Hà Nội: 22°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 32°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 22°C Thừa Thiên Huế

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Trong tiến trình lịch sử phát triển, làng nghề gốm truyền thống chịu tác động của xã hội, mọi biến chuyển của xã hội, của thời đại đều tác động ngược lại với nghề, không chỉ với cá nhân mà còn kéo theo cả tập thể nghề, tập thể làng. Đứng trước diễn biến phức tạp của những chuyển hóa mạnh của đô thị hóa, của cơ chế kinh tế thị trường, nên văn hóa, xã hội của làng nghề truyền thống cũng liên tục bị biến đổi theo. Văn hóa làng nghề mang những đặc trưng chung của một làng xã nông nghiệp, từ giai đoạn tự cung tự cấp, đến phát triển một số làng đi vào chuyên môn hóa. Tuy nhiên, dù ở đâu, ở thời điểm nào, các làng gốm vẫn chịu sự chi phối lớn của điều kiện tự nhiên, gồm:

Nguồn đất sét: Là thành phần chính để tạo ra gốm. Đất sét phải có chất lượng tốt và phù hợp để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Đất sét các làng miền Trung chủ yếu là dòng terracotta, thuộc nhánh đất sét thứ cấp, màu đất sét vàng, chịu được nhiệt độ nung 700- 10000C. Đất sét được các thợ gốm sử dụng để làm đồ gốm. Nó có thể là một nguồn tự nhiên như lòng sông hoặc mỏ đá gần đó, hoặc nó có thể được dự trữ sau khi được đào và xử lý. Trong nghề gốm truyền thống, đất sét các loại là tài nguyên quan trọng để tạo tác nên sản phẩm. Đất vùng Quảng Nam tạo nên gốm đỏ, đất vàng ở Phú Yên tạo nên gốm sứ Quảng Đức, đất ngà nâu ở Bình Thuận tạo nên gốm Bàu Trúc và Gốm Gọ, đất màu tro ở Thừa Thiên Huế tạo nên gốm Phước Tích, Mỹ Xuyên màu nâu sành. Chính nhờ những loại đất sét đa dạng nên sản phẩm gốm miền Trung hết sức phong phú và có giá trị phổ cập dân dụng cao. Đôi khi, các làng gốm cần sử dụng các nguyên liệu phụ trợ như gạch, cát, tro, quặng hoặc thạch anh để cải thiện độ bền và màu sắc của gốm.

Các sản phẩm của gốm Mỹ Thiện ở Quảng Ngãi chủ yếu là đồ gia dụng
Các sản phẩm của gốm Mỹ Thiện ở Quảng Ngãi chủ yếu là đồ gia dụng

Nguồn nước: Nước là yếu tố quan trọng để chế tạo gốm, đặc biệt là trong quá trình trộn và làm mềm đất sét. Việc các làng gốm nằm cạnh các con sông và nhiều ao hồ đã tạo ra nguồn nước dồi dào cho các làng gốm;

Bầu trời: Trong các làng gốm, công tác phơi khô sản phẩm là quan trọng, và tốn nhiều thời gian, các hộ và cơ sở sản xuất đều có những sân lớn để phơi và sản xuất sản phẩm, tạo nên những khoảng không bầu trời rất đặc trưng, và giá trị ở những làng gốm. Tại các cộng đồng dân cư, các hộ có thể chia sẻ và sử dụng chung sân phơi để tận dụng hiệu quả. khi cần thiết. Các làng gốm truyền thống thường thiếu các tiện nghi như điện và nước sinh hoạt, vì vậy điều quan trọng là tận dụng tối đa ánh sáng tự nhiên và lưu thông không khí để cải thiện môi trường sống của người dân. Trong đó thường chú trọng việc xây dựng các cửa sổ để đón ánh sáng và không khí trong lành;

Hệ thống sông hồ: Làng gốm đều ở cạnh sông để thuận tiện cho giao thông nên phụ thuộc dòng chảy. Yếu tố sông nước hết sức quan trọng trong nghề gốm ở tất cả các khâu. Việc khai thác đất phải dựa vào sông nước. Đây là điều kiện thuận lợi cho chuyên chở đất, sản phẩm gốm. Sông cũng là nơi cung cấp thủy sản phục vụ đời sống. Người làm gốm luôn gắn bó với sông nước, coi sông nước là chỗ dựa quan trọng cho nghề. Vì thế, một số LGTT đều có miếu thờ các vị thần sông nước.

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)
Gốm Mỹ Thiện có cốt từ đất sét.
Gốm Mỹ Thiện có cốt từ đất sét.

Giao thông, khoảng cách địa lý: Việc kết nối khoảng cách đến các trung tâm đô thị, các di sản văn hóa, điểm du lịch nổi tiếng là quan trọng, để từ đó thúc đẩy đầu ra cho sản phẩm gốm, thị trường tiêu thụ, liên kết nguồn nhân lực. Miền Trung hiện nay có lợi thế về số lượng di sản quốc gia và thế giới nên việc giao thông thuận tiện kết nối từ làng gốm đến các điểm du lịch, di sản văn hóa sẽ thuận lợi cho việc tổ chức tour, tuyến đến các điểm du lịch;

Không gian kiến trúc của làng gốm truyền thống phổ biến có diện tích hẹp, người đông, chật chội… nếu có chung không gian với các nghề thủ công truyền thống khác thì lại càng bất lợi, rất khó cho thao tác kỹ thuật và áp dụng công nghệ tiên tiến. Tuy vậy, làng gốm truyền thống đã tạo dựng được những cảnh quan sinh thái nhân văn của làng nghề gốm và còn kết hợp bảo tồn được cấu trúc không gian của làng cổ. Ngoài ra, các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể vẫn còn được bảo lưu gìn giữ tốt, lưu truyền từ đời này sang đời khác, đặc biệt là còn tồn tại được nếp sống, lối sống của người dân địa phương tạo thành nền tảng quan trọng cho phát triển du lịch. Các công trình kiến trúc cụ thể như đình, chùa, miếu, giếng, am, nhà ở, nhà thờ tộc, đường làng, cổng làng-cổng nhà… đều là các di sản văn hóa đặc biệt, hàng ngày đang có nguy cơ chịu sự va đập trực tiếp và sức ép của tinh thần đô thị hóa, hiện đại hóa. Di sản vật thể vốn đan xen tồn tại ngay cạnh từng bức tường nhà riêng, với lối đi của từng gia đình, từng thôn xóm và gắn bó mật thiết, là hình ảnh không thể thiếu khi nói đến một làng gốm truyền thống. Bên cạnh khối lượng lớn di sản vật thể, người dân là lực lượng sản sinh, sử dụng, bảo tồn và chính họ lại không ngừng bổ sung cái “Hồn” của làng gốm truyền thống. Trong thời đại mới hiện nay, trước nhu cầu hòa nhập, hiện đại hóa và đô thị hóa, làng nghề gốm truyền thống lại đang đứng trước thách thức tất yếu là muốn tiếp tục tồn tại thì phải phát triển, muốn phát triển thì lại phải quy hoạch không gian làng cho khoa học chỉn chu theo từng thực tế yêu cầu cụ thể. Như vậy, làng luôn luôn chấp nhận sự điều tiết, quy hoạch và coi đó là quy luật tất yếu của sự phát triển.

Từ những đặc trưng cơ bản của không gian, làng gốm truyền thống đặc biệt thích hợp và sẽ đáp ứng phù hợp với quy hoạch về không gian sinh thái nhân văn, về cấu trúc không gian làng cổ, bao gồm hệ thống di sản vật thể và về cả con người.

THS.KTS Nguyễn Văn Nguyên

Tin liên quan

Lễ hội Cầu ngư Vạn đầm Xương Lý nét văn hóa làng biển hòa nhịp cùng du lịch và nông thôn mới

Lễ hội Cầu ngư Vạn đầm Xương Lý nét văn hóa làng biển hòa nhịp cùng du lịch và nông thôn mới

LNV - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành Quyết định phê duyệt Dự án bảo tồn và phát huy giá trị Lễ hội Cầu ngư Vạn đầm Xương Lý (phường Quy Nhơn Đông, tỉnh Gia Lai) gắn với phát triển du lịch và xây dựng nông thôn mới. Đây là dấu mốc quan trọng trong hành trình gìn giữ di sản văn hóa biển của vùng đất từng gắn bó với nghề chài lưới qua bao thế hệ.
Di sản gốm Chăm Bàu Trúc: Bảo tồn để phát triển

Di sản gốm Chăm Bàu Trúc: Bảo tồn để phát triển

LNV - Nghệ thuật làm gốm của người Chăm ở làng Bàu Trúc (Ninh Thuận) đã được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp vào năm 2022. Đây không chỉ là niềm tự hào của cộng đồng Chăm mà còn là động lực để các cấp chính quyền, nghệ nhân và người dân địa phương cùng chung tay bảo tồn, phát huy giá trị di sản, từng bước đưa gốm Bàu Trúc vươn ra thị trường và trở thành điểm nhấn du lịch văn hóa độc đáo của vùng đất nắng gió.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.

Tin mới hơn

Sáng tạo đổi mới tư duy phát triển sản phẩm thủ công truyền thống đưa sản phẩm “made in Việt Nam” ra thế giới

Sáng tạo đổi mới tư duy phát triển sản phẩm thủ công truyền thống đưa sản phẩm “made in Việt Nam” ra thế giới

LNV - Việt Nam hiện có hàng trăm nghề thủ công khác nhau, hầu hết đều có truyền thống từ lâu đời, có những nghề đã phát triển từ mấy nghìn năm trước như đúc đồng, gốm, dệt, đan mây tre..., có những nghề phát triển rực rỡ trong khoảng 6, 7 thế kỷ nay như điêu khắc, thêu, chạm bạc, khảm trai…, cũng có những nghề mới hình thành từ mấy chục năm như ren, dệt thảm, hoa lụa ....
Cần một chiến lược tổng thể để ngành thủ công mỹ nghệ tỉnh Phú Thọ phát triển sau sáp nhập

Cần một chiến lược tổng thể để ngành thủ công mỹ nghệ tỉnh Phú Thọ phát triển sau sáp nhập

LNV - Sau khi thực hiện việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp xã và huyện theo Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của Chính phủ vào năm 2025, tỉnh Phú Thọ đã hình thành một hệ thống quản lý hành chính tinh gọn hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quy hoạch lại vùng nguyên liệu, phát triển sản xuất thủ công mỹ nghệ (TCMN) theo hướng bền vững và chuyên sâu.
Phong tặng các Danh hiệu Làng nghề Việt Nam: Tôn vinh tinh hoa nghề truyền thống, khuyến khích lao động sáng tạo

Phong tặng các Danh hiệu Làng nghề Việt Nam: Tôn vinh tinh hoa nghề truyền thống, khuyến khích lao động sáng tạo

LNV - Hiệp hội Làng nghề Việt Nam tổ chức phong tặng Danh hiệu Làng nghề Việt Nam lần thứ XII, dự kiến vào đầu tháng 12 năm nay, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam (2005- 2025), Phóng viên Tạp chí Làng nghề Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn NGƯT Trịnh Quốc Đạt, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.
Phát huy tiềm năng, thế mạnh ngành thủ công mỹ nghệ trong phát triển du lịch Hà Nội

Phát huy tiềm năng, thế mạnh ngành thủ công mỹ nghệ trong phát triển du lịch Hà Nội

LNV - Hà Nội vừa là một thủ đô của các ngành nghề thủ công mỹ nghệ đặc sắc, vừa là trung tâm du lịch lớn của đất nước.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị thẩm mỹ, sáng tạo

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị thẩm mỹ, sáng tạo

LNV - Các nghệ nhân không chỉ gìn giữ bản sắc truyền thống, mà còn tạo ra các dòng sản phẩm công mỹ nghệ mang tính nghệ thuật cao, có khả năng tiếp cận thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ ngày càng đa dạng của người tiêu dùng toàn cầu.
Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.

Tin khác

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.
Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Nhớ mùa đay quê tôi

Nhớ mùa đay quê tôi

LNV - Những năm 60 của thế kỷ trước (tỉnh Hưng Yên cũ) từng coi cây đay là một cây trồng chiến lược, một loại cây trồng lấy tơ đay xuất khẩu. Cây đay gắn bó với người dân quê tôi khoảng 30 năm. Nó cũng gắn trọn tuổi thơ của tôi.
Tôn vinh “báu vật nhân văn sống” trong văn hóa dân gian

Tôn vinh “báu vật nhân văn sống” trong văn hóa dân gian

LNV - Chiều 18/10, tại Hà Nội, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phối hợp Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Những báu vật nhân văn sống với việc bảo tồn văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam” và chương trình diễn xướng dân gi
Bắc Ninh hồi sinh làng nghề xanh sau những năm tháng ô nhiễm

Bắc Ninh hồi sinh làng nghề xanh sau những năm tháng ô nhiễm

LNV - Không còn khói bụi, tiếng lò đúc rền vang, nhiều làng nghề từng ô nhiễm nặng nề ở Bắc Ninh như Mẫn Xá (Văn Môn) hay Đại Bái đã hồi sinh mạnh mẽ. Sau những quyết sách kiên quyết của chính quyền, môi trường sống nơi đây được trả lại trong lành, mở ra
Tháng 10 nhớ cố “Hoạ sỹ của dân làng” Nguyễn Đức Hạnh

Tháng 10 nhớ cố “Hoạ sỹ của dân làng” Nguyễn Đức Hạnh

LNV - Tháng Mười lại về trong hơi gió heo may lặng lẽ trên miền đất xã Bà Nà. Mỗi năm, khi những đợt nắng cuối thu vương nhẹ trên triền đồi, lòng người Đà Nẵng lại nhói lên nỗi nhớ về cố họa sĩ Nguyễn Đức Hạnh – người được nhân dân trìu mến gọi là “họa sĩ
Tuần lễ Nông sản Việt 2025 tổ chức tại Hà Nội

Tuần lễ Nông sản Việt 2025 tổ chức tại Hà Nội

LNV - Trong 2 ngày 24 - 25/10, tại Nhà triển lãm 45 Tràng Tiền (phường Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội), Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương) tổ chức Tuần lễ Nông sản Việt 2025. Sự kiện quy tụ các sản phẩm tiêu biểu, đặc sản vùng miền củ
Giao diện di động