Những gia đình cuối cùng ở Khe Nhè giữ nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan

LNV - Nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan ở bản Khe Nghè(xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang) đã có ngay từ những ngày đầu tiên khi họ tới vùng đất vải sinh sống. Dù nắm giữ trong tay những bí quyết riêng tạo nên thương hiệu giấy dó Cao Lan từng một thời được ưu chuộng nhưng giờ đây ở Khe Nhè chỉ còn một vài hộ gia đình còn gìn giữ nghề truyền thống của cha ông bằng lòng đam mê.


Công đoạn tráng bột giấy ra khuôn để làm giấy dó của người Cao Lan. (Ảnh: Báo Bắc Giang).

Sự khác biệt của dó Cao Lan

Nghề giấy dó của người Việt được một số thư tịch cổ nước ngoài nói rằng có từ thế kỷ 3 sau công nguyên. Khi đó, người Giao Chỉ đã biết dùng gỗ mật hương để chế tác thành một loại giấy bản tốt, có tên gọi là giấy mật hương.

Khi nhà nước Đại Việt ra đời và quyết định lựa chọn Thăng Long làm kinh đô thì nghề làm giấy càng phát triển. Bởi thời điểm này nhu cầu của xã hội bắt nguồn từ việc học tập, giao dịch, thi cử phát triển đã giúp nghề làm giấy dó phát triển mạnh mẽ. Ở nhiều địa phương như: làng Đống Cao (Kinh Bắc); làng An Thái, Yên Hòa (Thăng Long); làng An Phúc ở (Hà Tây) và một số đồng bào dân tộc thiểu số cũng có nghề làm giấy dó như dân tộc Mông; Cao Lan; Dao;…

Họa sĩ Đào Ngọc Hân, Ủy viên Ban chấp hành Hội Khảo cổ học Việt Nam, Phó Giám đốc Trung tâm Khảo cổ học ứng dụng từng khẳng định: “Nghề làm giấy dó không chỉ là “đặc sản” của người Kinh sinh sống ở miền Bắc Việt Nam mà một số dân tộc thiểu số nước ta cũng có nghề làm giấy dó từ các nguyên liệu giàu bột giấy như các loại cây dó, cây dướng, thân tre non và cuống rơm”.

Trong số đó, kỹ thuật, chất lượng giấy dó của người Cao Lan sống ở bản Khe Nghè, sườn Tây Yên Tử được nhiều nơi biết tới bởi có nhiều khác biệt với cách làm của những nơi khác.

Bản Khe Nghè có hơn 70 hộ, chủ yếu là người Cao Lan. Đồng bào nơi đây có nhiều nét văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó có nghề dệt thổ cẩm và làm giấy dó. Theo lời kể của nhiều bậc cao niên trong làng, từ ngày người Cao Lan tới vùng đất này sinh sống, nghề làm giấy dó đã rất thịnh hành, phần lớn các gia đình ở đây đều làm giấy.


Anh Dương Văn Quang giới thiệu công đoạn cuối cùng để làm giấy dó.

Ở vùng cao, trong đời sống tâm linh, giấy dó được sử dụng trong nhiều nghi lễ truyền thống. Ví dụ như trong đám ma, họ đục hoa văn trên giấy để làm lễ cúng, giống như một loại tranh thờ. Về sau đóng thành quyển để làm sách, viết chữ. Nhiều khách từ các tỉnh lân cận như Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội đều tìm đến để mua cho kỳ được giấy dó, vì giấy dó của người Cao Lan nổi tiếng là chất lượng tốt nên thu hút được nhiều khách hàng.

Những ngày cả bản nhà nhà, người người làm giấy dó đó chỉ còn trong quá khứ. Ngày nay, ở bản Khe Nghè chỉ còn một vài ba hộ làm để giữ nghề truyền thống chứ không ai thực sự sống được với nghề. Bà Trạc Thị Ngọn (80 tuổi) cùng con trai là Dương Văn Quang là một trong số ít người ở Khe Nghè còn theo đuổi đam mê làm giấy dó. Bà Ngọn cho biết, xưa kia, giấy dó được sử dụng phổ biến để lưu giữ chữ viết, tranh vẽ, tranh thờ, in dập các văn tự cổ, ghi chép gia phả của các dòng họ, gia đình...

Giấy dó được ưa chuộng bởi nó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc dòn gẫy, ẩm nát. Tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, trong số những tài liệu giấy, thì tài liệu giấy dó có tuổi thọ cao nhất. Các tài liệu giấy dó là những loại tài liệu được sản sinh lâu đời nhất, từ khi các phương tiện bảo quản chưa được phát triển.

Ở Việt Nam có nhiều nơi làm giấy dó, nhưng mỗi nơi có những kỹ thuật, bí quyết riêng. Điểm khác biệt trong kỹ thuật làm giấy dó của người Cao Lan là họ không seo giấy trong bể seo mà đồ bột giấy lên khuôn tráng có căng lớp vải để thoát nước. Khuôn tráng giấy dó được dựng nghiêng để phơi cho đến khi tách được tờ giấy ra...


Anh Dương Văn Quang giới thiệu cho học sinh về các công đoạn làm giấy dó.

Anh Dương Văn Quang cho biết: “Nguyên liệu chính để làm ra sản phẩm giấy dó của người Cao Lan gồm hai loại là cây vợt pạ và dây hau pau (cây dưỡng). Hai loại cây và dây này đều có trên những ngọn núi, khu rừng cao. Người Cao Lan khi làm giấy phải cất công lên rừng, lên núi, trèo đèo, lội suối để tìm kiếm hai loại cây này. Trong đó, hau pau được dùng để làm thành bột giấy, còn vạt pạ được ngâm để lấy nước, tạo thành chất hồ của giấy”.

Cây hau pau sau khi lấy về sẽ được làm sạch vỏ, ngâm với nước vôi trong và ninh cùng nước hòa tro bếp. Vỏ cây hau pau dễ bóc vỏ, nhất là khoảng tháng 3 và tháng 7. Vỏ cây hau pau sẽ tiếp tục được làm sạch tro bám. Đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất, đòi hỏi sự tỉ mỉ, không thể nóng vội để tạo được độ sáng trắng của giấy. Hau pau sau khi được ninh nhừ sẽ được đem đi giã hoặc đập dập.

Đối với cây vợt pạ phải tách lấy vỏ, cạo sạch lớp vỏ lụa ngoài màu nâu, bó thành cuộn rồi ngâm vào chậu nước sạch một đêm. Sáng hôm sau, mớ vỏ được vớt ra, người làm sẽ thu được một chậu keo có màu trong vắt. Công đoạn cuối cùng là đem phần vỏ được đập nát xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh. Trong quá trình khuấy trộn cùng nước ngâm vạt pạ để giấy khi vào khung sẽ không bị dính.

Cũng giống nhiều vùng khác, đồng bào Cao Lan cũng tự sáng chế khung làm giấy dó cho mình. Khung được ghép vuông bằng bốn thanh gỗ, ở giữa căng vải màn hay vải xô, độ dày mỏng của vải căng quyết định độ dày, mỏng của giấy dó.Ngoài ra, còn có một nồi nấu chất liệu giấy và một chậu đựng nước pha bột giấy...

“Khi trộn hồ với bột phải bằng cách cảm nhận, không thể đong đếm được. Tôi học làm giấy từ rất lâu rồi, lúc đầu làm cũng thử đong xem nhưng không được bởi vì khi cái cây hồ non thì tỷ lệ hồ kém hơn một chút, nếu mình cứ đong bằng một ca như mọi khi thì lại không đủ, còn cây già hơn một chút thì đong bằng một ca đó lại bị quá nhiều. Vậy nên chỉ bằng cách pha xuống khung, mình sờ tay xuống cảm nhận. Sau này khi mình sờ, cảm nhận bằng tay quen rồi thì đủ lượng là mình biết luôn, mình tráng lên tờ giấy lại phải tráng tay thật đều, thật phẳng không thì tờ giấy bị chỗ mỏng chỗ dầy”, anh Dương Văn Quang cho hay.


Bộ tranh Tố Nữ của họa sĩ Lý Trực Sơn trên chất liệu giấy dó.

Khi bột giấy đã dàn đều thì dựng khung nghiêng, tìm nơi sạch sẽ, thoáng đãng, nhiều nắng gió để phơi giấy cho khô. Khi phơi cũng phải đặt khuôn phẳng mặt thì tờ giấy mới mịn đều. Lấy giấy khô cần gỡ mép trước, sau đó lột cả tờ giấy lên. Sản phẩm cuối cùng, giấy dó có màu trắng, giấy dày đều, phẳng và dai.

Ở trong bản Khe Nghè, những người còn nặng lòng với nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan cùng chung nỗi lo bởi giờ đây còn rất ít người trong bản và những nơi khác biết làm giấy dó truyền thống.Được làm từ bàn tay khéo léo của người Cao Lan theo bí quyết riêng, sản phẩm giấy dó tuy mỏng nhưng dai và bền hơn giấy sản xuất công nghiệp. Nếu bảo quản cẩn thận có thể để vài chục năm vẫn sử dụng tốt. Giấy dó giờ không còn được nhiều ưu chuộng và mua như trước khi giấy công nghiệp đa dạng, rẻ và trở nên thông dụng.

Ngành Văn hóa địa phương đã từng có một số chương trình hỗ trợ bảo tồn, phát huy giá trị nghề làm giấy dó ở Khe Nghè. Ông Nguyễn Văn Quế, Trưởng phòng Chính sách, Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang cho biết: Là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống lâu đời, tồn tại hàng trăm năm với tên tuổi, bản sắc văn hóa dân tộc, tỉnh Bắc Giang đã và đang thực hiện quy hoạch phát triển làng nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trong đó có nghề làm giấy dó ở xã Lục Sơn.

Tuy nhiên, bản thân anh Quang đã nhiều lần được mời tham gia trình diễn làm giấy dó tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, song vẫn chưa tìm được người trẻ tâm huyết để truyền nghề. Nguy cơ thất truyền nghề làm giấy dó chỉ là thời gian không xa.

Cơ hội cho giấy dó ở thời đại 4.0

Vào tháng 5/2019, Trung tâm Quản lý văn hoá phổ cổ Hà Nội đã tổ chức toạ đàm chủ đề: “Dó Việt xưa - nay” tại đình Kim Ngân (phố Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội).

Cũng như một số nghề truyền thống khác của người Việt xưa, nghề làm giấy dó đã có nhiều thế kỷ hưng thịnh trước khi bị dòng thời gian và sự biến đổi, phát triển của xã hội làm mai một. Được đánh giá là một trong những loại giấy bền nhất thế giới có niên đại lên đến 500 – 600 năm, giấy dó một thời huy hoàng trong đời sống người Việt.

Trước khi làm ra giấy, từ thời cổ, người Việt cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới đã dùng các loại vật liệu khác để ghi chép như khắc trên đồng, trên đá, trên mai rùa, xương thú, trên đất sét, đất nung, viết trên tre, nứa, trúc, trên lá cọ, trên lụa,... Những loại “sách vở” ấy đến nay còn lại khá nhiều ở nước ta. Các nhà khảo cổ, các nhà dân tộc học gần đây còn phát hiện được sách đồng ở Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam và sách đá ở Thanh Hoá…

Họa sĩ Đào Ngọc Hân cho biết, nghề làm giấy dó ở Việt Nam xuất hiện trong sử sách và các tư liệu vào thế kỷ thứ 3 cho đến khi nước Đại Việt ra đời, định đô ở Thăng Long. Vào thời xưa, giấy dó rất hưng thịnh, trong các khu chợ bán giấy như làng Yên Thái, Nghĩa Đô, Cầu Giấy… người mua kẻ bán rất tấp nập, cả làng trắng xóa bởi giấy dó đem phơi…

Theo họa sỹ Đào Ngọc Hân, câu chuyện về tổ nghề giấy ở Việt Nam có nhiều dị bản khác nhau nhưng nhìn chung, theo những ghi chép về giấy của ta thời thượng cổ do người Việt viết thì đến nay vẫn chưa tìm thấy trong vốn sách sử cổ còn sót lại của nước nhà. Sách “Thiên tự Văn” của Trung Quốc viết rằng: Thái Luân đã sáng chế ra giấy, bằng cách dùng vỏ cây có xơ, gọi là ma chỉ, dùng vải cũ, lưới đánh cá cũ giã ra làm giấy gọi là võng chỉ, dùng cây dó làm giấy gọi là cốc chỉ. Thái Luân làm quan và chế ra giấy vào đời vua Hoà Đế nhà Hán.

Trong quá trình lịch sử, trên lĩnh vực sản xuất giấy, thợ thủ công Việt Nam đã tỏ ra hết sức tài khéo. Họ làm ra nhiều loại giấy, trong đó có một số loại giấy quý, rất đẹp và qua thử thách của thời gian, khí hậu, đã tỏ ra vô cùng bền. Do đó, ngay từ thời vua Lý Cao Tông (1176-1210) một số loại giấy tốt của ta đã thuộc vào hàng đặc sản cống phẩm cho nhà Tống.

Khoảng cuối đời nhà Lý đến đầu đời nhà Trần mới thấy có tài liệu lịch sử ghi lại rằng: “Ở phía Tây của kinh đô Thăng Long, có một xóm thợ thủ công chuyên về làm giấy. Đó là phường giấy làng Dịch Vọng. Gần đấy có Cầu Giấy”. Đến thế kỷ thứ 15, một phường làm giấy khác nổi lên, phồn thịnh hơn cả phường giấy Dịch Vọng, đó là phường giấy Yên Thái (làng Bưởi - Hà Nội). Sách “Dư địa chí” trong “Nguyễn Trãi toàn tập” của Nguyễn Trãi có nói đến làng giấy này. Nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn, ở thế kỷ 18, trong bộ sách bách khoa “Vân đài loại ngữ” của ông đã có khảo cứu về nghề làm giấy ở nước ta…

Như vậy, nghề làm giấy ở nước ta có lịch sử lâu đời và đến đầu thế kỉ 18 thì đã phát triển khá rộng rãi ở nhiều địa phương. Sản lượng giấy lúc này đạt mức đủ đảm bảo để in được nhiều sách bằng “giấy nội hoá”.

Là một họa sĩ có nhiều tác phẩm tham gia triển lãm “Dó Việt xưa-nay”, họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, chia sẻ: Trong đời sống xã hội ngày nay, giấy dó đã được sử dụng phổ biến hơn trong mỹ thuật, trở thành chất liệu để sáng tạo văn hóa mỹ thuật Việt. Tôi rất thích sử dụng giấy dó để vẽ, bởi nó có giá trị thẩm mỹ trong nghệ thuật rất đắc địa và có sự phóng túng, mộc mạc, dung dị hơn hẳn nguyên liệu vẽ tranh lụa.

“Các chuyên gia quốc tế đánh giá rất cao về giá trị của giấy dó Việt, họ khẳng định giấy dó Việt là tốt nhất. Điều đáng tiếc là, nguồn chất liệu quý giá siêu bền giờ mới chỉ phục hồi trong mỹ thuật, cung cấp một chất liệu sáng tạo văn hóa và phục vụ được nhóm đối tượng rất nhỏ. Chúng ta cần đưa giấy dó đi chinh phục để nhiều người biết đến và có thể ứng dụng rộng rãi vào đời sống đương đại”, ông Đức nhấn mạnh.

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, giấy Dó truyền thống đang bị lấn át bởi các loại giấy khác. Hiện nay, rất khó để có thể tìm được một cửa hàng bán tranh vẽ trên giấy dó.

Theo nghệ nhân Ngô Thu Huyền, một trong những người trẻ hiếm hoi của làng Dương Ổ, phường Phong Khê, thành phố Bắc Ninh còn tiếp tục theo nghiệp làm giấy dó, đối với một nghề truyền thống thì không chỉ để dành cho việc trưng bày mà nó cần phải có giá trị ứng dụng vào đời sống cao. Ngày nay, sự ra đời của công nghệ in ấn, giấy công nghiệp ngày càng chiếm ưu thế, được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội bởi sự tiện lợi phù hợp với nhu cầu sử dụng. Do đó, muốn giấy Dó được nhiều người sử dụng, cần làm tăng giá trị ứng dụng của nó.

Chị Ngô Thu Huyền chia sẻ: “Về giấy dó trên thị trường hiện nay thì nhu cầu sử dụng của mọi người cũng khác nhau. Ví dụ như dòng giấy để lưu trữ bảo quản thì phải có chất lượng rất tốt. Thứ hai là nếu muốn sử dụng dòng giấy thủ công thì cần phải có tính thẩm mỹ, ví dụ mình có thêm họa tiết khác nhau để tạo nên những tờ giấy có tính thẩm mỹ cao. Và mình cũng sản xuất thêm dòng giấy dành cho các bạn viết thư pháp phương Tây và vẽ màu nước. Vẫn là chất liệu giấy Dó nhưng phải có sự thay đổi để phù hợp với nhu cầu sử dụng”.

Do đó, Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức cho rằng để giấy Dó không bị mai một, chúng ta cần hỗ trợ về công nghệ, tạo ra một thị trường rộng hơn cho những người sản xuất, thay vì chỉ đáp ứng nhu cầu cho một vài đối tượng như hiện nay, có như vậy những nghệ nhân mới có thể sống được với nghề.

Cao Lan là một trong hai nhóm của dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chí). Trước đây các học giả người Pháp coi người Cao Lan là một bộ phận của dân tộc Dao. Người Cao Lan còn được gọi là người Trại. Cho đến nay, người Cao Lan ở Bắc Giang vẫn tự nhận mình là người dân tộc Cao Lan, có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.

Theo kết quả khảo sát, nguồn gốc của người Cao Lan ở Bắc Giang là từ Quảng Đông, Quảng Tây, Dương Châu, Quý Châu (Trung Quốc) di cư sang Việt Nam đã được 300 năm. Đến Việt Nam, người Cao Lan cư trú ở tỉnh Quảng Ninh sau đó di cư đến các huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang.

Theo số liệu thống kê năm 2014, nhóm dân tộc Cao Lan - Sán Chí ở Bắc Giang có khoảng trên 25 nghìn người, sống tập trung ở 4 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế.

Theo Tiểu Vũ

Tin liên quan

Tin mới hơn

Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế với sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam

Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế với sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam

Ngày 3/12, tại Bắc Ninh, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã tổ chức Hội thảo “Tư vấn nâng cao nhận thức về xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ”
Làng nghề hương xạ ở Sơn Nam: Nơi gìn giữ tinh hoa hương Việt

Làng nghề hương xạ ở Sơn Nam: Nơi gìn giữ tinh hoa hương Việt

LNV - Tổ dân phố Cao (phường Sơn Nam, Hưng Yên) từ lâu được biết đến là địa phương còn lưu giữ và phát triển nghề làm hương truyền thống nổi tiếng của tỉnh. Với kinh nghiệm lâu năm và lòng yêu nghề bền bỉ, người thợ nơi đây đã tạo nên sản phẩm hương thuốc bắc đặc trưng, góp phần bảo tồn nét văn hóa và lan tỏa giá trị của nghề truyền thống đến cộng đồng.
Làng nghề mỳ Chũ Thủ Dương vào vụ Tết

Làng nghề mỳ Chũ Thủ Dương vào vụ Tết

LNV - Làng nghề mỳ Chũ ở thôn Thủ Dương (xã Nam Dương, tỉnh Bắc Ninh) đang bước vào giai đoạn sản xuất sôi động nhất trong năm để chuẩn bị nguồn hàng phục vụ Tết Nguyên đán. Từ tờ mờ sáng đến tận khuya, khắp thôn rộn vang tiếng máy tráng, tiếng cắt sợi, tiếng đóng gói.
Từ lễ hội đến lan tỏa giá trị khẳng định vị thế vùng đất nghề

Từ lễ hội đến lan tỏa giá trị khẳng định vị thế vùng đất nghề

LNV - Lễ hội vinh danh làng nghề và Tuần Văn hoá – Du lịch, Thương mại làng nghề năm 2025 đã chính thức khép lại sau bốn ngày tổ chức sôi động, giàu màu sắc tại xã Phú Xuyên (huyện Phú Xuyên, Hà Nội). Đây là sự kiện có quy mô lớn nhất từ trước tới nay của địa phương, do UBND xã Phú Xuyên phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tổ chức, mang đến chuỗi hoạt động văn hóa – kinh tế đa dạng, hướng tới mục tiêu tôn vinh, gìn giữ và phát huy giá trị các làng nghề truyền thống.
Giữ lửa nghề qua từng sợi bánh

Giữ lửa nghề qua từng sợi bánh

LNV - Bánh hỏi từ lâu đã là món ăn dân dã quen thuộc trong đời sống người Việt. Nhưng ở làng nghề bánh hỏi An Nhứt (xã Long Điền, TP.HCM), món ăn ấy không chỉ là thực phẩm mà còn là một nghệ thuật ẩm thực tinh tế, được truyền nối qua nhiều thế hệ như một phần máu thịt của văn hóa địa phương.
Hướng đi mới trong giáo dục trải nghiệm khi nghệ nhân, nghệ sĩ tham gia giảng dạy

Hướng đi mới trong giáo dục trải nghiệm khi nghệ nhân, nghệ sĩ tham gia giảng dạy

LNV - Trong năm học này, xu hướng đưa chuyên gia, nghệ nhân, nghệ sĩ và vận động viên vào trường học để trực tiếp giảng dạy đang trở nên ngày càng phổ biến.

Tin khác

Người giữ hồn âm nhạc Khmer giữa nhịp sống hiện đại

Người giữ hồn âm nhạc Khmer giữa nhịp sống hiện đại

LNV - Trong Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp Khmer – Nhà hát Cao Văn Lầu, nhắc đến cái tên Kim Văn Đồi, nhiều nghệ sĩ và khán giả đều dành sự trân trọng đặc biệt. Hơn hai thập kỷ gắn bó với nghề, anh không chỉ là người phụ trách hòa âm, phối khí, cân chỉnh âm thanh cho dàn nhạc trong các chương trình lớn nhỏ, mà còn là người lặng lẽ gìn giữ những thanh âm tinh hoa của văn hóa Khmer bằng tất cả đam mê và trách nhiệm.
Nghề lấy yến sào ở Nha Trang

Nghề lấy yến sào ở Nha Trang

LNV - Với 36 năm gắn bó cùng những vách đá giữa biển khơi, nghệ nhân Võ Văn Cam (phường Nha Trang) là một trong những người thợ kỳ cựu đã góp phần gìn giữ và truyền lại tinh hoa nghề khai thác yến sào – sản vật được mệnh danh là “vàng trắng” của vùng biển Khánh Hòa.
Hà Nội ban hành chính sách hỗ trợ mới cho nghệ nhân và cơ sở ngành nghề nông thôn

Hà Nội ban hành chính sách hỗ trợ mới cho nghệ nhân và cơ sở ngành nghề nông thôn

LNV - HĐND thành phố Hà Nội vừa thông qua Nghị quyết quy định một số chính sách hỗ trợ bảo tồn, phát triển làng nghề và ngành nghề nông thôn tại kỳ họp thứ 28 khóa XVI, nhiệm kỳ 2021–2026. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/1/2026, nhằm triển khai Luật Thủ đô năm 2025 liên quan đến công tác bảo tồn, phát triển làng nghề và ngành nghề nông thôn trên địa bàn.
Hành trình gìn giữ làng nghề di sản Chăm

Hành trình gìn giữ làng nghề di sản Chăm

LNV - Trải qua hàng trăm năm, những làng nghề như thổ cẩm Mỹ Nghiệp và gốm Bàu Trúc (trước đây thuộc tỉnh Ninh Thuận cũ, nay thuộc tỉnh Khánh Hòa) vẫn giữ được sức sống mãnh liệt, trở thành biểu tượng văn hóa đặc trưng của cộng đồng người Chăm. Đây không chỉ là những nơi lưu giữ tinh hoa nghề cổ mà còn là “bảo tàng sống” về lịch sử, phong tục và bản sắc Chăm giữa đời sống hiện đại.
Làng nghề Thủ đô - Hướng tới hệ sinh thái xanh và sáng tạo

Làng nghề Thủ đô - Hướng tới hệ sinh thái xanh và sáng tạo

LNV - Hà Nội đang triển khai đồng bộ các chính sách và giải pháp sáng tạo nhằm bảo tồn, phát triển làng nghề, kết hợp kinh tế, văn hóa và du lịch, tạo động lực mới cho nông thôn Thủ đô.
Vẻ đẹp làng Việt qua những khung hình đoạt giải Ảnh Di sản 2025

Vẻ đẹp làng Việt qua những khung hình đoạt giải Ảnh Di sản 2025

LNV - Cuộc thi Ảnh Di sản Việt Nam 2025 (Vietnam Heritage Photo Awards) đã chính thức công bố những tác phẩm xuất sắc nhất, mang đến một góc nhìn đầy cảm xúc về văn hóa, con người và di sản trên khắp mọi miền đất nước.
Phú Xuyên tổ chức cuộc thi trong khuôn khổ Lễ hội vinh danh làng nghề 2025

Phú Xuyên tổ chức cuộc thi trong khuôn khổ Lễ hội vinh danh làng nghề 2025

LNV - Trong chuỗi hoạt động của “Lễ hội vinh danh làng nghề và Tuần văn hóa, du lịch, thương mại làng nghề năm 2025”, ngày 29/11, UBND xã Phú Xuyên đã tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu về Cải cách hành chính, Chuyển đổi số gắn với phát triển văn hóa, du lịch, thương mại, làng nghề”.
Làng nghề Đắk Lắk chung tay vượt qua mùa nước lớn

Làng nghề Đắk Lắk chung tay vượt qua mùa nước lớn

LNV - Trận lũ vừa qua đã để lại những tổn thất nặng nề cho nhiều làng nghề truyền thống trên địa bàn, khiến công việc sản xuất vốn đã khó khăn nay càng thêm chồng chất.
Người đàn ông nửa đời thuần rắn với đôi tay đặc biệt

Người đàn ông nửa đời thuần rắn với đôi tay đặc biệt

LNV - Nổi tiếng với mệnh danh “thủ phủ rắn độc”, xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc (nay thuộc xã Thổ Tang, tỉnh Phú Thọ) có khoảng 60% số hộ dân nuôi rắn và chủ yếu là rắn hổ mang. Ông Phạm Thanh Hưng một người thợ giỏi của làng với hơn 30 năm kinh nghiệm là một trong số những hộ dân đặc biệt đó.
Làng nghề xứ Thanh khởi sắc từ phát triển tiểu thủ công nghiệp

Làng nghề xứ Thanh khởi sắc từ phát triển tiểu thủ công nghiệp

LNV - Các làng nghề truyền thống ở Thanh Hóa đang hồi sinh mạnh mẽ nhờ sự phát triển của ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, góp phần tạo sinh kế bền vững, giữ gìn văn hóa và làm mới diện mạo kinh tế nông thôn.
Các làng nghề ở Hợp Tiến vào vụ quất cảnh tết

Các làng nghề ở Hợp Tiến vào vụ quất cảnh tết

LNV - Xã Hợp Tiến (tỉnh Thanh Hóa) lại rộn ràng bước vào vụ quất cảnh phục vụ thị trường Tết Nguyên đán. Không khí lao động hối hả phủ kín các con đường, khu vườn; đi đến đâu cũng nghe người dân nhắc chuyện chăm quất, tạo thế, dự báo nguồn cung và giá bán trong mùa tết sắp đến. Từ lâu, cây quất không chỉ là nét đẹp trong đời sống tinh thần mà còn là sinh kế quan trọng giúp nhiều hộ dân Hợp Tiến vươn lên khá giả.
Hương thảo mộc của nghệ nhân người Giáy Vũ Thị Xìn: tinh hoa núi rừng giữa mây ngàn Sapa

Hương thảo mộc của nghệ nhân người Giáy Vũ Thị Xìn: tinh hoa núi rừng giữa mây ngàn Sapa

LNV - Giữa thung lũng Tả Van (Sapa), nơi những triền núi bao phủ bởi mây trắng, những nếp nhà người Giáy ẩn hiện sau thửa ruộng bậc thang, một hương thơm đang lặng lẽ lan tỏa, hòa quyện cùng gió mây của đất trời. Đó là hương thơm thảo mộc từ những nén hương do nghệ nhân Vũ Thị Xìn tỉ mỉ tạo nên. Từ căn nhà nhỏ nơi sườn núi, hương thơm ấy đã vượt qua thung lũng Tả Van đại ngàn, trở thành điểm nhấn văn hóa độc đáo tại Bản Mây - quần thể nhà ga cáp treo Sun World Fansipan Legend.
Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

Hương Vân Trà - Nâng tầm Trà Việt từ những giá trị trà truyền thống

Thái Nguyên là vùng đất gắn với cây chè truyền thống, sản phẩm chè được đem đi khắp các vùng miền và cả thị trường nước ngoài, được những người sành chè và nhiều thị trường khó tính chấp nhận. Tại Thái Nguyên vùng đất Tân Cương từ lâu được biết đến như “đệ nhất danh trà”, nơi hội tụ khí hậu, thổ nhưỡng và bàn tay cần mẫn của người trồng chè để tạo nên những búp trà xanh ngát, mang hương vị đặc trưng khó lẫn. Giữa không gian ấy, Hương Vân Trà nổi lên như một doanh nghiệp đi đầu trong hành trình gìn giữ và phát triển những giá trị trà truyền thống, đồng thời luôn mạnh dạn đổi mới để góp phần tạo nên một sản phẩm nông sản sạch, chất lượng, uy tín, đưa sản phẩm trà Tân Cương (Thái Nguyên) vươn tầm ra thế giới.
Vigo Bát Tràng: Hơi thở mới cho làng gốm nghìn năm tuổi

Vigo Bát Tràng: Hơi thở mới cho làng gốm nghìn năm tuổi

LNV - Bát Tràng ngôi làng gốm cổ kính ven sông Hồng, vốn nổi danh là “công xưởng” gốm sứ hàng đầu Việt Nam. Tuy nhiên, giữa guồng quay sản xuất hối hả, tiềm năng du lịch và giá trị văn hóa cốt lõi của làng nghề đôi khi bị lu mờ. Chính trong bối cảnh đó, một người con ưu tú của làng gốm, anh Lê Đình Tùng, đã nhen nhóm và hiện thực hóa dự án VIGO Bát Tràng, mang đến một hướng mới về trải nghiệm, kết nối và lan tỏa văn hóa Bát Tràng đến cộng đồng trong và ngoài nước.
Nghệ nhân thổi hồn vào những sản phẩm từ mây tre

Nghệ nhân thổi hồn vào những sản phẩm từ mây tre

LNV - Đến số nhà 19, Hồ Phương Lưu (phường Đông Hài – TP Hải Phòng) mọi người sẽ nhìn thấy một cổng vòm hoàn toàn bằng Tre trên có biển hiệu “ WSV - GYM & COFFEE”. Bên trong cống này là một quán cà phê, đồng thời cũng là xưởng chế tác, trưng bày sản phẩm làm từ tre của nghệ nhân Nguyễn Văn Mạnh (43 tuổi), một Nghệ nhân chuyên xây dựng các nhà hàng, quán cà phê và các sản phẩm gia dụng khác rất độc đáo vừa mang tình truyền thống và hiện đại mà nguyên liệu hoàn toàn làm từ mây và tre.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Thanh Hóa: Tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật đến người kinh doanh và người tiêu dùng

Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Thanh Hóa: Tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật đến người kinh doanh và người tiêu dùng

LNV - Trong 10 tháng năm 2025, Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Thanh Hóa đã đưa 149 tin, bài phóng sự, trong đó 117 bài đăng trên Cổng thông tin điện tử của Chi cục Quản lý thị trường và 32 tin, bài đăng trên các kênh thông tin khác (có 24 bài đăng trên web Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước).
Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương): Triển khai quy định mới về công tác khuyến công

Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương): Triển khai quy định mới về công tác khuyến công

Chiều ngày 3/12/2025, tại Ninh Bình, Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) phối hợp với Sở LNV - Công Thương tỉnh Ninh Bình tổ chức Hội nghị phổ biến, triển khai các quy định mới về khuyến công nhằm tạo động lực cho chuyển
Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế với sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam

Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế với sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam

Ngày 3/12, tại Bắc Ninh, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã tổ chức Hội thảo “Tư vấn nâng cao nhận thức về xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ”
Hà Nội cấp bách kiểm soát ô nhiễm không khí

Hà Nội cấp bách kiểm soát ô nhiễm không khí

Hà Nội đang trải qua những ngày ô nhiễm không khí nằm trong top đầu thế giới, kéo dài từ sáng đến đêm. Trước diễn biến phức tạp của chất lượng không khí, Hà Nội ban hành công văn triển khai loạt biện pháp cấp bách, từ giám sát bằng viễn thám, UAV, ứng dụng số đến kiểm soát chặt công trường xây dựng và các nguồn thải lớn.
Mô hình liên kết nuôi bò vỗ béo, Gia Lai hướng đến ngành chăn nuôi hiện đại, bền vững, chuyên nghiệp

Mô hình liên kết nuôi bò vỗ béo, Gia Lai hướng đến ngành chăn nuôi hiện đại, bền vững, chuyên nghiệp

LNV - UBND tỉnh Gia Lai vừa phê duyệt Dự án liên kết sản xuất chăn nuôi và tiêu thụ bò thịt vỗ béo tại xã Ân Tường và xã Kim Sơn. Đây được xem là mô hình liên kết chăn nuôi mới, lần đầu tiên áp dụng đồng bộ cơ chế chuỗi giá trị, hỗ trợ hộ nghèo, bao tiêu
Giao diện di động