tác động tiêu cực, lâu dài đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và thành phố Hải Phòng.
Hải Phòng thúc đẩy phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch

Hải Phòng thúc đẩy phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch

LNV - Hải Phòng có hàng chục làng nghề truyền thống tuổi đời hàng trăm năm, những làng nghề này có tài nguyên phát triển du lịch.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Phường An Bình: Chính quyền cùng nhân dân góp sức hướng về hạ du

Phường An Bình: Chính quyền cùng nhân dân góp sức hướng về hạ du

LNV – Mưa lớn kéo dài khiến nhiều tỉnh miền Trung – Tây Nguyên chìm trong lũ, hàng chục nghìn ngôi nhà bị ngập sâu, giao thông chia cắt và nhiều vùng hạ du rơi vào tình trạng cô lập. Trước tình hình đó, chính quyền và nhân dân phường An Bình (tỉnh Gia Lai
Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

LNV - Thái Nguyên là vùng đất gắn với cây chè truyền thống, sản phẩm chè được đem đi khắp các vùng miền và cả thị trường nước ngoài, được những người sành chè và nhiều thị trường khó tính chấp nhận. Tại Thái Nguyên vùng đất Tân Cương từ lâu được biết đến
Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

Thái Nguyên là vùng đất gắn với cây chè truyền thống, sản phẩm chè được đem đi khắp các vùng miền và cả thị trường nước ngoài, được những người sành chè và nhiều thị trường khó tính chấp nhận. Tại Thái Nguyên vùng đất Tân Cương từ lâu được biết đến như “đệ nhất danh trà”, nơi hội tụ khí hậu, thổ nhưỡng và bàn tay cần mẫn của người trồng chè để tạo nên những búp trà xanh ngát, mang hương vị đặc trưng khó lẫn. Giữa không gian ấy, Hương Vân Trà nổi lên như một doanh nghiệp đi đầu trong hành trình gìn giữ và phát triển những giá trị trà truyền thống, đồng thời luôn mạnh dạn đổi mới để góp phần tạo nên một sản phẩm nông sản sạch, chất lượng, uy tín, đưa sản phẩm trà Tân Cương (Thái Nguyên) vươn tầm ra thế giới.
Infographic: Sơn La -

Infographic: Sơn La - 'Thủ phủ Arabica' của Việt Nam

Sơn La tiếp tục khẳng định vị thế là "thủ phủ cà phê Arabica" của Việt Nam với 26.000 hecta diện tích trồng, sản lượng hơn 37.700 tấn/năm – đứng đầu cả nước.
Nâng tầng thương hiệu hàng hoá tại Hội chợ khu vực đồng bằng Bắc Bộ 2025

Nâng tầng thương hiệu hàng hoá tại Hội chợ khu vực đồng bằng Bắc Bộ 2025

LNV - Hội chợ Xúc tiến thương mại - Kết nối cung cầu khu vực Đồng bằng Bắc Bộ 2025 với chủ đề: “Liên kết vùng - Phát triển bền vững - Nâng tầm thương hiệu hàng hóa đồng bằng Bắc Bộ” diễn ra từ ngày 10/11 đến ngày 16/11/2025 tại đường Quảng Trường, phường
Giao diện di động