Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 27°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 26°C Thừa Thiên Huế

Làng nghề khai thác các hiệp định thương mại tự do

LNV - Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với nhiều nước trên thế giới. Trong tình hình mới, thực hiện chủ trương “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” do Chính phủ đề ra, các cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề cần tìm hiểu thuận lợi và khó khăn trong các hiệp định, khai thác tối đa các thuận lợi để bổ sung nguồn lực cho làng nghề chúng ta.
Những thị trường mới mang lại nhiều triển vọng

Cho đến nay, đã có 14 hiệp định thương mại tự do (FTA) được nước ta ký kết với các nước trên thế giới và đã có hiệu lực. FTA có nghĩa là hiệp định về “khu vực mậu dịch tự do”, là một hình thức xóa bỏ những rào cản thuế quan nhằm liên kết, xây dựng và hình thành thị trường thống nhất về cả hàng hóa lẫn các loại dịch vụ, tạo nền tảng kết nối và phát triển kinh tế khu vực. Đối với nước ta, việc đàm phán và thực thi các Hiệp định này cũng gửi đi một thông điệp về quyết tâm của Việt Nam trong việc thúc đẩy sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới trong bối cảnh tình hình kinh tế địa chính trị đang có nhiều diễn biến phức tạp và khó đoán định.

Trong các FTA, ngoài thương mại, còn có một số nội dung khác như: Đầu tư, lao động... Dưới đây, xin giới thiệu tóm tắt về thương mại trong những FTA quan trọng nhất (theo các thông tin đăng trên sách, báo).


Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện Khu vực (RCEP). RCEP là hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới hiện nay, bao gồm 15 quốc gia (10 quốc gia thành viên ASEAN và 5 đối tác là Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, New Zealand và Hàn Quốc), một thị trường khổng lồ với 2,2 tỷ người chiếm 30% dân số thế giới, với GDP 27.000 tỷ USD chiếm 30% GDP toàn cầu. Hiệp định RCEP đã kết thúc đàm phán vào tháng 11/2020 và hy vọng các nước tham gia sẽ ký kết và có hiệu lực vào đầu năm 2022. Theo các chuyên gia, việc hình thành RCEP sẽ là khuôn khổ ràng buộc pháp lý về nhiều lĩnh vực như thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp..., góp phần tạo nên môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Với Việt Nam, Hiệp định RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định trong dài hạn, đặc biệt là đối với nhiều loại hàng Việt Nam có thế mạnh như: Sản phẩm điện tử, dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến; Dịch vụ logistics, viễn thông.

“Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình dương” (CPTPP). Hiệp định này gồm 11 nước thành viên là: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. CPTPP chiếm 15% GDP và 15% giá trị thương mại toàn cầu. Hiệp định đã được ký kết ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại Chile; Đối với Việt Nam, Hiệp định có hiệu lực từ ngày 14/01/2019.

Theo CPTPP, việc các nước, trong đó có các thị trường lớn như Nhật Bản, Canada và Australia giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa của Việt Nam sẽ tác động tích cực thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu nước ta. Các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của ta như nông thủy sản, điện, điện tử đều được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Tham gia CPTPP sẽ giúp tăng năng suất lao động, giảm dần việc gia công lắp ráp, tham gia vào các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn; Các ngành dự kiến có mức tăng trưởng lớn sẽ là thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, hóa chất, sản phẩm nhựa và đồ da, trang thiết bị vận tải, máy móc và một số trang thiết bị khác.

Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) có hiệu lực từ tháng 6/2020 với 27 nước châu Âu (EU). EVFTA sẽ giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng Việt Nam vốn có nhiều lợi thế cạnh tranh. Cùng với EVFTA, còn có Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA) với EU, bao gồm nội dung bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp đầu tư sẽ góp phần thu hút nhiều nhà đầu tư hơn đến từ EU. Hiện nay, EU liên tục là một trong hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của ta. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU là giày dép; Hàng dệt may; Thủy sản; Cà phê, hạt điều; Đồ gỗ; Máy vi tính, điện thoại và các loại và linh kiện; Túi xách, ví, vali; Mũ và ô dù; Sản phẩm từ thép; Phương tiện vận tải và phụ tùng; Máy móc, thiết bị. Sau một thời gian, gần 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu; Đây là mức cam kết cao nhất mà một đối tác dành cho ta trong các hiệp định FTA đã được ký kết.
Trên đây là những điểm chính về thương mại trong ba FTA quan trọng nhất cho đến nay. Có thể rút ra hai nhận xét sau đây.


Một là, bằng việc giảm mạnh thuế suất nhập khẩu, các FTA đã tạo thuận lợi rất lớn cho hàng Việt Nam, trong đó có sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề mở rộng xuất khẩu. Ví dụ như với EVFTA, ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 07 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.

Hai là, về quy tắc xuất xứ. Trước khi RCEP có hiệu lực, Việt Nam nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc để sản xuất hàng dệt may, da giày xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc không được hưởng ưu đãi thuế quan; Tương tự như Việt Nam nhập khẩu nguyên vật liệu từ Hàn Quốc, Nhật Bản về sản xuất hàng xuất khẩu sang Trung Quốc. Nhưng khi thực thi RCEP, thì toàn bộ hàng hóa có nguồn gốc nguyên vật liệu từ các thành viên đều được hưởng mức thuế ưu đãi 0%, cũng có nghĩa là thỏa mãn quy tắc xuất xứ nội khối để tận dụng được ưu đãi thuế quan, mang lại lợi thế rất lớn cho các mặt hàng này.

Đương nhiên, khi thực hiện các FTA, hàng hóa xuất khẩu của làng nghề chúng ta cũng không chỉ có thuận lợi, mà sẽ phải đối phó với sự cạnh tranh gay gắt từ hai phía: (i) Các nước sẽ thực hiện các hàng rào phi thuế quan để bảo hộ hàng hóa nội địa của họ; (ii) Những nước có hàng thủ công đồng dạng với nước ta sẽ tìm mọi cách để cạnh tranh với chúng ta.

Biện pháp chủ yếu: Nâng cao sức cạnh tranh

Trong tình hình mới, để khai thác có hiệu quả các thị trường trong FTA, biện pháp chủ yếu là các làng nghề phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng thủ công xuất khẩu, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ. Quan điểm xuyên suốt là thể hiện các giá trị văn hóa truyền thống của làng nghề với sức sáng tạo vô tận của nghề thủ công nước ta, coi đây là cội nguồn và niềm tự hào tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề chúng ta.

Trong khi thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Chính phủ số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 ban hành Quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, vừa chống dịch, vừa từng bước khôi phục và phát triển sản xuất, các cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề cần triển khai các hoạt động trên các mặt. (i) Trước hết là nghiên cứu các FTA, tìm hiểu sâu các quy định, qua đó phân tích những thuận lợi, khó khăn đối với các mặt hàng của cơ sở và đề ra các biện pháp xử lý phù hợp; Nhất là trong tình hình mới, các nước đều yêu cầu sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường; (ii) Thực hiện đồng bộ các biện pháp: Cơ cấu lại sản phẩm; Tăng cường khâu thiết kế; Tổ chức lại sản xuất và tiêu thụ theo chuỗi giá trị; Nâng cao kiến thức cho đội ngũ lao động, nhất là nghệ nhân; Khắc phục ô nhiễm môi trường... trên nền tảng ứng dụng từng bước công nghệ 4.0. Đó là những biện pháp lâu nay đã được đề cập, nay cần thực hiện hiệu quả hơn với những đột phá mới. Thời gian qua, đã có những cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề trong cả nước chuyển hướng kịp thời, đạt được nhiều kết quả rất đáng biểu dương.

Dưới đây, để khai thác hiệu quả các FTA, xin nhấn mạnh thêm về hai vấn đề đang được đặt ra trong tình hình mới cần được các làng nghề quan tâm.

Tìm hiểu về văn hóa tiêu dùng của các nước đối tác. Trong điều kiện bình thường, văn hóa tiêu dùng của mỗi nước vẫn là một nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ đến chiến lược kinh doanh của cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề chúng ta, đặc biệt là bốn chính sách: Chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phân phối và chính sách xúc tiến thương mại. Ngày nay, do tác động của đại dịch Covid-19, nhiều vấn đề đang cần những nhận thức mới, trong đó có văn hóa tiêu dùng của các nước đối tác. Khi thực hiện các hiệp định thương mại FTA, lại càng cần quan tâm nghiên cứu sâu hơn nữa văn hóa tiêu dùng của từng đối tác trong hiệp định.

Theo các chuyên gia, văn hóa tiêu dùng là một thành tố của văn hóa nói chung, bao gồm tổng thể các yếu tố triết lý, giá trị, chuẩn mực, tâm lý tiêu dùng, biểu hiện qua hành vi tiêu dùng của cá nhân, nhóm, cộng đồng nhất định. Nghiên cứu văn hóa tiêu dùng tức là nghiên cứu tâm lý, thị hiếu, thói quen tiêu dùng, phương thức thanh toán của người tiêu dùng đối với các sản phẩm tiêu dùng. Nghiên cứu văn hóa tiêu dùng là một khâu quan trọng trong nghiên cứu thị trường, giúp các cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề đưa ra các sản phẩm phù hợp với sở thích cá nhân, nhóm xã hội và bản sắc văn hóa của dân tộc các FTA, nhằm thu được lợi nhuận cao và kinh doanh bền vững.

Xin nêu một ví dụ. Theo các nhà nghiên cứu, do mức sinh hoạt cao, nên đa số người tiêu dùng Nhật Bản đặt yêu cầu cao về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng khi mua sắm; chú trọng dịch vụ hậu mãi. Người Nhật thích nhưng sản phẩm nhỏ, xinh xắn hơn là những thứ cồng kềnh;Thích gam màu nhẹ nhàng, thanh lịch. Họ sẵn sàng trả tiền nhiều cho một món hàng mà mình ưa thích, nhưng lại yêu cầu sự đa dạng về chủng loại, mẫu mã sản phẩm, những sản phẩm có thương hiệu.

Thực hiện tăng trưởng xanh, lối sống xanh. Ngày 1/10/2021, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050”. Đây là một chủ trương mới rất quan trọng phù hợp với xu hướng chung của thế giới và đòi hỏi của các FTA.

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; Hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu; Góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người.

Đối với các ngành kinh tế, Chiến lược đặt ra mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng bền vững để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát huy lợi thế cạnh tranh và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Đối với đời sống nhân dân, Chiến lược đặt mục tiêu xây dựng lối sống xanh kết hợp với nếp sống đẹp truyền thống để nâng cao chất lượng cuộc sống và khả năng chống chịu của người dân với biến đổi khí hậu. Thực hiện đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới bảo đảm tăng trưởng xanh, bền vững.

Thực hiện các FTA, đồng thời là triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề chúng ta cần đẩy mạnh các biện pháp phấn đấu nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng. Cần sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng trong nước và chuyển đổi cơ cấu nguồn năng lượng, giảm sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch (ví dụ dùng gaz thay than); Đẩy mạnh sử dụng có hiệu quả và tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Để bảo vệ môi trường, làng nghề cũng cần thay đổi thói quen sử dụng các sản phẩm nhựa: Thay thế túi nilông bằng túi giấy, túi vải; Thay thế các chai nước nhựa, hộp cơm, bát, đĩa, thìa, cốc nhựa… bằng các sản phẩm làm bằng thủy tinh hoặc sứ, hình thành lối sống xanh trong làng nghề văn hóa chúng ta.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Kỳ họp thứ 26 HĐND TP Hà Nội sẽ xem xét 26 nội dung, với nhiều dự án hạ tầng quy mô lớn

Kỳ họp thứ 26 HĐND TP Hà Nội sẽ xem xét 26 nội dung, với nhiều dự án hạ tầng quy mô lớn

LNV - Ngày 16-9, HĐND thành phố Hà Nội đã có Thông báo số 38/TB- HĐND về nội dung, thời gian và công tác chuẩn bị tổ chức kỳ họp thứ 26 (kỳ họp chuyên đề) của HĐND thành phố khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026.
Thủ tướng: Từ năm học 2026-2027 triển khai bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc

Thủ tướng: Từ năm học 2026-2027 triển khai bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc

LNV - Với những chỉ tiêu cụ thể: bảo đảm chi tối thiểu 5% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, trong đó 3% cho giáo dục đại học; xây dựng thêm 100 trường phổ thông dân tộc nội trú tại khu vực biên giới, miền núi; từ năm học 2026–2027 triển khai sách
Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

LNV - Thời gian qua, xã Chiêm Hóa (Tuyên Quang) đã có bước phát triển vượt bậc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thương mại – dịch vụ, tài chính – tín dụng, ứng dụng công nghệ số phát triển mạnh, góp phần nâng cao đời s
OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OVN - Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được xác định là một trong những giải pháp quan trọng giúp các địa phương phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng sẵn có, đồng thời xây dựng thương hiệu cho sản phẩm đặc trưng. Tại Phú Thọ, sau sáp nhập, tỉnh
Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

OVN - An Giang – vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc hùng vĩ của núi non, rừng tràm và những cánh đồng lúa bạt ngàn, mà còn lưu giữ trong mình kho tàng ẩm thực độc đáo. Giữa muôn vàn sản vật địa phương, nước mắm Huỳnh Khoa đư
Giao diện di động