Hà Nội: 33°C Hà Nội
Đà Nẵng: 32°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 29°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 31°C Thừa Thiên Huế

Kim hoàn xứ Huế - hơn 200 năm rực rỡ vàng mười

LNV - Sử cũ kể rằng, nghề kim hoàn xứ Huế ra đời vào cuối thế kỷ 18, do các nghệ nhân từ Thanh Hóa di cư vào truyền nghề. Trải qua hơn 200 năm thăng trầm cùng thế sự, nghề kim hoàn đất Cố đô có thời kỳ tưởng như mai một, may nhờ ơn tổ nghiệp và sự chăm chỉ gầy dựng của lớp lớp cháu con, nên nghề xưa không những được bảo tồn mà còn phát triển rộng khắp hơn so với trước.


Bộ trầu cau bằng vàng.


Chuyện kỳ nhân xứ Thanh khai mở nghề xứ Huế

Cuối thế kỷ 18, các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong trong quá trình khai khẩn mở đất đã nắm giữ được nhiều mỏ vàng, đặc biệt là mỏ vàng Bồng Miêu ở tỉnh Quảng Nam, nhờ đó mà các đồ trang sức, ngự dụng trong phủ chúa đều làm bằng vàng. Ngặt một nỗi, thời ấy nghề kim hoàn ở nước ta còn kém, trong dân gian cũng chưa có thợ lành nghề nên các thứ ấy người phủ chúa đều phải thuê thợ kim hoàn người Trung Hoa chế tác. Họ thường giấu nghề độc quyền này rất kỹ nên người Việt khó bề học hỏi.

Nghệ nhân Nhân dân Duy Mong (phía sau), người giữ lửa nghề kim hoàn truyền thống Huế (ảnh chụp lúc chưa xảy ra dịch COVID-19).


Thời ấy ở làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa có ông Cao Đình Độ sinh năm Giáp Thìn (1744), vốn xuất thân trong một gia đình nông dân nhưng ham học và được học hành đến nơi đến chốn, lớn lên ông làm nghề bịt đồng, tức chuyên hàn khay, ấm chén bị vỡ. Với ham muốn học nghề kim hoàn nên ông quyết chí học tiếng Hoa, rồi cải trang thành người Hoa xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội). Với bản tính thông minh, chịu thương chịu khó và trung thực nên ông nhanh chóng chiếm được cảm tình của chủ tiệm, từ đó lén học được những ngón nghề của họ. Dần dà ông học thành tài, tay nghề trở nên điêu luyện không thua kém bất cứ ai.

Đồ nghề của thợ kim hoàn xưa trưng bày tại Tịnh Tâm kim cổ.


Năm Quý Mão (1783), quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân, Cao Đình Độ đưa vợ con men theo đường biển tìm đường vào Nam kiếm nơi lập nghiệp. Trên đường đi, đến địa phận làng Kế Môn nằm bên phá Tam Giang (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) không may gặp nạn và được dân làng cứu giúp. Cảm công đức của dân làng, gia đình ông quyết định dừng chân lập nghiệp ở đây. Tại đây, ông đã truyền nghề cho con trai mình là Cao Đình Hương và một số học trò là người thuộc hai họ Huynh Công và Trần Mạnh ở trong làng. Về sau, hai họ Huynh, Trần tiếp tục truyền nghề lại cho con cháu, từ đó biến làng Kế Môn trở thành làng thợ kim hoàn lớn vào bậc nhất ở xứ Đàng Trong.

Một góc không gian trưng bày của Tịnh Tâm kim cổ Huế.


Dưới thời nhà Tây Sơn, vua Quang Trung cũng là người quan tâm đến nền thủ công nghiệp nước nhà. Năm 1790, nghe danh cha con Cao Đình Độ và những người thợ làng Kế Môn, vua cho triệu vào triều rồi giao cho lập đội Cơ vệ Ngân tượng để chuyên lo việc chế tác, chạm trổ vàng bạc và đồ trang sức, ngự dụng cung đình. Trước công đức và những đóng góp lớn lao đó, ông Cao Đình Độ được triều đình phong chức Lãnh binh, còn con ông là Cao Đình Hương giữ chức phó Lãnh binh.

Đến khi Nguyễn Ánh chiếm lại đất Thuận Hóa - Phú Xuân, lập nên vương triều Nguyễn, lấy niên hiệu Gia Long vào năm 1802, hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương cũng như nhóm thợ làng Kế Môn vẫn được vua Gia Long trọng dụng, cấp bổng lộc và giữ nguyên tước cũ để tiếp tục bảo tồn và phát triển nghề kim hoàn trong kinh thành. Từ đây, nghề kim hoàn xứ Huế, đặc biệt là kim hoàn cung đình bắt đầu có bước phát triển rực rỡ, nhiều sản phẩm tinh xảo nổi tiếng xuất hiện như: Ấn vàng, kiếm vàng, sách vàng, cành vàng lá ngọc, đồ ngự dụng bằng vàng, bạc...

Vào ngày 27 tháng 2 năm Canh Ngọ (28.2.1810), ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi, được nhà vua và triều đình truy phong tước hiệu: “Đệ nhất tổ sư” và ban đất xây lăng mộ như các quan đại thần tại ấp Trường Cởi (nay là phường Trường An, thành phố Huế).

Lo sợ nghề nghiệp sẽ bị mai một theo thời gian nếu chỉ quẩn quanh trong chốn cung đình nên ông Cao Đình Hương quyết định từ quan về quê để tìm người nối nghiệp. Thấy được cái tài và hoài bão của ông, quan Thượng thư Bộ Lại ở Thuận Hóa lúc bấy giờ là Trần Minh đã mời ông về phủ dạy nghề cho 3 người con là Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và 3 người cháu là Huynh Quang, Huynh Bảo, Huynh Nhật.

Ngày 7 tháng 2 Âm lịch (8.2.1821), ông Cao Đình Hương qua đời, hưởng thọ 48 tuổi, được vua Minh Mạng phong tước hiệu: “Đệ nhị tổ sư”, phần mộ được an táng bên cạnh mộ phần tổ phụ tại ấp Trường Cởi.

Gần 100 năm sau khi hai ngài qua đời, đến triều Khải Định thứ 9 (năm 1924), nhân dịp lễ Tứ tuần Đại khánh tiết, xét hai ngài có nhiều công lao trong việc truyền bá nghề kim hoàn nên vua Khải Định đã ban chiếu sắc phong: “Dực bảo Trung Hưng Linh Phò chi thần” vào ngày 25.7.1924. Đến đời vua Bảo Đại thứ 13 (năm 1938), hai ông tiếp tục được sắc phong cho người có công khai sáng ngành kim hoàn Việt Nam và khu lăng mộ được kiến tạo, trùng tu đạt giá trị nghệ thuật cao. Hiện nay, tại từ đường họ Kim hoàn tọa lạc số 7 chùa Ông, phường Phú Cát, thành phố Huế còn lưu giữ một số bản sắc phong của các vua triều Nguyễn cho hai vị tổ nghề.

Nghệ nhân Duy Mong - người phát huy nghiệp tổ

Ngày nay, đến thăm lăng nghệ nhân Cao Đình Độ, người ta vẫn còn thấy đôi câu đối bằng chữ Hán tán thán công đức của ông: “Kim hoàn triệu thỉ tam kỳ tổ; Ngọc bảo khai tiên thiên cổ sư” (Tạm dịch: Sáng lập nghề kim hoàn, làm tổ sư ba miền; Ngọc quý mở đầu, ngàn đời làm thầy). Năm 1990, hệ thống khu lăng mộ tổ nghề kim hoàn ở Huế đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia.

Sản phẩm cây vàng lá ngọc của nghệ nhân Duy Mong.


Riêng làng Kế Môn nay được xem như cái nôi của nghề kim hoàn xứ Huế. Hơn 200 trăm năm qua, hàng ngàn người làng Kế Môn đã rời làng ra đi mang theo nghiệp tổ truyền bá khắp nơi trong và ngoài nước. Hiện ở tiểu bang Texas của Mỹ có 40 cơ sở cầm vàng của người Kế Môn.

Ngay tại Huế bây giờ, nghề kim hoàn cũng phát triển rất mạnh. Đặc biệt, Nghệ nhân Nhân dân Trần Duy Mong, ông chủ nổi tiếng của chuỗi hệ thống 6 cơ sở chế tác, kinh doanh vàng bạc, đá quý của doanh nghiệp kim hoàn Thuận Thành - Duy Mong ở Huế được xem là bàn tay vàng, là người giữ lửa cho nghề kim hoàn xứ Huế hiện hay.

Sự tinh xảo của đôi hài nhung thêu chỉ bạc.


Nghệ nhân Trần Duy Mong là hậu duệ của dòng họ Trần Duy làng Kế Môn, theo nghề kim hoàn từ năm lên 15 tuổi, đến nay đã gần 50 năm theo nghiệp tổ. Suốt mấy chục năm theo nghề, tuy đã là tay lão luyện trong nghề nhưng ông vẫn không ngừng học tập, rèn giũa nâng cao tay nghề, nhờ đó mà ông liên tục giành nhiều giải thưởng lớn tại các kì thi uy tín, điển hình như tác phẩm: “Quạt cung đình Huế” (Giải Ba Hội thi sản phẩm lưu niệm và quà tặng năm 2008), “Hài cung đình Huế xưa” (Giải Ba Hội thi sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam năm 2009), “Tranh hộp 3D Lầu Ngũ Phụng - Đại Nội Huế” (Giải Nhất cuộc thi sản phẩm hàng lưu niệm và quà tặng Huế 2017), và nhiều giải thưởng tại các kì Festival nghề truyền thống Huế...

Chén ngọc khảm vàng.


Nghệ nhân Trần Duy Mong cho biết, trong bối cảnh ngành công nghệ chế tác trang sức phát triển mạnh như hiện nay, nghề kim hoàn truyền thống phải chịu một sức ép không hề nhỏ, nhưng ông tin rằng với vẻ đẹp và sự độc đáo riêng có, kim hoàn truyền thống vẫn sẽ có chỗ đứng riêng, nếu ta biết phát huy thế mạnh của nó.

Với nỗi lòng đau đáu với nghề, nghệ nhân Trần Duy Mong đã phát triển thành công chuỗi cơ sở kinh doanh vàng bạc đá quý của mình, góp phần tạo cơ hội công ăn việc làm cho người dân, đào tạo nghề cho lớp thợ kế cận. Đặc biệt, ông đã dày công xây dựng cơ sở Tịnh Tâm kim cổ thành điểm đến tham quan, du lịch, mua bán, chế tác kim hoàn lớn và độc đáo nhất ở miền Trung.

Sản phẩm kim hoàn xứ Huế nổi tiếng cả nước nhờ chất lượng đảm bảo, nguyên liệu hoàn hảo, không bị pha tạp; sản phẩm tinh xảo, cầu kì trong từng đường nét thiết kế, đặc biệt là luôn mang dáng dấp sang trọng, quý phái nhờ thừa hưởng phong cách chế tác kim hoàn cung đình Huế.

Đến với Tịnh Tâm kim cổ du khách sẽ được chiêm ngưỡng một kiệt tác không gian nhà vườn truyền thống Huế với những ngôi nhà rường mái ngói cột gỗ cổ kính và những khoảnh vườn mát rượi bóng cây xanh. Trong không gian đậm màu hoài cổ ấy là cả một thế giới đồ kim hoàn lung linh, huyền ảo. Ở đó có hàng nghìn mẫu hàng trang sức bằng vàng, bạc, đá quý, và nhiều mẫu hàng lưu niệm được chế tác tinh xảo bằng vàng, bạc, đồng...

Kiềng bạc khảm ngọc.


Đáng chú ý, ở đây còn có một bảo tàng thu nhỏ về nghề kim hoàn xứ Huế. Ở đó gia chủ bài trí khá nhiều hiện vật quý và có giá trị như các bản sao sắc phong của vua nhà Nguyễn dành cho nghề kim hoàn Huế; các dụng cụ cổ dùng chế tác kim hoàn như búa, kìm, kẹp, dùi, giũa, khuôn, đèn khò, cân tiểu li... Không gian chế tác, nơi làm việc của thợ cũng được sắp đặt, bài trí mang hơi hướng cổ, khiến cho khách tham quan như cảm nhận được môi trường, không khí làm việc của thợ kim hoàn xưa.

Với Tịnh Tâm kim cổ, nghề kim hoàn xứ Huế như được sống lại với thời hoàng kim xưa. Bởi ở đó, đời sống kim hoàn truyền thống Huế được tái tạo, phục dựng và phô diễn một cách công phu, chân thực và sống động, đủ để cho những ai yêu Huế đến rồi sẽ chẳng thể nào quên...

Theo Thái Hoàng/Báo Lao động

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Khuyến công Cao Bằng tiếp tục là đòn bẩy chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa nông thôn

Khuyến công Cao Bằng tiếp tục là đòn bẩy chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa nông thôn

LNV - Trong giai đoạn 2021–2025, Sở Công Thương tỉnh Cao Bằng đã chủ động triển khai hiệu quả chương trình khuyến công, thể hiện vai trò trung tâm điều phối, kết nối các nguồn lực nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn.
Cao Bằng nhân rộng vùng nguyên liệu dược liệu cỏ ngọt gắn với Chương trình OCOP

Cao Bằng nhân rộng vùng nguyên liệu dược liệu cỏ ngọt gắn với Chương trình OCOP

LNV - Những năm gần đây, Hợp tác xã (HTX) Thảo Đường Vinh, xã Thạch An đi đầu trong lĩnh vực đưa cây cỏ ngọt (Stevia rebaudiana) vào trồng thử trên địa bàn tỉnh. Đến nay, cây cỏ ngọt đã dần khẳng định là một cây trồng phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế rõ
Đắk Lắk xây dựng Kế hoạch khuyến công năm 2026

Đắk Lắk xây dựng Kế hoạch khuyến công năm 2026

LNV - Sở Công Thương Đắk Lắk vừa có văn bản đề nghị UBND các xã, phường chỉ đạo công tác rà soát và đăng ký kế hoạch khuyến công năm 2026 nhằm giúp cho việc xây dựng, triển khai Kế hoạch khuyến công năm 2026 sát với thực tế và đạt hiệu quả cao.
Đồng Nai tập trung giải pháp đột phá cho công tác khuyến công 6 tháng cuối năm

Đồng Nai tập trung giải pháp đột phá cho công tác khuyến công 6 tháng cuối năm

LNV - Vừa qua, ông Văn Hữu Đồng – Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Đồng Nai đã chủ trì buổi làm việc với Trung tâm Khuyến công và Tư vấn Phát triển Công nghiệp nhằm đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ trong 6 tháng đầu năm 2025, đồng thời định hướng nhiệ
Bước đột phá từ hỗ trợ khuyến công

Bước đột phá từ hỗ trợ khuyến công

LNV - Ngành cơ khí tỉnh Phú Thọ đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ, khẳng định vị thế trên thị trường. Trong đó, nhiều doanh nghiệp ngày càng phát triển, tạo được uý tín, nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ sự hỗ trợ kịp thời từ chương trình khuyến công
Giao diện di động