Hà Nội: 21°C Hà Nội
Đà Nẵng: 24°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 23°C Thừa Thiên Huế

Những gia đình cuối cùng ở Khe Nhè giữ nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan

LNV - Nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan ở bản Khe Nghè(xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang) đã có ngay từ những ngày đầu tiên khi họ tới vùng đất vải sinh sống. Dù nắm giữ trong tay những bí quyết riêng tạo nên thương hiệu giấy dó Cao Lan từng một thời được ưu chuộng nhưng giờ đây ở Khe Nhè chỉ còn một vài hộ gia đình còn gìn giữ nghề truyền thống của cha ông bằng lòng đam mê.


Công đoạn tráng bột giấy ra khuôn để làm giấy dó của người Cao Lan. (Ảnh: Báo Bắc Giang).

Sự khác biệt của dó Cao Lan

Nghề giấy dó của người Việt được một số thư tịch cổ nước ngoài nói rằng có từ thế kỷ 3 sau công nguyên. Khi đó, người Giao Chỉ đã biết dùng gỗ mật hương để chế tác thành một loại giấy bản tốt, có tên gọi là giấy mật hương.

Khi nhà nước Đại Việt ra đời và quyết định lựa chọn Thăng Long làm kinh đô thì nghề làm giấy càng phát triển. Bởi thời điểm này nhu cầu của xã hội bắt nguồn từ việc học tập, giao dịch, thi cử phát triển đã giúp nghề làm giấy dó phát triển mạnh mẽ. Ở nhiều địa phương như: làng Đống Cao (Kinh Bắc); làng An Thái, Yên Hòa (Thăng Long); làng An Phúc ở (Hà Tây) và một số đồng bào dân tộc thiểu số cũng có nghề làm giấy dó như dân tộc Mông; Cao Lan; Dao;…

Họa sĩ Đào Ngọc Hân, Ủy viên Ban chấp hành Hội Khảo cổ học Việt Nam, Phó Giám đốc Trung tâm Khảo cổ học ứng dụng từng khẳng định: “Nghề làm giấy dó không chỉ là “đặc sản” của người Kinh sinh sống ở miền Bắc Việt Nam mà một số dân tộc thiểu số nước ta cũng có nghề làm giấy dó từ các nguyên liệu giàu bột giấy như các loại cây dó, cây dướng, thân tre non và cuống rơm”.

Trong số đó, kỹ thuật, chất lượng giấy dó của người Cao Lan sống ở bản Khe Nghè, sườn Tây Yên Tử được nhiều nơi biết tới bởi có nhiều khác biệt với cách làm của những nơi khác.

Bản Khe Nghè có hơn 70 hộ, chủ yếu là người Cao Lan. Đồng bào nơi đây có nhiều nét văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó có nghề dệt thổ cẩm và làm giấy dó. Theo lời kể của nhiều bậc cao niên trong làng, từ ngày người Cao Lan tới vùng đất này sinh sống, nghề làm giấy dó đã rất thịnh hành, phần lớn các gia đình ở đây đều làm giấy.


Anh Dương Văn Quang giới thiệu công đoạn cuối cùng để làm giấy dó.

Ở vùng cao, trong đời sống tâm linh, giấy dó được sử dụng trong nhiều nghi lễ truyền thống. Ví dụ như trong đám ma, họ đục hoa văn trên giấy để làm lễ cúng, giống như một loại tranh thờ. Về sau đóng thành quyển để làm sách, viết chữ. Nhiều khách từ các tỉnh lân cận như Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội đều tìm đến để mua cho kỳ được giấy dó, vì giấy dó của người Cao Lan nổi tiếng là chất lượng tốt nên thu hút được nhiều khách hàng.

Những ngày cả bản nhà nhà, người người làm giấy dó đó chỉ còn trong quá khứ. Ngày nay, ở bản Khe Nghè chỉ còn một vài ba hộ làm để giữ nghề truyền thống chứ không ai thực sự sống được với nghề. Bà Trạc Thị Ngọn (80 tuổi) cùng con trai là Dương Văn Quang là một trong số ít người ở Khe Nghè còn theo đuổi đam mê làm giấy dó. Bà Ngọn cho biết, xưa kia, giấy dó được sử dụng phổ biến để lưu giữ chữ viết, tranh vẽ, tranh thờ, in dập các văn tự cổ, ghi chép gia phả của các dòng họ, gia đình...

Giấy dó được ưa chuộng bởi nó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc dòn gẫy, ẩm nát. Tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, trong số những tài liệu giấy, thì tài liệu giấy dó có tuổi thọ cao nhất. Các tài liệu giấy dó là những loại tài liệu được sản sinh lâu đời nhất, từ khi các phương tiện bảo quản chưa được phát triển.

Ở Việt Nam có nhiều nơi làm giấy dó, nhưng mỗi nơi có những kỹ thuật, bí quyết riêng. Điểm khác biệt trong kỹ thuật làm giấy dó của người Cao Lan là họ không seo giấy trong bể seo mà đồ bột giấy lên khuôn tráng có căng lớp vải để thoát nước. Khuôn tráng giấy dó được dựng nghiêng để phơi cho đến khi tách được tờ giấy ra...


Anh Dương Văn Quang giới thiệu cho học sinh về các công đoạn làm giấy dó.

Anh Dương Văn Quang cho biết: “Nguyên liệu chính để làm ra sản phẩm giấy dó của người Cao Lan gồm hai loại là cây vợt pạ và dây hau pau (cây dưỡng). Hai loại cây và dây này đều có trên những ngọn núi, khu rừng cao. Người Cao Lan khi làm giấy phải cất công lên rừng, lên núi, trèo đèo, lội suối để tìm kiếm hai loại cây này. Trong đó, hau pau được dùng để làm thành bột giấy, còn vạt pạ được ngâm để lấy nước, tạo thành chất hồ của giấy”.

Cây hau pau sau khi lấy về sẽ được làm sạch vỏ, ngâm với nước vôi trong và ninh cùng nước hòa tro bếp. Vỏ cây hau pau dễ bóc vỏ, nhất là khoảng tháng 3 và tháng 7. Vỏ cây hau pau sẽ tiếp tục được làm sạch tro bám. Đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất, đòi hỏi sự tỉ mỉ, không thể nóng vội để tạo được độ sáng trắng của giấy. Hau pau sau khi được ninh nhừ sẽ được đem đi giã hoặc đập dập.

Đối với cây vợt pạ phải tách lấy vỏ, cạo sạch lớp vỏ lụa ngoài màu nâu, bó thành cuộn rồi ngâm vào chậu nước sạch một đêm. Sáng hôm sau, mớ vỏ được vớt ra, người làm sẽ thu được một chậu keo có màu trong vắt. Công đoạn cuối cùng là đem phần vỏ được đập nát xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh. Trong quá trình khuấy trộn cùng nước ngâm vạt pạ để giấy khi vào khung sẽ không bị dính.

Cũng giống nhiều vùng khác, đồng bào Cao Lan cũng tự sáng chế khung làm giấy dó cho mình. Khung được ghép vuông bằng bốn thanh gỗ, ở giữa căng vải màn hay vải xô, độ dày mỏng của vải căng quyết định độ dày, mỏng của giấy dó.Ngoài ra, còn có một nồi nấu chất liệu giấy và một chậu đựng nước pha bột giấy...

“Khi trộn hồ với bột phải bằng cách cảm nhận, không thể đong đếm được. Tôi học làm giấy từ rất lâu rồi, lúc đầu làm cũng thử đong xem nhưng không được bởi vì khi cái cây hồ non thì tỷ lệ hồ kém hơn một chút, nếu mình cứ đong bằng một ca như mọi khi thì lại không đủ, còn cây già hơn một chút thì đong bằng một ca đó lại bị quá nhiều. Vậy nên chỉ bằng cách pha xuống khung, mình sờ tay xuống cảm nhận. Sau này khi mình sờ, cảm nhận bằng tay quen rồi thì đủ lượng là mình biết luôn, mình tráng lên tờ giấy lại phải tráng tay thật đều, thật phẳng không thì tờ giấy bị chỗ mỏng chỗ dầy”, anh Dương Văn Quang cho hay.


Bộ tranh Tố Nữ của họa sĩ Lý Trực Sơn trên chất liệu giấy dó.

Khi bột giấy đã dàn đều thì dựng khung nghiêng, tìm nơi sạch sẽ, thoáng đãng, nhiều nắng gió để phơi giấy cho khô. Khi phơi cũng phải đặt khuôn phẳng mặt thì tờ giấy mới mịn đều. Lấy giấy khô cần gỡ mép trước, sau đó lột cả tờ giấy lên. Sản phẩm cuối cùng, giấy dó có màu trắng, giấy dày đều, phẳng và dai.

Ở trong bản Khe Nghè, những người còn nặng lòng với nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan cùng chung nỗi lo bởi giờ đây còn rất ít người trong bản và những nơi khác biết làm giấy dó truyền thống.Được làm từ bàn tay khéo léo của người Cao Lan theo bí quyết riêng, sản phẩm giấy dó tuy mỏng nhưng dai và bền hơn giấy sản xuất công nghiệp. Nếu bảo quản cẩn thận có thể để vài chục năm vẫn sử dụng tốt. Giấy dó giờ không còn được nhiều ưu chuộng và mua như trước khi giấy công nghiệp đa dạng, rẻ và trở nên thông dụng.

Ngành Văn hóa địa phương đã từng có một số chương trình hỗ trợ bảo tồn, phát huy giá trị nghề làm giấy dó ở Khe Nghè. Ông Nguyễn Văn Quế, Trưởng phòng Chính sách, Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang cho biết: Là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống lâu đời, tồn tại hàng trăm năm với tên tuổi, bản sắc văn hóa dân tộc, tỉnh Bắc Giang đã và đang thực hiện quy hoạch phát triển làng nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trong đó có nghề làm giấy dó ở xã Lục Sơn.

Tuy nhiên, bản thân anh Quang đã nhiều lần được mời tham gia trình diễn làm giấy dó tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, song vẫn chưa tìm được người trẻ tâm huyết để truyền nghề. Nguy cơ thất truyền nghề làm giấy dó chỉ là thời gian không xa.

Cơ hội cho giấy dó ở thời đại 4.0

Vào tháng 5/2019, Trung tâm Quản lý văn hoá phổ cổ Hà Nội đã tổ chức toạ đàm chủ đề: “Dó Việt xưa - nay” tại đình Kim Ngân (phố Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội).

Cũng như một số nghề truyền thống khác của người Việt xưa, nghề làm giấy dó đã có nhiều thế kỷ hưng thịnh trước khi bị dòng thời gian và sự biến đổi, phát triển của xã hội làm mai một. Được đánh giá là một trong những loại giấy bền nhất thế giới có niên đại lên đến 500 – 600 năm, giấy dó một thời huy hoàng trong đời sống người Việt.

Trước khi làm ra giấy, từ thời cổ, người Việt cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới đã dùng các loại vật liệu khác để ghi chép như khắc trên đồng, trên đá, trên mai rùa, xương thú, trên đất sét, đất nung, viết trên tre, nứa, trúc, trên lá cọ, trên lụa,... Những loại “sách vở” ấy đến nay còn lại khá nhiều ở nước ta. Các nhà khảo cổ, các nhà dân tộc học gần đây còn phát hiện được sách đồng ở Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam và sách đá ở Thanh Hoá…

Họa sĩ Đào Ngọc Hân cho biết, nghề làm giấy dó ở Việt Nam xuất hiện trong sử sách và các tư liệu vào thế kỷ thứ 3 cho đến khi nước Đại Việt ra đời, định đô ở Thăng Long. Vào thời xưa, giấy dó rất hưng thịnh, trong các khu chợ bán giấy như làng Yên Thái, Nghĩa Đô, Cầu Giấy… người mua kẻ bán rất tấp nập, cả làng trắng xóa bởi giấy dó đem phơi…

Theo họa sỹ Đào Ngọc Hân, câu chuyện về tổ nghề giấy ở Việt Nam có nhiều dị bản khác nhau nhưng nhìn chung, theo những ghi chép về giấy của ta thời thượng cổ do người Việt viết thì đến nay vẫn chưa tìm thấy trong vốn sách sử cổ còn sót lại của nước nhà. Sách “Thiên tự Văn” của Trung Quốc viết rằng: Thái Luân đã sáng chế ra giấy, bằng cách dùng vỏ cây có xơ, gọi là ma chỉ, dùng vải cũ, lưới đánh cá cũ giã ra làm giấy gọi là võng chỉ, dùng cây dó làm giấy gọi là cốc chỉ. Thái Luân làm quan và chế ra giấy vào đời vua Hoà Đế nhà Hán.

Trong quá trình lịch sử, trên lĩnh vực sản xuất giấy, thợ thủ công Việt Nam đã tỏ ra hết sức tài khéo. Họ làm ra nhiều loại giấy, trong đó có một số loại giấy quý, rất đẹp và qua thử thách của thời gian, khí hậu, đã tỏ ra vô cùng bền. Do đó, ngay từ thời vua Lý Cao Tông (1176-1210) một số loại giấy tốt của ta đã thuộc vào hàng đặc sản cống phẩm cho nhà Tống.

Khoảng cuối đời nhà Lý đến đầu đời nhà Trần mới thấy có tài liệu lịch sử ghi lại rằng: “Ở phía Tây của kinh đô Thăng Long, có một xóm thợ thủ công chuyên về làm giấy. Đó là phường giấy làng Dịch Vọng. Gần đấy có Cầu Giấy”. Đến thế kỷ thứ 15, một phường làm giấy khác nổi lên, phồn thịnh hơn cả phường giấy Dịch Vọng, đó là phường giấy Yên Thái (làng Bưởi - Hà Nội). Sách “Dư địa chí” trong “Nguyễn Trãi toàn tập” của Nguyễn Trãi có nói đến làng giấy này. Nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn, ở thế kỷ 18, trong bộ sách bách khoa “Vân đài loại ngữ” của ông đã có khảo cứu về nghề làm giấy ở nước ta…

Như vậy, nghề làm giấy ở nước ta có lịch sử lâu đời và đến đầu thế kỉ 18 thì đã phát triển khá rộng rãi ở nhiều địa phương. Sản lượng giấy lúc này đạt mức đủ đảm bảo để in được nhiều sách bằng “giấy nội hoá”.

Là một họa sĩ có nhiều tác phẩm tham gia triển lãm “Dó Việt xưa-nay”, họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, chia sẻ: Trong đời sống xã hội ngày nay, giấy dó đã được sử dụng phổ biến hơn trong mỹ thuật, trở thành chất liệu để sáng tạo văn hóa mỹ thuật Việt. Tôi rất thích sử dụng giấy dó để vẽ, bởi nó có giá trị thẩm mỹ trong nghệ thuật rất đắc địa và có sự phóng túng, mộc mạc, dung dị hơn hẳn nguyên liệu vẽ tranh lụa.

“Các chuyên gia quốc tế đánh giá rất cao về giá trị của giấy dó Việt, họ khẳng định giấy dó Việt là tốt nhất. Điều đáng tiếc là, nguồn chất liệu quý giá siêu bền giờ mới chỉ phục hồi trong mỹ thuật, cung cấp một chất liệu sáng tạo văn hóa và phục vụ được nhóm đối tượng rất nhỏ. Chúng ta cần đưa giấy dó đi chinh phục để nhiều người biết đến và có thể ứng dụng rộng rãi vào đời sống đương đại”, ông Đức nhấn mạnh.

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, giấy Dó truyền thống đang bị lấn át bởi các loại giấy khác. Hiện nay, rất khó để có thể tìm được một cửa hàng bán tranh vẽ trên giấy dó.

Theo nghệ nhân Ngô Thu Huyền, một trong những người trẻ hiếm hoi của làng Dương Ổ, phường Phong Khê, thành phố Bắc Ninh còn tiếp tục theo nghiệp làm giấy dó, đối với một nghề truyền thống thì không chỉ để dành cho việc trưng bày mà nó cần phải có giá trị ứng dụng vào đời sống cao. Ngày nay, sự ra đời của công nghệ in ấn, giấy công nghiệp ngày càng chiếm ưu thế, được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội bởi sự tiện lợi phù hợp với nhu cầu sử dụng. Do đó, muốn giấy Dó được nhiều người sử dụng, cần làm tăng giá trị ứng dụng của nó.

Chị Ngô Thu Huyền chia sẻ: “Về giấy dó trên thị trường hiện nay thì nhu cầu sử dụng của mọi người cũng khác nhau. Ví dụ như dòng giấy để lưu trữ bảo quản thì phải có chất lượng rất tốt. Thứ hai là nếu muốn sử dụng dòng giấy thủ công thì cần phải có tính thẩm mỹ, ví dụ mình có thêm họa tiết khác nhau để tạo nên những tờ giấy có tính thẩm mỹ cao. Và mình cũng sản xuất thêm dòng giấy dành cho các bạn viết thư pháp phương Tây và vẽ màu nước. Vẫn là chất liệu giấy Dó nhưng phải có sự thay đổi để phù hợp với nhu cầu sử dụng”.

Do đó, Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức cho rằng để giấy Dó không bị mai một, chúng ta cần hỗ trợ về công nghệ, tạo ra một thị trường rộng hơn cho những người sản xuất, thay vì chỉ đáp ứng nhu cầu cho một vài đối tượng như hiện nay, có như vậy những nghệ nhân mới có thể sống được với nghề.

Cao Lan là một trong hai nhóm của dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chí). Trước đây các học giả người Pháp coi người Cao Lan là một bộ phận của dân tộc Dao. Người Cao Lan còn được gọi là người Trại. Cho đến nay, người Cao Lan ở Bắc Giang vẫn tự nhận mình là người dân tộc Cao Lan, có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.

Theo kết quả khảo sát, nguồn gốc của người Cao Lan ở Bắc Giang là từ Quảng Đông, Quảng Tây, Dương Châu, Quý Châu (Trung Quốc) di cư sang Việt Nam đã được 300 năm. Đến Việt Nam, người Cao Lan cư trú ở tỉnh Quảng Ninh sau đó di cư đến các huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang.

Theo số liệu thống kê năm 2014, nhóm dân tộc Cao Lan - Sán Chí ở Bắc Giang có khoảng trên 25 nghìn người, sống tập trung ở 4 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế.

Theo Tiểu Vũ

Tin liên quan

Tin mới hơn

Sức sống bền bỉ từ các làng nghề xứ Thanh

Sức sống bền bỉ từ các làng nghề xứ Thanh

LNV - Những làng nghề truyền thống như đúc đồng Trà Đông, rèn Tất Tác hay mộc Đạt Tài đang trở thành những “kho tàng sống” của văn hóa xứ Thanh. Dù nghề thủ công phải thích ứng với yêu cầu thị trường và công nghệ mới, người dân nơi đây vẫn bền bỉ giữ nghề, giữ lửa, truyền lại tinh hoa cho thế hệ trẻ, tạo nên sức sống bền vững cho di sản trong nhịp sống hiện đại.
Nhộn nhịp không khi sản xuất ở làng nghề Bình Hòa

Nhộn nhịp không khi sản xuất ở làng nghề Bình Hòa

LNV - Những ngày cuối năm, không khí làm việc tại làng nghề may mùng, mền xã Bình Hòa (An Giang) trở nên nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Các cơ sở tăng ca sản xuất, còn lao động “vệ tinh” tranh thủ từng giờ rảnh để kịp giao hàng, đáp ứng nhu cầu mua sắm Tết đang tăng mạnh trên thị trường.
Ngắm sắc màu thổ cẩm ở làng Chăm Châu Phong

Ngắm sắc màu thổ cẩm ở làng Chăm Châu Phong

LNV - Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm ở xã Châu Phong (An Giang) đã tồn tại hơn hai thế kỷ, trở thành biểu tượng văn hóa gắn liền với đời sống cộng đồng Hồi giáo Chăm. Được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia vào năm 2023, thổ cẩm Châu Phong ngày càng khẳng định giá trị khi hòa mình vào dòng chảy du lịch, thu hút đông đảo du khách đến khám phá và trải nghiệm.
Đằng sau ánh lửa giữ nghề: Nỗi lo sức khỏe của những người thợ thủ công

Đằng sau ánh lửa giữ nghề: Nỗi lo sức khỏe của những người thợ thủ công

LNV - Làng nghề được xem là nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa dân tộc và tạo sinh kế cho hàng triệu người dân. Tuy nhiên, đằng sau những sản phẩm thủ công tinh xảo là nỗi lo về sức khỏe của người lao động, những con người ngày ngày tiếp xúc với khói bụi, hóa chất, tiếng ồn và nhiệt độ cao trong điều kiện làm việc thiếu an toàn.
Nghệ nhân “hoá thân” chất liệu đời thường thành tác phẩm nghệ thuật

Nghệ nhân “hoá thân” chất liệu đời thường thành tác phẩm nghệ thuật

LNV - Qua bàn tay tài hoa và tâm hồn của người nghệ sĩ, nhiều chất liệu giản dị nhất trở thành tác phẩm nghệ thuật, mang hơi thở của đời sống, phản chiếu tâm hồn con người Việt Nam.
Làng nghề Đại Bái nỗ lực vượt khó, đổi mới sản xuất để đáp ứng đơn hàng Tết

Làng nghề Đại Bái nỗ lực vượt khó, đổi mới sản xuất để đáp ứng đơn hàng Tết

LNV - Trước yêu cầu dừng hoạt động các lò đúc nhằm bảo đảm môi trường, các cơ sở sản xuất ở làng nghề đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) đã nhanh chóng thích ứng, thay đổi phương thức sản xuất và liên kết với cơ sở được cấp phép để duy trì nguồn nguyên liệu. Nhờ chủ động cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, các doanh nghiệp và hộ làm nghề vẫn đáp ứng kịp thời đơn hàng Tết, giữ vững thị trường truyền thống.

Tin khác

Nhộn nhịp sản xuất ở các làng nghề truyền thống dịp cuối năm

Nhộn nhịp sản xuất ở các làng nghề truyền thống dịp cuối năm

LNV - Không khí sản xuất tại các làng nghề truyền thống ở Lạng Sơn đang trở nên nhộn nhịp hơn trong những ngày cận Tết Nguyên đán Bính Ngọ 2026. Sắc màu lao động hiện diện khắp các nếp nhà, tạo nên bức tranh kinh tế sôi động và nhiều kỳ vọng.
Hiệp hội Làng nghề Việt Nam kỷ niệm 20 năm thành lập và phong tặng các danh hiệu làng nghề, nghệ nhân

Hiệp hội Làng nghề Việt Nam kỷ niệm 20 năm thành lập và phong tặng các danh hiệu làng nghề, nghệ nhân

LNV - Ngày 26/12/2025, tại Hà Nội, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập (2005 - 2025) và phong tặng các danh hiệu làng nghề, nghệ nhân lần thứ XII. Sự kiện là dấu mốc quan trọng để nhìn lại chặng đường hai thập kỷ “kết nối - bảo tồn - phát triển tinh hoa nghề Việt”, đồng thời khẳng định vị thế của làng nghề Việt Nam trong chiến lược phát triển bền vững đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Tranh Kim Hoàng: Nối lại một dòng chảy đã đứt đoạn

Tranh Kim Hoàng: Nối lại một dòng chảy đã đứt đoạn

LNV - Tranh Kim Hoàng - dòng tranh dân gian từng phổ biến ở Bắc Bộ đầu thế kỷ XX đã bị đứt mạch hơn bảy thập kỳ bởi thiên tai, biến động xã hội và sự thay đổi trong đời sống thành thị. Trong bối cảnh di sản vật thể đứng trước nguy cơ mai một, nỗ lực phục dựng âm thầm của một số cá nhân đang mở ra hy vọng mới cho việc nối lại dòng chảy tưởng như đã biến mất của làng nghề Kim Hoàng (Hà Nội).
Làng nghề trước những thay đổi: Giữ bản sắc từ kỹ thuật đến cộng đồng

Làng nghề trước những thay đổi: Giữ bản sắc từ kỹ thuật đến cộng đồng

LNV - Dưới tác động của công nghệ, thị trường và dòng lao động dịch chuyển, cấu trúc sản xuất tại nhiều làng nghề truyền thống đang thay đổi nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, ba trụ cột từng làm nên bản sắc làng nghề Việt Nam gồm truyền nghề, chuẩn tay nghề và đời sống cộng đồng cũng đứng trước những thách thức mới về cách duy trì và tiếp nối.
Khẳng định vai trò nghệ nhân, thợ giỏi trong bảo tồn và phát triển làng nghề Hà Nội

Khẳng định vai trò nghệ nhân, thợ giỏi trong bảo tồn và phát triển làng nghề Hà Nội

Ngày 26-12, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tổ chức hội thảo nhằm làm rõ vai trò của đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi trong việc gìn giữ giá trị truyền thống, truyền nghề và thúc đẩy phát triển bền vững các làng nghề trên địa bàn Thủ đô, qua đó đề xuất các giải pháp phát huy nguồn lực con người trong bối cảnh mới.
LÀNG NGÓI ÂM DƯƠNG QUỲNH SƠN: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY TIỀM NĂNG DU LỊCH

LÀNG NGÓI ÂM DƯƠNG QUỲNH SƠN: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY TIỀM NĂNG DU LỊCH

LNV - Vượt qua hơn 270 hồ sơ đến từ 65 quốc gia, Làng du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn (xã Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) được Tổ chức Du lịch Liên Hợp Quốc (UN Tourism) vinh danh là Làng du lịch tốt nhất thế giới năm 2025. Là “hồn nghề” lâu đời tại Quỳnh Sơn, làng nghề ngói âm dương trở thành điểm nhấn, vừa gìn giữ hồn nghề truyền thống, vừa phát triển du lịch làng nghề gắn với xúc tiến thương mại.
Nghệ nhân giữ tiếng ngũ âm Khmer

Nghệ nhân giữ tiếng ngũ âm Khmer

LNV - Suốt hơn hai thập kỷ, nghệ nhân Thạch Anh Xuân (Vĩnh Long) miệt mài truyền dạy nhạc ngũ âm Khmer cho thế hệ trẻ, góp phần gìn giữ và lan tỏa giá trị nghệ thuật truyền thống của đồng bào Khmer Tây Nam Bộ. Từ tình yêu gia truyền, ông trở thành “cầu nối” bền bỉ giữa di sản và hiện đại, bất chấp nhiều khó khăn trong công tác bảo tồn.
Làng nghề Việt trong dòng chảy hội nhập

Làng nghề Việt trong dòng chảy hội nhập

LNV - Trong dòng chảy hội nhập ngày càng sâu rộng, việc các làng nghề Việt Nam chủ động đưa sản phẩm đi xa, giao lưu và hợp tác với tinh hoa nghề thủ công thế giới thông qua triển lãm, hội chợ hay festival đang mở ra không gian phát triển mới cho thương mại và du lịch. Xu hướng này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc gìn giữ, làm giàu và tái định vị giá trị nghề truyền thống Việt Nam trong thời kỳ mới.
Khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn thu hút hàng trăm gian hàng

Khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn thu hút hàng trăm gian hàng

Tối 25-12, tại Khu đô thị Mailand Hà Nội (xã Sơn Đồng), Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tổ chức khai mạc Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn trên địa bàn thành phố.
Gốm Phù Lãng nâng tầm giá trị truyền thống qua sản phẩm OCOP

Gốm Phù Lãng nâng tầm giá trị truyền thống qua sản phẩm OCOP

LNV - Trong tiến trình xây dựng nông thôn mới, làng gốm Phù Lãng đang cho thấy hướng đi bền vững khi nghề truyền thống được nâng tầm thành sản phẩm OCOP. Hành trình bảy năm nghiên cứu men gốm cùng sự đầu tư bài bản về công nghệ đã giúp Gốm Tâm Phù Lãng trở thành điểm sáng, vừa tạo sinh kế ổn định, vừa góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa làng nghề ven sông Cầu.
Giải pháp đẩy mạnh an toàn thực phẩm, phát triển bền vững nông nghiệp theo chuỗi giá trị tại Hà Nội

Giải pháp đẩy mạnh an toàn thực phẩm, phát triển bền vững nông nghiệp theo chuỗi giá trị tại Hà Nội

Trong bối cảnh yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm và phát triển nông nghiệp bền vững, việc tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với kiểm soát an toàn thực phẩm đang trở thành hướng đi tất yếu của nông nghiệp Thủ đô. Hội thảo “Giải pháp đẩy mạnh an toàn thực phẩm, phát triển bền vững, nâng cao giá trị trong phát triển nông nghiệp theo chuỗi giá trị trên địa bàn Hà Nội” do Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tổ chức ngày 25/12 nhằm đánh giá thực trạng, chia sẻ kinh nghiệm, đồng thời đề xuất các giải pháp đồng bộ để nâng cao hiệu quả quản lý, gia tăng giá trị và sức cạnh tranh cho nông sản Hà Nội.
Hà Nội: Phát huy hiệu quả mô hình Trung tâm thiết kế sáng tạo, thúc đẩy phát triển OCOP và du lịch làng nghề năm 2025

Hà Nội: Phát huy hiệu quả mô hình Trung tâm thiết kế sáng tạo, thúc đẩy phát triển OCOP và du lịch làng nghề năm 2025

LNV - Năm 2025 được xem là dấu mốc quan trọng trong chiến lược phát triển làng nghề của Thủ đô khi Hà Nội triển khai đồng bộ Kế hoạch phát triển Trung tâm thiết kế sáng tạo, giới thiệu, quảng bá và bán sản phẩm OCOP gắn với du lịch tại các huyện, thị xã trên địa bàn. Sau một năm thực hiện, chương trình đã tạo ra những chuyển biến rõ nét, khẳng định vai trò của thiết kế sáng tạo như một động lực then chốt trong nâng cao giá trị sản phẩm và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn bền vững.
Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

LNV - Làng gốm Bát Tràng là một trong những làng nghề luôn đi đầu trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển những giá trị truyền thống. Giữa thời đại công nghệ đang phát triển, người dân làng nghề đã mạnh dạn áp dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số qua các nền tảng trực tuyến để vươn ra thị trường.
Chuyển đổi số để làng nghề Việt Nam vươn xa và giữ hồn truyền thống

Chuyển đổi số để làng nghề Việt Nam vươn xa và giữ hồn truyền thống

LNV - Chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu, mở ra cơ hội mới cho các làng nghề truyền thống Việt Nam trong việc mở rộng thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển bền vững. Nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, phóng viên đã có cuộc trao đổi với Ông Trịnh Quốc Đạt – Nhà giáo ưu tú, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, về hành trình chuyển đổi số của các làng nghề trong bối cảnh hiện nay.
Gìn giữ nghề làm hương Tày ở Pác Nghè

Gìn giữ nghề làm hương Tày ở Pác Nghè

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại, thôn Pác Nghè (Thái Nguyên) vẫn lưu giữ nghề làm hương Tày truyền thống qua nhiều thế hệ. Những bó hương thơm dịu từ thảo mộc rừng không chỉ giữ gìn nét văn hóa lâu đời của đồng bào Tày, mà còn tạo sinh kế, giúp nhiều hộ dân có thu nhập ổn định, đặc biệt vào dịp lễ Tết.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú cho 23 nghệ nhân

Xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú cho 23 nghệ nhân

LNV - Sở Công Thương Hà Nội vừa công bố kết quả thẩm định hồ sơ xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ năm 2025. Danh sách được thống nhất sau phiên họp toàn thể của Hội đồng xét tặng diễn ra ngày 17-
Năm 2026 phải là năm hành động đột phá trong khoa học, công nghệ và chuyển đổi số

Năm 2026 phải là năm hành động đột phá trong khoa học, công nghệ và chuyển đổi số

LNV - Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh khoa học, công nghệ và chuyển đổi số giữ vai trò then chốt trong chiến lược phát triển giai đoạn mới, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương chủ động, quyết liệt và chịu trách nhiệm về kết quả. Năm 2026 được xác định là thời
Đà Nẵng khai mạc Triển lãm sản phẩm OCOP cuối năm

Đà Nẵng khai mạc Triển lãm sản phẩm OCOP cuối năm

Ngày 28/12, tại phường Bàn Thạch (TP. Đà Nẵng), triển lãm trưng bày, giới thiệu sản phẩm OCOP năm 2025 chính thức khai mạc. Sự kiện do Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đà Nẵng phối hợp Liên minh Hợp tác xã thành phố tổ chức.
Ban hành quy định mới về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2026 - 2030

Ban hành quy định mới về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2026 - 2030

LNV - Ngày 29/12/2025, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Quyết định số 51/2025/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2026 - 2030.
An Ngãi Trung được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao

An Ngãi Trung được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao

LNV - Ngày 29/12, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã An Ngãi Trung long trọng tổ chức lễ công bố Quyết định công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) nâng cao năm 2025.
Giao diện di động