Hà Nội: 20°C Hà Nội
Đà Nẵng: 21°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 28°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 19°C Thừa Thiên Huế

Làng nghề và việc làm ở nông thôn

LNV - Trong quá trình công nghiệp hóa, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang một nước công nghiệp phát triển, tất yếu phải chuyển dịch cơ cấu lao động của nền kinh tế theo hướng tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống; Tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Trong quá trình này, làng nghề chúng ta có thể góp một phần quan trọng.
Việc làm và năng suất lao động

Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để có thể đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và việc làm năm 2019, số dân nước ta năm đó là 96.208.984 người (theo Liên hợp quốc, đến tháng 8/2022, dân số nước ta đã là 99.066.469 người), trong đó số dân sống ở nông thôn chiếm 65,6% . Đến những năm 2021-2022, số dân sống ở nông thôn tuy có giảm, song vẫn còn chiếm tới 62,9% tổng dân số cả nước. Như vậy, việc làm cho khu vực nông thôn là rất cấp bách.

Về lý luận, thị trường lao động bền vững gồm sáu yếu tố: (i) Cơ hội người lao động có việc làm; (ii) Điều kiện làm việc; (iii) Năng suất lao động; (iv) Bình đẳng; (v) An toàn tại nơi làm việc; (vi) Thu nhập thỏa đáng và bảo đảm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Trong bài viết này, chỉ xin đề cập hai nhóm vấn đề cần được quan tâm: Một là giải quyết việc làm cho lao động nông thôn; Hai là nâng cao chất lượng nguồn lao động, cũng tức là nâng cao năng suất lao động.


1.Tình trạng thiếu việc làm trong khu vực nông thôn có thể do nhiều nguyên nhân. (i) Phần lớn nông dân nước ta lâu nay chỉ quen nghề nông, không có hoặc có rất ít sự hiểu biết về các ngành nghề phi nông nghiệp; Trong khi đó, vùng đồng bằng, trung du hầu hết đều ở vào tình trạng “đất chật, người đông”, diện tích đất canh tác tính theo đầu người rất thấp; dẫn tình trạng lao động nông thôn không đủ việc làm; thời kỳ “nông nhàn” trong năm rất dài. (ii) Tác động của quá trình công nghiệp hóa: một mặt tạo ra thêm những việc làm mới trong lĩnh vực phi nông nghiệp, nhưng mặt khác, do yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, cho nên lao động nông thôn không qua đào tạo càng khó tìm kiếm được việc làm.

Rõ ràng là tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm trong lao động nông thôn dã trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội cần được giải quyết kịp thời, tránh gây ra mất ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn đang chiếm tới gần 70% dân số cả nước này.

2. Tiếp theo, xin dề cập vấn đề năng suất lao động, bởi vì giải quyết việc làm không chỉ là tìm được việc làm cho người lao động, mà còn cần xem việc đó làm ra bao nhiêu của cải cho xã hội, cũng tức là chất lượng lao động và năng suất lao động. Trong bối cảnh hội nhập sâu sắc, lao động di chuyển tự do, cách mạng 4.0 với những tác động nhanh, nhạy của thế giới ngày nay, nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành sự đòi hỏi gay gắt của cả xã hội, của mọi ngành, của các doanh nghiệp.


Đối với nước ta, trải qua những năm đổi mới đến nay, tuy nền kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng, song nhìn chung, việc chuyển dịch cơ cấu lao động có nhiều khó khăn. Lao động nông thôn đông, nhưng so với thành thị thì còn kém về học vấn, trình độ tiếp thu khoa học kỹ thuật, v.v...Đó chính là một nguyên nhân chủ yếu làm cho năng suất lao động nước ta còn quá thấp. Điều này rất quan trọng, vì năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm được người lao động sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, phản ánh năng lực tạo ra của cải của người lao động. Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của một tổ chức, một đơn vị sản xuất hay của một phương thức lao động, một xã hội, là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo ước tính của Tổ chức Lao động thế giới (ILO), năng năng suất lao động bình quân của Việt Nam năm 2019 mới đạt mức 117,94 triệu đồng, tương đương khoảng 5.081 USD/lao động, thấp hơn 26 lần so với Singapore, 7 lần so với Malaysia, 4 lần so với Tung Quốc, 2 lần so với Philippines, 3 lần so với Thái Lan. Báo cáo năm 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cũng cho thấy, năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm.

Từ kinh nghiệm của các nước, có thể thấy rõ để tăng năng suất lao động, cần thực hiện hàng loạt giải pháp như: (i) Đẩy mạnh cải cách thể chế theo hướng hiện đại; Xây dựng Chính phủ kiến tạo, hành động, Chính phủ xanh, Chính phủ số; (ii) Gia tăng quy mô nền kinh tế (quy mô GDP), duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, gia tăng những ngành/lĩnh vực có giá trị gia tăng cao (công nghiệp và dịch vụ); (iii) Tạo ra nhiều việc làm và đảm bảo toàn dụng lao động; Đẩy mạnh thực hiện Chương trình OCOP; (iv) Hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp minh bạch, thuận lợi...

Mở rộng cánh cửa việc làm

Theo điều tra của Bộ NN&PTNT, năm 2020, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở khu vực nông thôn bình quân là 2,94% (cả nước là 2,52%). Ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn thì tỷ lệ này còn cao hơn bình quân chung (có thể lên đến 20% hoặc cao hơn). Trong khi đó, hằng năm cả nước vẫn có khoảng 1,0-1,5 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động mà chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn. Cùng với tốc độ đô thị hóa cao, bình quân diện tích sản xuất nông nghiệp tính theo đầu người thấp dần, tạo ra áp lực về việc làm ngày càng nặng nề, dẫn đến nhiều lao động nông thôn phải di chuyển ra thành phố và các khu công nghiệp hoặc ra nước ngoài kiếm việc làm, tạo ra những khó khăn nhất định cho quản lý xã hội. Trước tình hình đó, rất cần tạo việc làm cho lao động nông thôn ngay trong khu vực nông thôn, giúp cho người nông dân có thể có việc làm, có thu nhập, làm giàu ngay trên quê hương mình.

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao: theo tiêu chí của Liên hợp quốc, GDP bình quân đầu người phải đạt trên 12.535 USD/năm, trong khi đó năm 2020, thu nhập bình quân đầu người mới đạt 2.779 USD, vẫn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 27/8/222). Như vậy, phải đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà một nội dung chủ yếu là thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu lao dộng xã hội. Ở các nước phát triển, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp chỉ là 5-7% trong tổng dân số, thậm chí chỉ là 3-5%; trong khi đó, tỷ lệ này ở nước ta năm 2020 còn chiếm tới 34,78% (công nghiệp và xây dựng chiếm 32,65%; Thương mại và dịch vụ chiếm 32,57%). Vì vậy, phải chuyển dịch mạnh hơn nữa lực lượng lao động ra khỏi nông nghiệp, tạo nhiều việc làm phi nông nghiệp cho họ, đồng thời cũng nhằm góp phần tăng năng suất lao động của nước ta.

Hiện nay, hệ thống công nghiệp nông thôn đang bao gồm các ngành nghề như: (i) Chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; (ii) Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; (iii) Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; (iv) Sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ; (v) Sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh...

Hệ thống doanh nghiệp đó đang phát triển với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; Với tinh thần xuyên suốt là một tổng thể gắn bó, liên kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bình đẳng, tạo nên năng lực cạnh tranh của đất nước. Mục tiêu đề ra là có 1,3 - 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025, trong đó có 15 - 20 doanh nghiệp tư nhân có vốn hóa đạt trên 1 tỷ USD. Với khoảng 810.000 doanh nghiệp tính đến năm 2020, để đạt mục tiêu trên, tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp trong 5 năm tới phải đạt 12 - 14%/năm, tính ra mỗi năm sẽ có thêm 100.000 - 150.000 doanh nghiệp. Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP hiện nay khoảng 55%; Đến năm 2030, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP phải đạt 60 - 65%; Cùng với 810.000 doanh nghiệp, còn có khoảng 5,4 triệu hộ kinh doanh, mà theo quan điểm của thế giới "bất cứ cá nhân nào có hoạt động đầu tư, kinh doanh có mục đích tìm kiếm lợi nhuận đều được coi là doanh nghiệp” thì trong số này, đã có khá nhiều doanh nghiệp. Hơn nữa, theo các số liệu thống kê, hơn 800.000 DN chỉ đóng góp 10% GDP, trong khi khu vực hộ kinh doanh đóng góp tới 30% GDP. Như vậy, tiềm năng phát triển doanh nghiệp, thu hút lao động còn rất lớn.

Trong thời gian tới, để cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo diều kiện cho phát triển doanh nghiệp, cần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc mà cộng đồng doanh nghiệp thường gặp, tập trung vào cải cách hành chính: Tiếp tục cải tiến thủ tục thuế, hải quan, tiếp cận đất đai, thanh tra, kiểm tra, môi trường... Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước gắn với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công khai, minh bạch hoạt động công vụ; Đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu. Tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ; phát triển các tổ chức và thiết chế hỗ trợ phát triển thị trường khoa học và công nghệ...

Xuất khẩu lao động được xem là một giải pháp tích cực trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững cho khu vực nông thôn. Đến nay, cả nước có hơn 600.000 lao động đang làm việc tại 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, mỗi năm chuyển về gần 4 tỷ USD. Thế nhưng, vẫn còn nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ, đó là: Chất lượng lao động đi làm việc; Bài toán sinh kế sau khi họ về nước; Tình trạng lao động cư trú bất hợp pháp. Thời gian tới, cần chấm dứt việc đưa lao động phổ thông đi làm ở nước ngoài, chỉ đưa đi số lao động tay nghề cao có thể tiếp cận khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý để sau này trở về phục vụ đất nước. Điều này cũng rất phù hợp khi cuộc đua thu hút lao động có tay nghề cao ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á - Thái Bình Dương đang nóng lên trong bối cảnh khu vực đang phải đối mặt với tình cảnh thiếu lao động, dân số già và cạnh tranh toàn cầu gia tăng. Công tác quản lý Nhà nước cần được tăng cường, khắc phục những tiêu cực như tệ nạn lừa đảo, buôn người, “việc nhẹ, lương cao”, đi chui, gây ra những thảm cảnh đau lòng đã xảy ra lâu nay.

Đóng góp của Làng nghề

Có thể khẳng định rằng ngành nghề thủ công trong làng nghề chúng ta rất phong phú; tiềm năng giải quyết việc làm còn rất rộng rãi. Thực tế cho thấy làng nghề có thể đóng góp vào toàn bộ quá trình tạo việc làm cho lao động nông thôn, thực hiện cuộc chuyển dịch cơ cấu lao động và góp phần tăng năng suất lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta.

Xin được nhấn mạnh thêm rằng, trên thế giới, trong quá trình công nghiệp hóa, các nước đều rất coi trọng khu vực nông thôn. Đó là vì khu vực này thường chiếm một diện tích và số dân đáng kể của mỗi quốc gia, đồng thời là cái nôi về văn hóa và kinh tế của mỗi đất nước, nhưng lại thường là khu vực tập trung những người nghèo khổ nhất. Công cuộc công nghiệp. phát triển đô thị đang kéo theo sự phân hóa giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, cũng đồng thời làm lu mờ bản sắc văn hóa, lối sống của cộng đồng dân cư nông thôn và của cả quốc gia. Chính vì vây, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia đều đã quan tâm phát triển khu vực nông thôn, xây dựng những chương trình, kế hoạch như “Mỗi làng một sản phẩm” mà trọng tâm là phát triển các nghề phi nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Đối với nước ta, nông thôn đã thể hiện rất rõ vai trò “bệ đỡ” cho nền kinh tế; Mỗi khi có biến động, như tác động của đại dịch Covid-19 vừa qua, nông thôn là nơi tiếp nhận và thu xếp việc làm cho số lao động các đô thị mất việc trở về; kết quả rất khả quan.

Cho đến năm 2020, theo Bộ NN&PTNT, làng nghề nước ta có 216.357 cơ sở sản xuất, kinh doanh (tăng 1,45 lần so với năm 2011) thu hút trên 672.000 lao động, bao gồm 2.141 doanh nghiệp, 715 hợp tác xã, 712 tổ hợp tác và trên 212.700 hộ gia đình. Khả năng giải quyết việc làm trong làng nghề đang còn rất lớn. Dưới đây, xin đề cập một số công việc cụ thể mà làng nghề chúng ta có thể thực hiện, góp phần tạo việc làm cho lao động nông thôn.

Theo các nhà nghiên cứu, làng nghề nước ta gồm những ngành nghề rất phong phú, chủ yếu là: (i) Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, như gốm sứ mỹ nghệ, sơn mài, thêu, ren, thảm; khảm, chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, chạm mạ vàng bạc; dệt tơ tằm, thổ cẩm; mây tre đan... (ii) Các ngành nghề sản xuất công cụ sản xuất, như: Rèn sắt, làm cày bừa, nông cụ, đóng thuyền... (iii) Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu dùng thông thường như: dệt chiếu, làm nón, đan mành, rổ rá, sọt, bồ, bện thừng, chạo, dệt vải, may mặc... (iv) Các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống, như nề, mộc, hàn, đúc đồng, gang, sản xuất vật liệu xây dựng,... (v) Các ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm, như xay xát, làm bún bánh, đường, mật, làm tương, đậu phụ, nấu rượu, chế biến hải sản các loại.

Xin nhấn mạnh thêm về mặt hàng thủ công mỹ nghệ là nhóm sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao. Theo thống kê của Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, cứ 1 triệu USD xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ mang lại lợi nhuận gấp 5-10 lần so với ngành khai thác; giải quyết việc làm từ 3 - 5 nghìn lao động. Hiện nay, mặt hàng này xuất khẩu khoảng 2,2 tỷ USD/năm và thuộc nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam, trong đó, Mỹ là thị trường lớn nhất chiếm 35% tổng kim ngạch. Mục tiêu đề ra về kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2025 là 4 tỷ USD, năm 2030 là 6 tỷ USD.

Dưới đây, xin kiến nghị một số công việc cần được các làng nghề triển khai ở các địa phương, đáp ứng nhu cầu tạo việc làm đồng thời tăng năng suất lao động cho lao động nông thôn trong giai đoạn hiện nay.

Một là, tích cực tham gia tạo nghề, “cấy” nghề ở các địa phương chưa có nghề, qua đó, phát triển ngành nghề sản xuất, kinh doanh các sản phẩm làng nghề hết sức phong phú như đã nói trên. Đương nhiên, việc xác định ngành nghề cụ thể phải dựa trên nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế về truyền thống, phong tục, tập quán, trình độ, kiến thức của người lao động mỗi địa phương;

Hai là, mở rộng các hình thức đào tạo nghề cho những lao động chưa có nghề, như: Tập huấn, tổ chức các lớp dạy nghề tại tại trường của địa phương hoặc tại các lớp do làng nghề tổ chức, do các nghệ nhân hướng dẫn..., thông qua các hình thức du nhập, học tập, phổ biến, nhân rộng từ các mô hình, làng nghề, làng nghề truyền thống đang hoạt động có hiệu quả. Phương thức đào tạo cần thiết thực, hiệu quả, có thể miễn phí hoặc trợ giúp phí đào tạo.

Ba là, giúp người lao động đã có nghề vào làm việc tại các cơ sở hiện có hoặc khởi nghiệp, lập cơ sở mới. Số cơ sở sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp hiện còn quá ít, vừa về số lượng vừa về ngành nghề, vì vậy, tạo điều kiện cho người lao động khởi nghiệp là rất cần thiết, có thể từ quy mô hộ kinh doanh tiến lên doanh nghiệp. Có thể tổ chức các “vườn ươm” theo từng ngành nghề để hướng dẫn người lao động các bước thực hành trước khi chính thức khởi nghiệp. Điều quan trọng là khơi dậy sức sáng tạo của người lao động, khuyến khích, động viên họ bồi dưỡng thêm kiến thức và tạo điều kiện cho họ thử nghiệm, tạo thêm mẫu mã mới, sản phẩm mới.

Làm được như vậy, làng nghề có thể giúp người lao động chưa có nghề được đào tạo thành người có nghề cũng như người đã có nghề đều có thể vào làm việc tại các cơ sở làng nghề có sẵn hoặc thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới theo đúng chủ trương làm giàu ngay tại quê hương, không phải “tha phương cầu thực”, vừa bảo đảm thu nhập và đời sống của bản thân và gia đình, vừa góp phần xây dựng quê hương. Từ đó, quy mô làng nghề hiện có sẽ được mở rộng, làng nghề mới sẽ dần hình thành, mà quan trọng hơn, đó là tiếp tục phát huy tinh hoa văn hóa nghề thủ công trong xã hội ta.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn-Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ

LNV - Sáng 6/12, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì cuộc họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ lần thứ 5.
Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

Giải pháp phát triển thủ công mỹ nghệ bền vững

LNV - Dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngành thủ công, mỹ nghệ Việt Nam vẫn có thể vươn lên khi thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ đô la vào năm 2025 và 6 tỉ đô la vào năm 2030 theo Quyết định đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

Một số nghề thủ công truyền thống của người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình

LNV - Nghề thủ công truyền thống của các tộc người là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc, qua việc nghiên cứu cũng chính là sự bảo lưu và phát triển bản sắc văn hóa của họ trong cuộc sống hiện đại, đồng thời cũng là sự thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất những giá trị nhân văn cùng những tinh hoa của văn hóa tộc người, đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong đó có các nghề thủ công truyền thống của người Mường Tân Lạc - Hòa Bình.
Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

Cần đa dạng mẫu mã sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

LNV - Ngay từ năm 1958, sản phẩm thủ công của các làng nghề đã được chọn làm mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Trong suốt thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, thị trường xuất khẩu của sản phẩm thủ công chỉ bó hẹp trong các nước Xã hội chủ nghĩa. Đến thời kỳ đổi mới và gỡ bỏ cấm vận, các sản phẩm thủ công mới có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận với các nước Âu, Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công tăng lên nhanh chóng, và nhiều chủng loại mặt hàng mới cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Cần sự gắn kết giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm, mẫu bao bì và xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có hơn 5.000 làng nghề và làng có nghề, thu hút gần 10 triệu lao động, mang lại giá trị xuất khẩu hơn 1,7 tỷ USD/năm. Những con số trên cho thấy sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề đã mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng đất nước, an sinh xã hội và nâng cao đời sống cho nhân dân.

Tin khác

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

Vì sao ô nhiễm môi trường làng nghề chưa được giải quyết triệt để?

LNV - Dù chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề cơ bản đầy đủ song tình trạng ô nhiễm môi trường tại khu vực này vẫn chưa được giải quyết, gây ra nhiều hệ lụy.
Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

Làng nghề Bát Tràng là thành viên mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu

LNV - Ngày 21/10, Hội đồng giám khảo quốc tế của Hội đồng Thủ công Thế giới đã có dịp gặp gỡ nhiều nghệ nhân nổi tiếng và thăm quan các di chỉ gốm tại làng Bát Tràng. Qua những trải nghiệm ấy, Hội đồng giám khảo quốc tế, Hội đồng Thủ công Thế giới đã xem xét công nhận làng nghề Bát Tràng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo toàn cầu.
Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

LNV - Thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1,007 tỷ USD vào năm 2023, và hướng đến con số 1,107 tỷ USD vào năm 2024 và 2,394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN), nhờ sự đa dạng ngành nghề và giàu tài nguyên.
Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Bình Định triển khai Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp”

Bình Định triển khai Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp”

LNV - Thực hiện Quyết định số 897, ngày 26/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình “Hỗ trợ Thanh niên khởi nghiệp” giai đoạn 2022 - 2030, UBND tỉnh Bình Định vừa ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệ
Quảng Ngãi: Đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP đạt 4, 5 sao

Quảng Ngãi: Đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP đạt 4, 5 sao

LNV - Ngày 25/12, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Trần Phước Hiền chủ trì cuộc họp Hội đồng đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP có tiềm năng đạt 4, 5 sao năm 2024.
Phú Yên: Phục hồi và phát triển Làng nghề bánh tráng Long Bình

Phú Yên: Phục hồi và phát triển Làng nghề bánh tráng Long Bình

LNV - Làng nghề bánh tráng Long Bình, ở khu phố Long Bình, thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân là một trong ba làng nghề truyền thống được UBND tỉnh Phú Yên hỗ trợ về vốn đầu tư, đào tạo nghề, tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm tạo điều kiện cho Làng nghề đ
Hội Nhà văn Hà Nội: Tổng kết công tác năm, trao giải thưởng văn học và kết nạp hội viên mới 2024

Hội Nhà văn Hà Nội: Tổng kết công tác năm, trao giải thưởng văn học và kết nạp hội viên mới 2024

LNV - Sáng 25/12/2024, tại Nhà Văn hóa quận Đống Đa, Hội Nhà văn Hà Nội long trọng tổ chức Lễ tổng kết công tác năm và trao giải thưởng văn học Thủ đô; trao quyết định kết nạp hội viên mới của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2024.
Quận Cầu Giấy (Hà Nội): Vươn mình trong kỷ nguyên mới

Quận Cầu Giấy (Hà Nội): Vươn mình trong kỷ nguyên mới

LNV - Năm 2024, quận Cầu Giấy tiếp tục ghi nhận những bước phát triển đồng bộ và toàn diện trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, tài chính - ngân sách, văn minh đô thị. Vượt qua khó khăn, quận Cầu Giấy khẳng định vai trò là một trong
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
Giao diện di động