Hà Nội: 25°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Làng nghề và việc làm ở nông thôn

LNV - Trong quá trình công nghiệp hóa, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang một nước công nghiệp phát triển, tất yếu phải chuyển dịch cơ cấu lao động của nền kinh tế theo hướng tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống; Tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Trong quá trình này, làng nghề chúng ta có thể góp một phần quan trọng.
Việc làm và năng suất lao động

Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để có thể đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và việc làm năm 2019, số dân nước ta năm đó là 96.208.984 người (theo Liên hợp quốc, đến tháng 8/2022, dân số nước ta đã là 99.066.469 người), trong đó số dân sống ở nông thôn chiếm 65,6% . Đến những năm 2021-2022, số dân sống ở nông thôn tuy có giảm, song vẫn còn chiếm tới 62,9% tổng dân số cả nước. Như vậy, việc làm cho khu vực nông thôn là rất cấp bách.

Về lý luận, thị trường lao động bền vững gồm sáu yếu tố: (i) Cơ hội người lao động có việc làm; (ii) Điều kiện làm việc; (iii) Năng suất lao động; (iv) Bình đẳng; (v) An toàn tại nơi làm việc; (vi) Thu nhập thỏa đáng và bảo đảm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Trong bài viết này, chỉ xin đề cập hai nhóm vấn đề cần được quan tâm: Một là giải quyết việc làm cho lao động nông thôn; Hai là nâng cao chất lượng nguồn lao động, cũng tức là nâng cao năng suất lao động.


1.Tình trạng thiếu việc làm trong khu vực nông thôn có thể do nhiều nguyên nhân. (i) Phần lớn nông dân nước ta lâu nay chỉ quen nghề nông, không có hoặc có rất ít sự hiểu biết về các ngành nghề phi nông nghiệp; Trong khi đó, vùng đồng bằng, trung du hầu hết đều ở vào tình trạng “đất chật, người đông”, diện tích đất canh tác tính theo đầu người rất thấp; dẫn tình trạng lao động nông thôn không đủ việc làm; thời kỳ “nông nhàn” trong năm rất dài. (ii) Tác động của quá trình công nghiệp hóa: một mặt tạo ra thêm những việc làm mới trong lĩnh vực phi nông nghiệp, nhưng mặt khác, do yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, cho nên lao động nông thôn không qua đào tạo càng khó tìm kiếm được việc làm.

Rõ ràng là tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm trong lao động nông thôn dã trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội cần được giải quyết kịp thời, tránh gây ra mất ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn đang chiếm tới gần 70% dân số cả nước này.

2. Tiếp theo, xin dề cập vấn đề năng suất lao động, bởi vì giải quyết việc làm không chỉ là tìm được việc làm cho người lao động, mà còn cần xem việc đó làm ra bao nhiêu của cải cho xã hội, cũng tức là chất lượng lao động và năng suất lao động. Trong bối cảnh hội nhập sâu sắc, lao động di chuyển tự do, cách mạng 4.0 với những tác động nhanh, nhạy của thế giới ngày nay, nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành sự đòi hỏi gay gắt của cả xã hội, của mọi ngành, của các doanh nghiệp.


Đối với nước ta, trải qua những năm đổi mới đến nay, tuy nền kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng, song nhìn chung, việc chuyển dịch cơ cấu lao động có nhiều khó khăn. Lao động nông thôn đông, nhưng so với thành thị thì còn kém về học vấn, trình độ tiếp thu khoa học kỹ thuật, v.v...Đó chính là một nguyên nhân chủ yếu làm cho năng suất lao động nước ta còn quá thấp. Điều này rất quan trọng, vì năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm được người lao động sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, phản ánh năng lực tạo ra của cải của người lao động. Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của một tổ chức, một đơn vị sản xuất hay của một phương thức lao động, một xã hội, là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo ước tính của Tổ chức Lao động thế giới (ILO), năng năng suất lao động bình quân của Việt Nam năm 2019 mới đạt mức 117,94 triệu đồng, tương đương khoảng 5.081 USD/lao động, thấp hơn 26 lần so với Singapore, 7 lần so với Malaysia, 4 lần so với Tung Quốc, 2 lần so với Philippines, 3 lần so với Thái Lan. Báo cáo năm 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cũng cho thấy, năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm.

Từ kinh nghiệm của các nước, có thể thấy rõ để tăng năng suất lao động, cần thực hiện hàng loạt giải pháp như: (i) Đẩy mạnh cải cách thể chế theo hướng hiện đại; Xây dựng Chính phủ kiến tạo, hành động, Chính phủ xanh, Chính phủ số; (ii) Gia tăng quy mô nền kinh tế (quy mô GDP), duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, gia tăng những ngành/lĩnh vực có giá trị gia tăng cao (công nghiệp và dịch vụ); (iii) Tạo ra nhiều việc làm và đảm bảo toàn dụng lao động; Đẩy mạnh thực hiện Chương trình OCOP; (iv) Hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp minh bạch, thuận lợi...

Mở rộng cánh cửa việc làm

Theo điều tra của Bộ NN&PTNT, năm 2020, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở khu vực nông thôn bình quân là 2,94% (cả nước là 2,52%). Ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn thì tỷ lệ này còn cao hơn bình quân chung (có thể lên đến 20% hoặc cao hơn). Trong khi đó, hằng năm cả nước vẫn có khoảng 1,0-1,5 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động mà chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn. Cùng với tốc độ đô thị hóa cao, bình quân diện tích sản xuất nông nghiệp tính theo đầu người thấp dần, tạo ra áp lực về việc làm ngày càng nặng nề, dẫn đến nhiều lao động nông thôn phải di chuyển ra thành phố và các khu công nghiệp hoặc ra nước ngoài kiếm việc làm, tạo ra những khó khăn nhất định cho quản lý xã hội. Trước tình hình đó, rất cần tạo việc làm cho lao động nông thôn ngay trong khu vực nông thôn, giúp cho người nông dân có thể có việc làm, có thu nhập, làm giàu ngay trên quê hương mình.

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao: theo tiêu chí của Liên hợp quốc, GDP bình quân đầu người phải đạt trên 12.535 USD/năm, trong khi đó năm 2020, thu nhập bình quân đầu người mới đạt 2.779 USD, vẫn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 27/8/222). Như vậy, phải đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà một nội dung chủ yếu là thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu lao dộng xã hội. Ở các nước phát triển, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp chỉ là 5-7% trong tổng dân số, thậm chí chỉ là 3-5%; trong khi đó, tỷ lệ này ở nước ta năm 2020 còn chiếm tới 34,78% (công nghiệp và xây dựng chiếm 32,65%; Thương mại và dịch vụ chiếm 32,57%). Vì vậy, phải chuyển dịch mạnh hơn nữa lực lượng lao động ra khỏi nông nghiệp, tạo nhiều việc làm phi nông nghiệp cho họ, đồng thời cũng nhằm góp phần tăng năng suất lao động của nước ta.

Hiện nay, hệ thống công nghiệp nông thôn đang bao gồm các ngành nghề như: (i) Chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; (ii) Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; (iii) Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; (iv) Sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ; (v) Sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh...

Hệ thống doanh nghiệp đó đang phát triển với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; Với tinh thần xuyên suốt là một tổng thể gắn bó, liên kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bình đẳng, tạo nên năng lực cạnh tranh của đất nước. Mục tiêu đề ra là có 1,3 - 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025, trong đó có 15 - 20 doanh nghiệp tư nhân có vốn hóa đạt trên 1 tỷ USD. Với khoảng 810.000 doanh nghiệp tính đến năm 2020, để đạt mục tiêu trên, tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp trong 5 năm tới phải đạt 12 - 14%/năm, tính ra mỗi năm sẽ có thêm 100.000 - 150.000 doanh nghiệp. Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP hiện nay khoảng 55%; Đến năm 2030, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP phải đạt 60 - 65%; Cùng với 810.000 doanh nghiệp, còn có khoảng 5,4 triệu hộ kinh doanh, mà theo quan điểm của thế giới "bất cứ cá nhân nào có hoạt động đầu tư, kinh doanh có mục đích tìm kiếm lợi nhuận đều được coi là doanh nghiệp” thì trong số này, đã có khá nhiều doanh nghiệp. Hơn nữa, theo các số liệu thống kê, hơn 800.000 DN chỉ đóng góp 10% GDP, trong khi khu vực hộ kinh doanh đóng góp tới 30% GDP. Như vậy, tiềm năng phát triển doanh nghiệp, thu hút lao động còn rất lớn.

Trong thời gian tới, để cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo diều kiện cho phát triển doanh nghiệp, cần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc mà cộng đồng doanh nghiệp thường gặp, tập trung vào cải cách hành chính: Tiếp tục cải tiến thủ tục thuế, hải quan, tiếp cận đất đai, thanh tra, kiểm tra, môi trường... Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước gắn với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công khai, minh bạch hoạt động công vụ; Đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu. Tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ; phát triển các tổ chức và thiết chế hỗ trợ phát triển thị trường khoa học và công nghệ...

Xuất khẩu lao động được xem là một giải pháp tích cực trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững cho khu vực nông thôn. Đến nay, cả nước có hơn 600.000 lao động đang làm việc tại 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, mỗi năm chuyển về gần 4 tỷ USD. Thế nhưng, vẫn còn nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ, đó là: Chất lượng lao động đi làm việc; Bài toán sinh kế sau khi họ về nước; Tình trạng lao động cư trú bất hợp pháp. Thời gian tới, cần chấm dứt việc đưa lao động phổ thông đi làm ở nước ngoài, chỉ đưa đi số lao động tay nghề cao có thể tiếp cận khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý để sau này trở về phục vụ đất nước. Điều này cũng rất phù hợp khi cuộc đua thu hút lao động có tay nghề cao ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á - Thái Bình Dương đang nóng lên trong bối cảnh khu vực đang phải đối mặt với tình cảnh thiếu lao động, dân số già và cạnh tranh toàn cầu gia tăng. Công tác quản lý Nhà nước cần được tăng cường, khắc phục những tiêu cực như tệ nạn lừa đảo, buôn người, “việc nhẹ, lương cao”, đi chui, gây ra những thảm cảnh đau lòng đã xảy ra lâu nay.

Đóng góp của Làng nghề

Có thể khẳng định rằng ngành nghề thủ công trong làng nghề chúng ta rất phong phú; tiềm năng giải quyết việc làm còn rất rộng rãi. Thực tế cho thấy làng nghề có thể đóng góp vào toàn bộ quá trình tạo việc làm cho lao động nông thôn, thực hiện cuộc chuyển dịch cơ cấu lao động và góp phần tăng năng suất lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta.

Xin được nhấn mạnh thêm rằng, trên thế giới, trong quá trình công nghiệp hóa, các nước đều rất coi trọng khu vực nông thôn. Đó là vì khu vực này thường chiếm một diện tích và số dân đáng kể của mỗi quốc gia, đồng thời là cái nôi về văn hóa và kinh tế của mỗi đất nước, nhưng lại thường là khu vực tập trung những người nghèo khổ nhất. Công cuộc công nghiệp. phát triển đô thị đang kéo theo sự phân hóa giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, cũng đồng thời làm lu mờ bản sắc văn hóa, lối sống của cộng đồng dân cư nông thôn và của cả quốc gia. Chính vì vây, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia đều đã quan tâm phát triển khu vực nông thôn, xây dựng những chương trình, kế hoạch như “Mỗi làng một sản phẩm” mà trọng tâm là phát triển các nghề phi nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Đối với nước ta, nông thôn đã thể hiện rất rõ vai trò “bệ đỡ” cho nền kinh tế; Mỗi khi có biến động, như tác động của đại dịch Covid-19 vừa qua, nông thôn là nơi tiếp nhận và thu xếp việc làm cho số lao động các đô thị mất việc trở về; kết quả rất khả quan.

Cho đến năm 2020, theo Bộ NN&PTNT, làng nghề nước ta có 216.357 cơ sở sản xuất, kinh doanh (tăng 1,45 lần so với năm 2011) thu hút trên 672.000 lao động, bao gồm 2.141 doanh nghiệp, 715 hợp tác xã, 712 tổ hợp tác và trên 212.700 hộ gia đình. Khả năng giải quyết việc làm trong làng nghề đang còn rất lớn. Dưới đây, xin đề cập một số công việc cụ thể mà làng nghề chúng ta có thể thực hiện, góp phần tạo việc làm cho lao động nông thôn.

Theo các nhà nghiên cứu, làng nghề nước ta gồm những ngành nghề rất phong phú, chủ yếu là: (i) Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, như gốm sứ mỹ nghệ, sơn mài, thêu, ren, thảm; khảm, chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, chạm mạ vàng bạc; dệt tơ tằm, thổ cẩm; mây tre đan... (ii) Các ngành nghề sản xuất công cụ sản xuất, như: Rèn sắt, làm cày bừa, nông cụ, đóng thuyền... (iii) Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu dùng thông thường như: dệt chiếu, làm nón, đan mành, rổ rá, sọt, bồ, bện thừng, chạo, dệt vải, may mặc... (iv) Các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống, như nề, mộc, hàn, đúc đồng, gang, sản xuất vật liệu xây dựng,... (v) Các ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm, như xay xát, làm bún bánh, đường, mật, làm tương, đậu phụ, nấu rượu, chế biến hải sản các loại.

Xin nhấn mạnh thêm về mặt hàng thủ công mỹ nghệ là nhóm sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao. Theo thống kê của Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, cứ 1 triệu USD xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ mang lại lợi nhuận gấp 5-10 lần so với ngành khai thác; giải quyết việc làm từ 3 - 5 nghìn lao động. Hiện nay, mặt hàng này xuất khẩu khoảng 2,2 tỷ USD/năm và thuộc nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam, trong đó, Mỹ là thị trường lớn nhất chiếm 35% tổng kim ngạch. Mục tiêu đề ra về kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2025 là 4 tỷ USD, năm 2030 là 6 tỷ USD.

Dưới đây, xin kiến nghị một số công việc cần được các làng nghề triển khai ở các địa phương, đáp ứng nhu cầu tạo việc làm đồng thời tăng năng suất lao động cho lao động nông thôn trong giai đoạn hiện nay.

Một là, tích cực tham gia tạo nghề, “cấy” nghề ở các địa phương chưa có nghề, qua đó, phát triển ngành nghề sản xuất, kinh doanh các sản phẩm làng nghề hết sức phong phú như đã nói trên. Đương nhiên, việc xác định ngành nghề cụ thể phải dựa trên nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế về truyền thống, phong tục, tập quán, trình độ, kiến thức của người lao động mỗi địa phương;

Hai là, mở rộng các hình thức đào tạo nghề cho những lao động chưa có nghề, như: Tập huấn, tổ chức các lớp dạy nghề tại tại trường của địa phương hoặc tại các lớp do làng nghề tổ chức, do các nghệ nhân hướng dẫn..., thông qua các hình thức du nhập, học tập, phổ biến, nhân rộng từ các mô hình, làng nghề, làng nghề truyền thống đang hoạt động có hiệu quả. Phương thức đào tạo cần thiết thực, hiệu quả, có thể miễn phí hoặc trợ giúp phí đào tạo.

Ba là, giúp người lao động đã có nghề vào làm việc tại các cơ sở hiện có hoặc khởi nghiệp, lập cơ sở mới. Số cơ sở sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp hiện còn quá ít, vừa về số lượng vừa về ngành nghề, vì vậy, tạo điều kiện cho người lao động khởi nghiệp là rất cần thiết, có thể từ quy mô hộ kinh doanh tiến lên doanh nghiệp. Có thể tổ chức các “vườn ươm” theo từng ngành nghề để hướng dẫn người lao động các bước thực hành trước khi chính thức khởi nghiệp. Điều quan trọng là khơi dậy sức sáng tạo của người lao động, khuyến khích, động viên họ bồi dưỡng thêm kiến thức và tạo điều kiện cho họ thử nghiệm, tạo thêm mẫu mã mới, sản phẩm mới.

Làm được như vậy, làng nghề có thể giúp người lao động chưa có nghề được đào tạo thành người có nghề cũng như người đã có nghề đều có thể vào làm việc tại các cơ sở làng nghề có sẵn hoặc thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới theo đúng chủ trương làm giàu ngay tại quê hương, không phải “tha phương cầu thực”, vừa bảo đảm thu nhập và đời sống của bản thân và gia đình, vừa góp phần xây dựng quê hương. Từ đó, quy mô làng nghề hiện có sẽ được mở rộng, làng nghề mới sẽ dần hình thành, mà quan trọng hơn, đó là tiếp tục phát huy tinh hoa văn hóa nghề thủ công trong xã hội ta.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn-Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

LNV - Khuyến công gắn với định hướng phát triển kinh tế – xã hội Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Bà Rịa – Vũng Tàu xác định công nghiệp là trụ cột chủ lực, chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch cơ cấu từ khai khoáng san
Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

LNV - Trường THCS Nguyễn Trường Tộ là ngôi trường thuộc TOP trường THCS chất lượng tốt ở Hà Nội. Để đạt được những thành tích đáng tự hào ấy, Trường THCS Nguyễn Trường Tộ luôn chú trọng đổi mới việc dạy và học với phương châm ”Lấy học sinh làm trung tâm”,
Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

LNV - Những ngày này, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hải Phòng đang tất bật chuẩn bị cho Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc. Năm nay, lễ hội mang ý nghĩa đặc biệt hơn khi Đền Kiếp Bạc và Chùa Côn Sơn nằm trong quần thể di tích, danh thắng được UNESCO côn
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm g
Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

LNV - Nằm ở vùng trung du giàu truyền thống cách mạng, xã Hoàng Vân (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh) không chỉ được biết đến bởi những dấu ấn lịch sử, mà còn nổi bật với một loại cây đặc sản mang lại giá trị kinh tế cao: trám đen. Cứ vào độ cuối tháng 6 đế
Giao diện di động