Hà Nội: 21°C Hà Nội
Đà Nẵng: 23°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 27°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 22°C Thừa Thiên Huế

Những gia đình cuối cùng ở Khe Nhè giữ nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan

LNV - Nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan ở bản Khe Nghè(xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang) đã có ngay từ những ngày đầu tiên khi họ tới vùng đất vải sinh sống. Dù nắm giữ trong tay những bí quyết riêng tạo nên thương hiệu giấy dó Cao Lan từng một thời được ưu chuộng nhưng giờ đây ở Khe Nhè chỉ còn một vài hộ gia đình còn gìn giữ nghề truyền thống của cha ông bằng lòng đam mê.


Công đoạn tráng bột giấy ra khuôn để làm giấy dó của người Cao Lan. (Ảnh: Báo Bắc Giang).

Sự khác biệt của dó Cao Lan

Nghề giấy dó của người Việt được một số thư tịch cổ nước ngoài nói rằng có từ thế kỷ 3 sau công nguyên. Khi đó, người Giao Chỉ đã biết dùng gỗ mật hương để chế tác thành một loại giấy bản tốt, có tên gọi là giấy mật hương.

Khi nhà nước Đại Việt ra đời và quyết định lựa chọn Thăng Long làm kinh đô thì nghề làm giấy càng phát triển. Bởi thời điểm này nhu cầu của xã hội bắt nguồn từ việc học tập, giao dịch, thi cử phát triển đã giúp nghề làm giấy dó phát triển mạnh mẽ. Ở nhiều địa phương như: làng Đống Cao (Kinh Bắc); làng An Thái, Yên Hòa (Thăng Long); làng An Phúc ở (Hà Tây) và một số đồng bào dân tộc thiểu số cũng có nghề làm giấy dó như dân tộc Mông; Cao Lan; Dao;…

Họa sĩ Đào Ngọc Hân, Ủy viên Ban chấp hành Hội Khảo cổ học Việt Nam, Phó Giám đốc Trung tâm Khảo cổ học ứng dụng từng khẳng định: “Nghề làm giấy dó không chỉ là “đặc sản” của người Kinh sinh sống ở miền Bắc Việt Nam mà một số dân tộc thiểu số nước ta cũng có nghề làm giấy dó từ các nguyên liệu giàu bột giấy như các loại cây dó, cây dướng, thân tre non và cuống rơm”.

Trong số đó, kỹ thuật, chất lượng giấy dó của người Cao Lan sống ở bản Khe Nghè, sườn Tây Yên Tử được nhiều nơi biết tới bởi có nhiều khác biệt với cách làm của những nơi khác.

Bản Khe Nghè có hơn 70 hộ, chủ yếu là người Cao Lan. Đồng bào nơi đây có nhiều nét văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó có nghề dệt thổ cẩm và làm giấy dó. Theo lời kể của nhiều bậc cao niên trong làng, từ ngày người Cao Lan tới vùng đất này sinh sống, nghề làm giấy dó đã rất thịnh hành, phần lớn các gia đình ở đây đều làm giấy.


Anh Dương Văn Quang giới thiệu công đoạn cuối cùng để làm giấy dó.

Ở vùng cao, trong đời sống tâm linh, giấy dó được sử dụng trong nhiều nghi lễ truyền thống. Ví dụ như trong đám ma, họ đục hoa văn trên giấy để làm lễ cúng, giống như một loại tranh thờ. Về sau đóng thành quyển để làm sách, viết chữ. Nhiều khách từ các tỉnh lân cận như Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội đều tìm đến để mua cho kỳ được giấy dó, vì giấy dó của người Cao Lan nổi tiếng là chất lượng tốt nên thu hút được nhiều khách hàng.

Những ngày cả bản nhà nhà, người người làm giấy dó đó chỉ còn trong quá khứ. Ngày nay, ở bản Khe Nghè chỉ còn một vài ba hộ làm để giữ nghề truyền thống chứ không ai thực sự sống được với nghề. Bà Trạc Thị Ngọn (80 tuổi) cùng con trai là Dương Văn Quang là một trong số ít người ở Khe Nghè còn theo đuổi đam mê làm giấy dó. Bà Ngọn cho biết, xưa kia, giấy dó được sử dụng phổ biến để lưu giữ chữ viết, tranh vẽ, tranh thờ, in dập các văn tự cổ, ghi chép gia phả của các dòng họ, gia đình...

Giấy dó được ưa chuộng bởi nó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc dòn gẫy, ẩm nát. Tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, trong số những tài liệu giấy, thì tài liệu giấy dó có tuổi thọ cao nhất. Các tài liệu giấy dó là những loại tài liệu được sản sinh lâu đời nhất, từ khi các phương tiện bảo quản chưa được phát triển.

Ở Việt Nam có nhiều nơi làm giấy dó, nhưng mỗi nơi có những kỹ thuật, bí quyết riêng. Điểm khác biệt trong kỹ thuật làm giấy dó của người Cao Lan là họ không seo giấy trong bể seo mà đồ bột giấy lên khuôn tráng có căng lớp vải để thoát nước. Khuôn tráng giấy dó được dựng nghiêng để phơi cho đến khi tách được tờ giấy ra...


Anh Dương Văn Quang giới thiệu cho học sinh về các công đoạn làm giấy dó.

Anh Dương Văn Quang cho biết: “Nguyên liệu chính để làm ra sản phẩm giấy dó của người Cao Lan gồm hai loại là cây vợt pạ và dây hau pau (cây dưỡng). Hai loại cây và dây này đều có trên những ngọn núi, khu rừng cao. Người Cao Lan khi làm giấy phải cất công lên rừng, lên núi, trèo đèo, lội suối để tìm kiếm hai loại cây này. Trong đó, hau pau được dùng để làm thành bột giấy, còn vạt pạ được ngâm để lấy nước, tạo thành chất hồ của giấy”.

Cây hau pau sau khi lấy về sẽ được làm sạch vỏ, ngâm với nước vôi trong và ninh cùng nước hòa tro bếp. Vỏ cây hau pau dễ bóc vỏ, nhất là khoảng tháng 3 và tháng 7. Vỏ cây hau pau sẽ tiếp tục được làm sạch tro bám. Đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất, đòi hỏi sự tỉ mỉ, không thể nóng vội để tạo được độ sáng trắng của giấy. Hau pau sau khi được ninh nhừ sẽ được đem đi giã hoặc đập dập.

Đối với cây vợt pạ phải tách lấy vỏ, cạo sạch lớp vỏ lụa ngoài màu nâu, bó thành cuộn rồi ngâm vào chậu nước sạch một đêm. Sáng hôm sau, mớ vỏ được vớt ra, người làm sẽ thu được một chậu keo có màu trong vắt. Công đoạn cuối cùng là đem phần vỏ được đập nát xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh. Trong quá trình khuấy trộn cùng nước ngâm vạt pạ để giấy khi vào khung sẽ không bị dính.

Cũng giống nhiều vùng khác, đồng bào Cao Lan cũng tự sáng chế khung làm giấy dó cho mình. Khung được ghép vuông bằng bốn thanh gỗ, ở giữa căng vải màn hay vải xô, độ dày mỏng của vải căng quyết định độ dày, mỏng của giấy dó.Ngoài ra, còn có một nồi nấu chất liệu giấy và một chậu đựng nước pha bột giấy...

“Khi trộn hồ với bột phải bằng cách cảm nhận, không thể đong đếm được. Tôi học làm giấy từ rất lâu rồi, lúc đầu làm cũng thử đong xem nhưng không được bởi vì khi cái cây hồ non thì tỷ lệ hồ kém hơn một chút, nếu mình cứ đong bằng một ca như mọi khi thì lại không đủ, còn cây già hơn một chút thì đong bằng một ca đó lại bị quá nhiều. Vậy nên chỉ bằng cách pha xuống khung, mình sờ tay xuống cảm nhận. Sau này khi mình sờ, cảm nhận bằng tay quen rồi thì đủ lượng là mình biết luôn, mình tráng lên tờ giấy lại phải tráng tay thật đều, thật phẳng không thì tờ giấy bị chỗ mỏng chỗ dầy”, anh Dương Văn Quang cho hay.


Bộ tranh Tố Nữ của họa sĩ Lý Trực Sơn trên chất liệu giấy dó.

Khi bột giấy đã dàn đều thì dựng khung nghiêng, tìm nơi sạch sẽ, thoáng đãng, nhiều nắng gió để phơi giấy cho khô. Khi phơi cũng phải đặt khuôn phẳng mặt thì tờ giấy mới mịn đều. Lấy giấy khô cần gỡ mép trước, sau đó lột cả tờ giấy lên. Sản phẩm cuối cùng, giấy dó có màu trắng, giấy dày đều, phẳng và dai.

Ở trong bản Khe Nghè, những người còn nặng lòng với nghề làm giấy dó của đồng bào Cao Lan cùng chung nỗi lo bởi giờ đây còn rất ít người trong bản và những nơi khác biết làm giấy dó truyền thống.Được làm từ bàn tay khéo léo của người Cao Lan theo bí quyết riêng, sản phẩm giấy dó tuy mỏng nhưng dai và bền hơn giấy sản xuất công nghiệp. Nếu bảo quản cẩn thận có thể để vài chục năm vẫn sử dụng tốt. Giấy dó giờ không còn được nhiều ưu chuộng và mua như trước khi giấy công nghiệp đa dạng, rẻ và trở nên thông dụng.

Ngành Văn hóa địa phương đã từng có một số chương trình hỗ trợ bảo tồn, phát huy giá trị nghề làm giấy dó ở Khe Nghè. Ông Nguyễn Văn Quế, Trưởng phòng Chính sách, Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang cho biết: Là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống lâu đời, tồn tại hàng trăm năm với tên tuổi, bản sắc văn hóa dân tộc, tỉnh Bắc Giang đã và đang thực hiện quy hoạch phát triển làng nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trong đó có nghề làm giấy dó ở xã Lục Sơn.

Tuy nhiên, bản thân anh Quang đã nhiều lần được mời tham gia trình diễn làm giấy dó tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, song vẫn chưa tìm được người trẻ tâm huyết để truyền nghề. Nguy cơ thất truyền nghề làm giấy dó chỉ là thời gian không xa.

Cơ hội cho giấy dó ở thời đại 4.0

Vào tháng 5/2019, Trung tâm Quản lý văn hoá phổ cổ Hà Nội đã tổ chức toạ đàm chủ đề: “Dó Việt xưa - nay” tại đình Kim Ngân (phố Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội).

Cũng như một số nghề truyền thống khác của người Việt xưa, nghề làm giấy dó đã có nhiều thế kỷ hưng thịnh trước khi bị dòng thời gian và sự biến đổi, phát triển của xã hội làm mai một. Được đánh giá là một trong những loại giấy bền nhất thế giới có niên đại lên đến 500 – 600 năm, giấy dó một thời huy hoàng trong đời sống người Việt.

Trước khi làm ra giấy, từ thời cổ, người Việt cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới đã dùng các loại vật liệu khác để ghi chép như khắc trên đồng, trên đá, trên mai rùa, xương thú, trên đất sét, đất nung, viết trên tre, nứa, trúc, trên lá cọ, trên lụa,... Những loại “sách vở” ấy đến nay còn lại khá nhiều ở nước ta. Các nhà khảo cổ, các nhà dân tộc học gần đây còn phát hiện được sách đồng ở Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam và sách đá ở Thanh Hoá…

Họa sĩ Đào Ngọc Hân cho biết, nghề làm giấy dó ở Việt Nam xuất hiện trong sử sách và các tư liệu vào thế kỷ thứ 3 cho đến khi nước Đại Việt ra đời, định đô ở Thăng Long. Vào thời xưa, giấy dó rất hưng thịnh, trong các khu chợ bán giấy như làng Yên Thái, Nghĩa Đô, Cầu Giấy… người mua kẻ bán rất tấp nập, cả làng trắng xóa bởi giấy dó đem phơi…

Theo họa sỹ Đào Ngọc Hân, câu chuyện về tổ nghề giấy ở Việt Nam có nhiều dị bản khác nhau nhưng nhìn chung, theo những ghi chép về giấy của ta thời thượng cổ do người Việt viết thì đến nay vẫn chưa tìm thấy trong vốn sách sử cổ còn sót lại của nước nhà. Sách “Thiên tự Văn” của Trung Quốc viết rằng: Thái Luân đã sáng chế ra giấy, bằng cách dùng vỏ cây có xơ, gọi là ma chỉ, dùng vải cũ, lưới đánh cá cũ giã ra làm giấy gọi là võng chỉ, dùng cây dó làm giấy gọi là cốc chỉ. Thái Luân làm quan và chế ra giấy vào đời vua Hoà Đế nhà Hán.

Trong quá trình lịch sử, trên lĩnh vực sản xuất giấy, thợ thủ công Việt Nam đã tỏ ra hết sức tài khéo. Họ làm ra nhiều loại giấy, trong đó có một số loại giấy quý, rất đẹp và qua thử thách của thời gian, khí hậu, đã tỏ ra vô cùng bền. Do đó, ngay từ thời vua Lý Cao Tông (1176-1210) một số loại giấy tốt của ta đã thuộc vào hàng đặc sản cống phẩm cho nhà Tống.

Khoảng cuối đời nhà Lý đến đầu đời nhà Trần mới thấy có tài liệu lịch sử ghi lại rằng: “Ở phía Tây của kinh đô Thăng Long, có một xóm thợ thủ công chuyên về làm giấy. Đó là phường giấy làng Dịch Vọng. Gần đấy có Cầu Giấy”. Đến thế kỷ thứ 15, một phường làm giấy khác nổi lên, phồn thịnh hơn cả phường giấy Dịch Vọng, đó là phường giấy Yên Thái (làng Bưởi - Hà Nội). Sách “Dư địa chí” trong “Nguyễn Trãi toàn tập” của Nguyễn Trãi có nói đến làng giấy này. Nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn, ở thế kỷ 18, trong bộ sách bách khoa “Vân đài loại ngữ” của ông đã có khảo cứu về nghề làm giấy ở nước ta…

Như vậy, nghề làm giấy ở nước ta có lịch sử lâu đời và đến đầu thế kỉ 18 thì đã phát triển khá rộng rãi ở nhiều địa phương. Sản lượng giấy lúc này đạt mức đủ đảm bảo để in được nhiều sách bằng “giấy nội hoá”.

Là một họa sĩ có nhiều tác phẩm tham gia triển lãm “Dó Việt xưa-nay”, họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, chia sẻ: Trong đời sống xã hội ngày nay, giấy dó đã được sử dụng phổ biến hơn trong mỹ thuật, trở thành chất liệu để sáng tạo văn hóa mỹ thuật Việt. Tôi rất thích sử dụng giấy dó để vẽ, bởi nó có giá trị thẩm mỹ trong nghệ thuật rất đắc địa và có sự phóng túng, mộc mạc, dung dị hơn hẳn nguyên liệu vẽ tranh lụa.

“Các chuyên gia quốc tế đánh giá rất cao về giá trị của giấy dó Việt, họ khẳng định giấy dó Việt là tốt nhất. Điều đáng tiếc là, nguồn chất liệu quý giá siêu bền giờ mới chỉ phục hồi trong mỹ thuật, cung cấp một chất liệu sáng tạo văn hóa và phục vụ được nhóm đối tượng rất nhỏ. Chúng ta cần đưa giấy dó đi chinh phục để nhiều người biết đến và có thể ứng dụng rộng rãi vào đời sống đương đại”, ông Đức nhấn mạnh.

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, giấy Dó truyền thống đang bị lấn át bởi các loại giấy khác. Hiện nay, rất khó để có thể tìm được một cửa hàng bán tranh vẽ trên giấy dó.

Theo nghệ nhân Ngô Thu Huyền, một trong những người trẻ hiếm hoi của làng Dương Ổ, phường Phong Khê, thành phố Bắc Ninh còn tiếp tục theo nghiệp làm giấy dó, đối với một nghề truyền thống thì không chỉ để dành cho việc trưng bày mà nó cần phải có giá trị ứng dụng vào đời sống cao. Ngày nay, sự ra đời của công nghệ in ấn, giấy công nghiệp ngày càng chiếm ưu thế, được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội bởi sự tiện lợi phù hợp với nhu cầu sử dụng. Do đó, muốn giấy Dó được nhiều người sử dụng, cần làm tăng giá trị ứng dụng của nó.

Chị Ngô Thu Huyền chia sẻ: “Về giấy dó trên thị trường hiện nay thì nhu cầu sử dụng của mọi người cũng khác nhau. Ví dụ như dòng giấy để lưu trữ bảo quản thì phải có chất lượng rất tốt. Thứ hai là nếu muốn sử dụng dòng giấy thủ công thì cần phải có tính thẩm mỹ, ví dụ mình có thêm họa tiết khác nhau để tạo nên những tờ giấy có tính thẩm mỹ cao. Và mình cũng sản xuất thêm dòng giấy dành cho các bạn viết thư pháp phương Tây và vẽ màu nước. Vẫn là chất liệu giấy Dó nhưng phải có sự thay đổi để phù hợp với nhu cầu sử dụng”.

Do đó, Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức cho rằng để giấy Dó không bị mai một, chúng ta cần hỗ trợ về công nghệ, tạo ra một thị trường rộng hơn cho những người sản xuất, thay vì chỉ đáp ứng nhu cầu cho một vài đối tượng như hiện nay, có như vậy những nghệ nhân mới có thể sống được với nghề.

Cao Lan là một trong hai nhóm của dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chí). Trước đây các học giả người Pháp coi người Cao Lan là một bộ phận của dân tộc Dao. Người Cao Lan còn được gọi là người Trại. Cho đến nay, người Cao Lan ở Bắc Giang vẫn tự nhận mình là người dân tộc Cao Lan, có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.

Theo kết quả khảo sát, nguồn gốc của người Cao Lan ở Bắc Giang là từ Quảng Đông, Quảng Tây, Dương Châu, Quý Châu (Trung Quốc) di cư sang Việt Nam đã được 300 năm. Đến Việt Nam, người Cao Lan cư trú ở tỉnh Quảng Ninh sau đó di cư đến các huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang.

Theo số liệu thống kê năm 2014, nhóm dân tộc Cao Lan - Sán Chí ở Bắc Giang có khoảng trên 25 nghìn người, sống tập trung ở 4 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế.

Theo Tiểu Vũ

Tin liên quan

Tin mới hơn

Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề, kết nối OCOP với phát triển du lịch Thủ đô

Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề, kết nối OCOP với phát triển du lịch Thủ đô

LNV - Tối 18/12, tại xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm), Sở Công Thương Hà Nội tổ chức khai mạc Triển lãm quảng bá, giao thương kết nối sản phẩm OCOP, thủ công mỹ nghệ và làng nghề phục vụ du lịch năm 2025.
Giữ lửa men đất Phú Lễ trong hành trình phát triển bền vững

Giữ lửa men đất Phú Lễ trong hành trình phát triển bền vững

LNV - Giữa vùng đất Ba Tri xưa, làng nghề rượu Phú Lễ hơn trăm năm tuổi vẫn đỏ lửa qua nhiều thế hệ. Từ bí quyết men cổ truyền, Phú Lễ hôm nay đang chuyển mình thành điểm giao thoa giữa bảo tồn làng nghề, du lịch trải nghiệm và mô hình kinh tế tuần hoàn gắn với cộng đồng.
Làng nghề miền Tây vào vụ Tết

Làng nghề miền Tây vào vụ Tết

LNV - Những ngày cuối năm, không khí sản xuất tại nhiều làng nghề đặc sản ở miền Tây trở nên nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Từ sáng sớm đến khuya, tiếng máy móc, tiếng nói cười rộn ràng vang lên khắp các xưởng sản xuất, báo hiệu mùa cao điểm phục vụ thị trường Tết đã bắt đầu. Tuy nhiên, phía sau sự tất bật ấy là những gam màu trái ngược: có nơi đầy lạc quan nhờ đơn hàng tăng mạnh, có nơi lại không khỏi lo lắng vì chi phí đầu vào leo thang, sức mua khó dự đoán.
Làng Ngâu – Hương rượu cúc chi níu giữ hồn quê Đại Thanh

Làng Ngâu – Hương rượu cúc chi níu giữ hồn quê Đại Thanh

LNV - Nằm ven đô Hà Nội, làng Ngâu, xã Đại Thanh từ lâu đã được biết đến là vùng đất cần cù, nơi lưu giữ một nghề truyền thống độc đáo: nấu rượu cúc chi. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, nghề nấu rượu nơi đây vẫn được người dân gìn giữ như một phần máu thịt của làng quê, kết tinh từ bàn tay lao động, kinh nghiệm dân gian và hương sắc của loài hoa cúc chi thuần khiết.
Đầu tư 205 tỷ đồng bảo vệ và phát huy nghệ thuật làm gốm của người Chăm

Đầu tư 205 tỷ đồng bảo vệ và phát huy nghệ thuật làm gốm của người Chăm

LNV - UBND tỉnh Khánh Hòa vừa phê duyệt Đề án Quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” giai đoạn 2025 – 2028 và những năm tiếp theo. Đây là bước đi quan trọng nhằm bảo tồn một di sản văn hóa độc đáo đang đứng trước nguy cơ mai một, đồng thời tạo nền tảng để phát triển kinh tế xã hội gắn với du lịch và làng nghề truyền thống.
Làng nghề Thái Nguyên tìm hướng phát triển từ kinh tế sáng tạo

Làng nghề Thái Nguyên tìm hướng phát triển từ kinh tế sáng tạo

LNV - Dưới tác động mạnh mẽ của chuyển đổi số, các làng nghề truyền thống đang từng bước tìm thấy hướng phát triển mới gắn với kinh tế sáng tạo. Tại Thái Nguyên, vùng đất nổi tiếng với cây chè, xu hướng này đang ngày càng rõ nét, đặc biệt với sự tham gia của lực lượng lao động trẻ.

Tin khác

Nghề ươm cây giống giúp Bảo Lộc phát triển kinh tế địa phương

Nghề ươm cây giống giúp Bảo Lộc phát triển kinh tế địa phương

LNV - Hơn 150 hộ dân ở Bảo Lộc làm nghề ươm cây giống, tạo việc làm và thu nhập cao từ cây cà phê, chè, sầu riêng, và nhiều loại cây đặc trưng.
Nghệ thuật thủ công Việt Nam sống động cùng FOXDESIGN – Liên Hoa Vạn Phúc

Nghệ thuật thủ công Việt Nam sống động cùng FOXDESIGN – Liên Hoa Vạn Phúc

LNV - Với thông điệp kể chuyện qua giấy và ánh sáng, FOXDESIGN - Liên Hoa Vạn Phúc định hình lại nghệ thuật thủ công truyền thống trong xu hướng đương đại.
Hội thảo “Tư vấn Hỗ trợ xúc tiến thương mại sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn”

Hội thảo “Tư vấn Hỗ trợ xúc tiến thương mại sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn”

LNV - Sáng 11/12/2025, tại Phường Phủ Lý (tỉnh Ninh Bình), Trung tâm Khoa học và Công nghệ Phát triển làng nghề (Hiệp hội Làng nghề Việt Nam) phối hợp với Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) và Sở Công thương tỉnh Ninh Bình tổ chức Hội thảo “Tư vấn Hỗ trợ xúc tiến thương mại sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn”.
Thành công Đại hội Hiệp hội Làng nghề thành phố Hải Phòng mở ra kỳ vọng lớn lao

Thành công Đại hội Hiệp hội Làng nghề thành phố Hải Phòng mở ra kỳ vọng lớn lao

LNV - Ngày 28/11/2025 đã trở thành một dấu mốc đáng nhớ khi Đại hội Hiệp hội Làng nghề Thành phố Hải Phòng lần thứ III, nhiệm kỳ 2025 – 2030 đã khép lại với thành công rực rỡ!
Nước Mắm Việt Nam: Từ một phần di sản biển đến chiến lược phát triển bền vững

Nước Mắm Việt Nam: Từ một phần di sản biển đến chiến lược phát triển bền vững

LNV - Ngày 28/11/2025, tại thành phố Đà Nẵng, Trung tâm Công nghệ Sinh học Đà Nẵng (DBC) phối hợp cùng Đại học Yamagata (Nhật Bản), Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật - Đại học Đà Nẵng và Hiệp hội Văn hoá Ẩm thực TP. Đà Nẵng (DCCA) tổ chức Hội thảo Khoa học Quốc tế “Nước mắm và thủy sản lên men truyền thống: Di sản văn hóa, khoa học và phát triển bền vững”.
Đà Nẵng tạo dấu ấn với hội thảo quốc tế về nước mắm truyền thống

Đà Nẵng tạo dấu ấn với hội thảo quốc tế về nước mắm truyền thống

LNV - Ngày 28/11, tại TP Đà Nẵng, Trung tâm Công nghệ Sinh học Đà Nẵng (DBC) phối hợp cùng Đại học Yamagata (Nhật Bản), Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật - Đại học Đà Nẵng và Hiệp hội Văn hoá Ẩm thực TP. Đà Nẵng (DCCA) tổ chức Hội thảo Khoa học Quốc tế “Nước mắm và thủy sản lên men truyền thống: Di sản văn hóa, khoa học và phát triển bền vững”.
Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế với sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam

Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế với sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam

Ngày 3/12, tại Bắc Ninh, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã tổ chức Hội thảo “Tư vấn nâng cao nhận thức về xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ”
Làng nghề hương xạ ở Sơn Nam: Nơi gìn giữ tinh hoa hương Việt

Làng nghề hương xạ ở Sơn Nam: Nơi gìn giữ tinh hoa hương Việt

LNV - Tổ dân phố Cao (phường Sơn Nam, Hưng Yên) từ lâu được biết đến là địa phương còn lưu giữ và phát triển nghề làm hương truyền thống nổi tiếng của tỉnh. Với kinh nghiệm lâu năm và lòng yêu nghề bền bỉ, người thợ nơi đây đã tạo nên sản phẩm hương thuốc bắc đặc trưng, góp phần bảo tồn nét văn hóa và lan tỏa giá trị của nghề truyền thống đến cộng đồng.
Làng nghề mỳ Chũ Thủ Dương vào vụ Tết

Làng nghề mỳ Chũ Thủ Dương vào vụ Tết

LNV - Làng nghề mỳ Chũ ở thôn Thủ Dương (xã Nam Dương, tỉnh Bắc Ninh) đang bước vào giai đoạn sản xuất sôi động nhất trong năm để chuẩn bị nguồn hàng phục vụ Tết Nguyên đán. Từ tờ mờ sáng đến tận khuya, khắp thôn rộn vang tiếng máy tráng, tiếng cắt sợi, tiếng đóng gói.
Từ lễ hội đến lan tỏa giá trị khẳng định vị thế vùng đất nghề

Từ lễ hội đến lan tỏa giá trị khẳng định vị thế vùng đất nghề

LNV - Lễ hội vinh danh làng nghề và Tuần Văn hoá – Du lịch, Thương mại làng nghề năm 2025 đã chính thức khép lại sau bốn ngày tổ chức sôi động, giàu màu sắc tại xã Phú Xuyên (huyện Phú Xuyên, Hà Nội). Đây là sự kiện có quy mô lớn nhất từ trước tới nay của địa phương, do UBND xã Phú Xuyên phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tổ chức, mang đến chuỗi hoạt động văn hóa – kinh tế đa dạng, hướng tới mục tiêu tôn vinh, gìn giữ và phát huy giá trị các làng nghề truyền thống.
Giữ lửa nghề qua từng sợi bánh

Giữ lửa nghề qua từng sợi bánh

LNV - Bánh hỏi từ lâu đã là món ăn dân dã quen thuộc trong đời sống người Việt. Nhưng ở làng nghề bánh hỏi An Nhứt (xã Long Điền, TP.HCM), món ăn ấy không chỉ là thực phẩm mà còn là một nghệ thuật ẩm thực tinh tế, được truyền nối qua nhiều thế hệ như một phần máu thịt của văn hóa địa phương.
Hướng đi mới trong giáo dục trải nghiệm khi nghệ nhân, nghệ sĩ tham gia giảng dạy

Hướng đi mới trong giáo dục trải nghiệm khi nghệ nhân, nghệ sĩ tham gia giảng dạy

LNV - Trong năm học này, xu hướng đưa chuyên gia, nghệ nhân, nghệ sĩ và vận động viên vào trường học để trực tiếp giảng dạy đang trở nên ngày càng phổ biến.
Người giữ hồn âm nhạc Khmer giữa nhịp sống hiện đại

Người giữ hồn âm nhạc Khmer giữa nhịp sống hiện đại

LNV - Trong Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp Khmer – Nhà hát Cao Văn Lầu, nhắc đến cái tên Kim Văn Đồi, nhiều nghệ sĩ và khán giả đều dành sự trân trọng đặc biệt. Hơn hai thập kỷ gắn bó với nghề, anh không chỉ là người phụ trách hòa âm, phối khí, cân chỉnh âm thanh cho dàn nhạc trong các chương trình lớn nhỏ, mà còn là người lặng lẽ gìn giữ những thanh âm tinh hoa của văn hóa Khmer bằng tất cả đam mê và trách nhiệm.
Nghề lấy yến sào ở Nha Trang

Nghề lấy yến sào ở Nha Trang

LNV - Với 36 năm gắn bó cùng những vách đá giữa biển khơi, nghệ nhân Võ Văn Cam (phường Nha Trang) là một trong những người thợ kỳ cựu đã góp phần gìn giữ và truyền lại tinh hoa nghề khai thác yến sào – sản vật được mệnh danh là “vàng trắng” của vùng biển Khánh Hòa.
Đưa khảm trai – sơn mài Chuyên Mỹ lên bản đồ thế giới

Đưa khảm trai – sơn mài Chuyên Mỹ lên bản đồ thế giới

Trong tháng 11 vừa qua, xã Chuyên Mỹ tiếp đón gần 200 đại biểu quốc tế trong khuôn khổ chương trình thẩm định để công nhận làng nghề khảm trai - sơn mài Chuyên Mỹ trở thành thành viên Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới năm 2025.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề, kết nối OCOP với phát triển du lịch Thủ đô

Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề, kết nối OCOP với phát triển du lịch Thủ đô

LNV - Tối 18/12, tại xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm), Sở Công Thương Hà Nội tổ chức khai mạc Triển lãm quảng bá, giao thương kết nối sản phẩm OCOP, thủ công mỹ nghệ và làng nghề phục vụ du lịch năm 2025.
Gia Lai khởi công hàng loạt các dự án trọng điểm tạo động lực phát triển mới

Gia Lai khởi công hàng loạt các dự án trọng điểm tạo động lực phát triển mới

LNV - Ngày 19/12/2025, trong không khí thiêng liêng kỷ niệm 79 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 - 19/12/2025) và hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì Lễ khởi công, khánh thành,
Toạ đàm ‘Chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử’

Toạ đàm ‘Chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử’

LNV - Toạ đàm “Chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử”, do Tạp chí Tiếp thị và Gia đình tổ chức, dưới sự chỉ đạo của Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công thương).
Nhà vườn Văn Giang tất bật vào vụ cây cảnh Tết

Nhà vườn Văn Giang tất bật vào vụ cây cảnh Tết

LNV - Dù còn gần hai tháng nữa mới đến Tết Nguyên đán, các nhà vườn ở xã Văn Giang đã bước vào cao điểm sản xuất. Phát huy lợi thế vùng cây cảnh truyền thống, nông dân nơi đây không ngừng sáng tạo các dòng sản phẩm độc, lạ, giàu giá trị nghệ thuật và phon
Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu hàng Thủ công Mỹ nghệ

Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu hàng Thủ công Mỹ nghệ

LNV - Hoạt động xúc tiến Thương mại phát triển thị trường xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã phát triển nhanh chóng cùng với tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, quy mô của các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ
Giao diện di động