Hà Nội: 25°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Hiệp hội Làng nghề Việt Nam: Phát huy vai trò kết nối và hợp tác phát triển sản phẩm

LNV - Với số lượng “cả nước có 5.411 làng nghề... trong đó có 1.864 làng nghề truyền thống (115 nghề truyền thống) thu hút gần 11 triệu lao động...bao gồm 12 nhóm nghề gốm sứ, mây tre đan, gỗ, đồng, dệt thổ cẩm...Riêng hàng thủ công mỹ nghệ đã có 2000 doanh nghiệp và cơ sở tham gia xuất khẩu đạt kim ngạch tới 2 tỷ USD....
1. Hiệp hội Làng nghề Việt Nam một tổ chức xã hội - nghề nghiệp đặc biệt

Hiệp hội Làng nghề Việt Nam là tổ chức xã hội nghề nghiệp phi chính phủ phi lợi nhuận của những người và các làng nghề, phố nghề truyền thống, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, văn hóa có tâm huyết giữ gìn, bảo tồn và phát triển các làng nghề, phố nghề ở Việt Nam - Vietnam Association of Craft Villages, VICRAFTS. (Từ điển BKTT Wiki). Là Hiệp hội thành viên của MTTQ Việt Nam.


Mục đích của Hiệp hội là tập hợp, đoàn kết các làng nghề, các tổ chức kinh tế, văn hoá, các nghệ nhân trong làng nghề, phố nghề, các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà văn hoá, các cơ quan nghiên cứu, đào tạo để cùng với các cơ quan Nhà nước thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về khôi phục và phát triển làng nghề, góp sức bảo tồn, phát triển làng nghề Việt Nam; Thực hiện liên kết, hợp tác giữa các tổ chức kinh tế - kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nâng cao giá trị sản phẩm, giá trị văn hóa của các mặt hàng của làng nghề; hỗ trợ nhau trong việc mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm.
Qua 04 kỳ Đại hội, Hiệp hội đã có đội ngũ lãnh đạo gồm các chuyên gia, các nhà khoa học, kinh tế, nhà văn hóa - xã hội từng công tác tại các cơ quan Nhà nước, nay về tham gia hoạt động tại Hiệp hội, đã chỉ đạo, tư vấn sát sao, góp phần tạo nên sức sống mới của làng nghề Việt Nam. Tổ chức Hiệp hội có Hội đồng Tư vấn; Hội đồng Liên lạc các Câu lạc bộ Nghệ nhân làng nghề Việt Nam; 01 Viện Nghiên cứu; Tạp chí Làng nghề Việt Nam in và điện tử, có ấn phẩm OCOP in và điện tử; 7 Văn phòng Đại diện; 15 Trung tâm, 10 ban chuyên môn, 03 câu lạc bộ; Trên 13.000 hội viên ở 61/64 tỉnh, thành phố (nhiều hội viên là tổ chức Tỉnh hội, Thành hội và hội viên tập thể); Góp phần xây dựng các làng nghề tiêu biểu ở các vùng miền. (Luu Duy Dần Chủ tịch HH LN Việt Nam – Tổng kết 15 năm hoạt động. TC Làng nghề VN Thứ hai, 16-11-2020)

2. Hợp tác phát triển sản phẩm làng nghề - quá trình hiện thực hoá chức năng nhiệm vụ của Hiệp hội

Nội dung “hợp tác phát triển” là một liên từ có nội hàm rất rộng. Cụm liên từ “hợp tác phát triển” được thể hiện ở nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao … “hợp tác phát triển sản phẩm làng nghề” bản chất là một quá trình hiện thực hoá chức năng nhiệm vụ của Hiệp hội làng nghề VN – Hiệp hội là một đầu mối tạo sự liên kết, kết nối các mối quan hệ nhiều chiều trong sản xuất kinh doanh, bảo tồn, phát triển nghề.

Kết nối với địa phương: Hiệp hội đã thực sự là hạt nhân tạo sự kêt nối, hợp tác giữa doanh nghiệp với chính quyền một số địa phương xây dựng tổ chức, phát triển bảo tồn làng nghề tại mọi vùng miền của đất nước; Tổ chức các chương trình sự kiện tham quan, giao lưu, kết nối giữa các làng nghề, nghệ nhân với các đối tác (các nhà khoa học, nhà quản lý, người tiêu dùng …). Gần đây chương trình hoạt động khẳng định mục tiêu “Kết nối cộng đồng làng nghề - Bảo tồn Văn hóa - Phát triển Du lịch - Hội nhập Quốc tế” và tổ chức “Ngày Di sản Văn hóa nghề, làng nghề truyền thống hội nhập quốc tế” nhân “Ngày Di sản Văn khóa Việt Nam, từ 19/11/2020 đến 23/11/2020 tại Hà Nội.

Những sự kiện minh hoạ từ quá trình kết nối: Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp (DN) làng nghề Bánh đậu xanh ở Hải Dương thoát hình sự hoá. Tạo ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ lò cao tần trên 1000 độ giữa Làng gốm Bát Tràng với Làng rèn Đa Sĩ – Tạo kết nối giao lưu giữa các làng nghề với thị trường hàng thủ công mỹ nghệ nước ngoài cần chỉ dẫn địa lý và sở hữu trí tuệ qua các hội thảo trong ngoài nước. Giúp DN có kiến thức về Chiến lược Tiếp cận thông tin và Maketing khác nhau thế nào. Giới thiệu tấm gương tiêu biểu của DN thành viên hiệp hội và tham gia các Hội ngành các cấp. Góp phần nâng cao nhận thức về Chiến lược sản xuất kinh doanh hiện đại và thị trường bằng bí quyết 5 – 7 chữ M trong sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện các nghệ nhân phát huy vai trò bảo tồn làng nghề sống khoẻ và có tác động tích cực vào quá trình phát triển. Tư vấn kết nối Du lịch làng nghề với công thức 1-3-5. Đó là 1 hạ tầng tốt- 3 vùng lõi- dịch vụ - văn hoá lịch sử, tâm linh…; 5 yêu cầu: Sơ đồ chỉ dẫn Du lịch, Hướng dẫn viên, Lịch trình thời gian, các Dịch vụ Y tế an toàn, có camera điều hành. (NVK – trích tham luận tại các Hội thảo chuyên đề do Hiệp hội LNVN tổ chức trong nhiệm kỳ IV).
Hoạt động của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã từng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển Làng nghề với 7 mảng công tác như sau:

Thứ nhất: Đại diện hợp pháp bảo vệ quyền lợi cho hội viên. Đủ tư cách pháp nhân trong HTCT.

Thứ hai: Tạo môi trường liên kết, hợp tác giữa các hội viên trong sản xuất kinh doanh; Xúc tiến thương mại, dịch vụ, đầu tư, nghiên cứu khoa học, tìm hiểu khảo sát thị trường trong và ngoài nước.

Thứ ba: Tổ chức thông tin tuyên truyền quảng bá doanh nghiệp. Tổ chức hội thảo, tọa đàm, triển lãm, xuất bản ấn phẩm thông tin, nâng cao thương hiệu.

Thứ tư: Làm đầu mối giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các hội viên, nhằm hạn chế tối đa thiệt hại do tranh chấp gây ra, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh đúng pháp luật.

Thứ năm: Tư vấn, hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn các doanh nghiệp về quản lý, pháp luật, nghiệp vụ kinh doanh...

Thứ sáu: Quán triệt đường lối chủ trương chính sách của Nhà nước, tuyên truyền giáo dục hội viên, tổ chức tư vấn giám sát và phản biện xã hội …

Thứ bảy: Mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia các hiệp hội quốc tế có liên quan để tranh thủ và tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp kiếm đối tác, thị trường, khách hàng. ( Nguyễn Vi Khải - Báo cáo chuyên đề theo đơn đặt hàng của Viện Nghiên cứu lập pháp (UBTVQH) phục vụ đề tài “cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng Luật làng nghề…” Đã trình bày tại VPQH – Tạp chí Làng nghề Việt Nam ngày Thứ tư, 15-12-2021).


Qua những hoạt động sôi nổi, sâu rộng, uy tín, sức lan tỏa của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam được nâng cao; Các cơ quan quản lý Nhà nước tôn trọng và ghi nhận; Nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp đánh giá cao; Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nghệ nhân, thợ giỏi, thợ thủ công làng nghề tín nhiệm, tin cậy, coi là mái nhà chung của cộng đồng làng nghề cả nước.

Trong 3 thập niên gần đây làng nghề Việt Nam đã khởi sắc. Với số lượng “cả nước có 5.411 làng nghề... trong đó có 1.864 làng nghề truyền thống (115 nghề truyền thống) thu hút gần 11 triệu lao động...bao gồm 12 nhóm nghề gốm sứ, mây tre đan, gỗ, đồng, dệt thổ cẩm...Riêng hàng thủ công mỹ nghệ đã có 2000 doanh nghiệp và cơ sở tham gia xuất khẩu đạt kim ngạch tới 2 tỷ USD. Thị trường Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng tới 40%, tiếp theo là Đức và Nhật Bản” “cộng sinh tất yếu” sự phát triển làng nghề là điều kiện, là tiền đề cho sự ra đời của Hiệp hội và ngược lại- sự ra đời của Hiệp hội là tác nhân thúc đẩy làng nghề phát triển. Hiệp hội gắn với Làng nghề như là một cặp đôi tương thích xã hội có tính quy luật. Giá trị cốt lõi của Hiệp hội trong mấy nhiệm kỳ qua không chỉ thúc đẩy nâng tầm quan trọng vị thế của làng nghề mà điều đáng ghi nhận là đằng sau những thành tích giải quyết việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động thì là các giá trị vật thể và phi vật thể thực sự chính là những di sản văn hoá tầm quốc gia không thể cân đong đo đếm bằng tiền bạc. (Tạp chí Làng nghề Việt Nam Thứ tư, 15-12-2021).

Đánh giá của Đảng và nhà nước: Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã có Quyết định số 1269/QĐ-CTN ngày 28/7/2020 về việc tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba cho Hiệp hội Làng nghề Việt Nam vì “Đã có thành tích xuất sắc trong công tác bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhiều thành viên nhận được bằng khen và danh hiệu cao quý. Tất nhiên hoạt động của Hiệp hội còn hạn chế và yếu kém do thực lực còn mỏng, cơ sở vật chất còn nghèo nàn. Sự quan tâm của các cấp còn hạn chế.

- Sơ đồ hoá vai trò hạt nhân kết nối hợp tác phát triển

3. Các hình thức liên kết hợp tác phổ biến …

Các hình thức hợp tác liên kết rất phong phú, xet về lượng có liên kết 2 bên, 3 bên. Xét nội dung có thể là liên kết về Vốn về kỹ thuật, về tạo mẫu thiết kế, về đào tạo nhân lực về quảng bá, tiêu thụ sản phẩm…

Hình thức liên kết phổ biến là qua hoạt động du lịch. Liên kết với ngành du lịch thông qua nhà nước các cấp để hình thành “Cung đường khám phá” theo cách diến đạt của làng nghề Nhật Bản du lịch sinh thái, du lịch văn hóa nhân văn, lễ hội - tín ngưỡng, tâm linh. Tại Việt Nam chúng ta cũng từng khăng định: “Mỗi ngành nghề, mỗi sản phẩm đều có lịch sử lâu dài, xuất xứ gắn kết mật thiết với đời sống xã hội. Mỗi người thợ thủ công nên có đầy đủ kiến thức về những điều đó. Du khách sẽ dễ dàng tìm hiểu nếu ở mỗi khu vực có những phòng trưng bày hoặc những bảo tàng nhỏ ở làng xã, giới thiệu về sản phẩm và quá trình hình thành, phát triển của cộng đồng”. (TS Tôn Gia Hóa - Phó chủ tịch Hiệp hội Làng nghề VN).

Hợp tác phát triển sản phẩm gắn với các loại hình du lịch như là một xu hướng gần đây khá mạnh mẽ. Bản thân ngành du lịch cũng rất đa dạng các loại hình như du lịch lịch sử văn hoá, du lịch văn hoá ẩm thực, du lịch cảnh quan nghỉ dưỡng, đặc biệt du lịch văn hoá tâm linh đang là một nhu cầu cao của dân. Không phải ngẫu nhiên ĐCS ghi nhận điều này trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc: ““Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”. (Đảng Cộng sản Việt Nam: VKĐH XIII. t2 Tr.141.). Liên kết với các cơ quan truyền thông – đây là điều mà làng nghề còn bất cập. Thực tế cho thấy thời đại 3.0 - 4.0 ... truyền thông – internet, tự động hóa...không chỉ là quảng bá, giao lưu, thương mại điện tử,... mà đây là cơ hội cho phát triển bền vững, đào tạo nguồn nhân lực, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, tìm nguốn năng lượng, nguyên liệu mới, phương thức quản trị hiện đại, hiệu quả...tạo giá trị di sản văn hóa sâu sắc hơn.


Kinh nghiệm của bảo tồn giá trị di sản văn hóa của Nhật Bản cho thấy cần có Chiến lược lâu dài “Cần biết phát huy những kỹ thuật điêu luyện này bằng công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0” với những tri thức như “4 yếu tố để xây dựng “Bảo tàng sinh thái” (ECOMUSEUM) = “Phạm vi liên đới”, “Vùng lõi”, “Vệ tinh”, “Cung đường khám phá” - Phát triển mô hình sản phẩm du lịch gắn liền với địa phương (DMO) theo phương châm “ Bứt phá tới cách mạng công nghiệp 4.0” và phải coi Nghệ nhân làng nghề là nền móng, là linh hồn của văn hóa quốc gia!. (Fumio KATO Giám đốc dự án “Phát Triển.... sản phẩm và du lịch “ JICA – Hội thảo quốc tế tại Hà Nội 18-10-2018).

4. Tiềm năng Du lịch văn hóa

Sơ bộ tính toán cho thấy: Tổng thu từ khách du lịch có sự tăng trưởng cao, bình quân 17,6%/năm, năm 2019 đạt 103.812 tỷ đồng, đóng góp 12,54% vào GRDP của thành phố (đóng góp trực tiếp là 5,16% và đóng góp gián tiếp là 7,38%). Hà Nội trở thành trung tâm du lịch lớn tiếp nhận và phân phối khách du lịch đến các tỉnh phía Bắc và cả nước. Hà Nội luôn trong danh sách bình chọn của Tổ chức du lịch thế giới cho các điểm đến hàng đầu của Châu Á và Thế giới. (Tin tức 18/09/2021).

- Đánh giá tiềm năng du lịch các tỉnh phía bắc - Vùng Bắc bộ gồm 29 tỉnh thành và thành phố trực thuộc trung ương từ tỉnh Hà Giang đến tỉnh Hà Tĩnh, trong số đó, TP Hà Nội là trung tâm của vùng và cùng với thành phố Hải Phòng và Quảng ninh được xác định là Tam giác động lực tăng trưởng du lịch. Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng này là du lịch văn hoá kết hợp du lịch thăm quan, nghiêm cứu với sản phẩm cụ thể về giao tiếp, phát triển kinh tế – xã hội, hội thảo, hội nghị, triễn lãm... Du khách được hướng dẫn thăm quan, tìm hiểu nền văn hoá lâu đời của từng điểm du lịch là di tích lịch sử, di sản văn hoá – nghệ thuật, lễ hội cùng sinh hoạt tâm linh đa dạng của các dân tộc, kể cả các làng nghề truyền thống thủ công mỹ nghệ phong phú.

5. Đề xuất KIẾN NGHỊ

Trong phạm vi báo cáo này đề xuất việc có tầm chiến lược để có thể tạo hợp tác phát triển sản phẩm là nhận thức quán triệt tinh thần nội dung QĐ 801NĐ/CP - Phê duyệt “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030”. Chương trình có nội dung ghi rõ: “Phát triển làng nghề gắn với du lịch và xây dựng nông thôn mới” với nội dung cụ thể:

Phục hồi, tôn tạo các di tích liên quan đến giá trị văn hóa nghề, làng nghề truyền thống (nhà thờ tổ nghề, không gian làm nghề, cảnh quan làng nghề...); khôi phục, tổ chức các lễ hội, hoạt động văn hóa dân gian, phát huy các giá trị văn hóa của nghề và làng nghề trong xây dựng môi trường du lịch văn hóa;

Tổ chức liên kết chuỗi giá trị, phát triển làng nghề gắn với du lịch, góp phần phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Đặc biêt trong khoảng một thập niên có 8 Dự án lớn có tính ưu tiên - Dự án số 5 ghi rõ: xây dựng mô hình bảo tồn và phát triển làng nghề gắn với du lịch cho các vùng sinh thái. Nơi thực hiện và phối hợp: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các bộ, ngành, cơ quan liên quan, các doanh nghiệp, hiệp hội.

T.S Nguyễn Vi Khải
Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Kỳ họp thứ 26 HĐND TP Hà Nội sẽ xem xét 26 nội dung, với nhiều dự án hạ tầng quy mô lớn

Kỳ họp thứ 26 HĐND TP Hà Nội sẽ xem xét 26 nội dung, với nhiều dự án hạ tầng quy mô lớn

LNV - Ngày 16-9, HĐND thành phố Hà Nội đã có Thông báo số 38/TB- HĐND về nội dung, thời gian và công tác chuẩn bị tổ chức kỳ họp thứ 26 (kỳ họp chuyên đề) của HĐND thành phố khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026.
Thủ tướng: Từ năm học 2026-2027 triển khai bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc

Thủ tướng: Từ năm học 2026-2027 triển khai bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc

LNV - Với những chỉ tiêu cụ thể: bảo đảm chi tối thiểu 5% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, trong đó 3% cho giáo dục đại học; xây dựng thêm 100 trường phổ thông dân tộc nội trú tại khu vực biên giới, miền núi; từ năm học 2026–2027 triển khai sách
Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

Chiêm Hóa bứt phá phát triển theo hướng hiện đại

LNV - Thời gian qua, xã Chiêm Hóa (Tuyên Quang) đã có bước phát triển vượt bậc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thương mại – dịch vụ, tài chính – tín dụng, ứng dụng công nghệ số phát triển mạnh, góp phần nâng cao đời s
OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OCOP Phú Thọ – Nâng tầm sản phẩm địa phương, vươn xa thương hiệu Việt

OVN - Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được xác định là một trong những giải pháp quan trọng giúp các địa phương phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng sẵn có, đồng thời xây dựng thương hiệu cho sản phẩm đặc trưng. Tại Phú Thọ, sau sáp nhập, tỉnh
Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

Nước mắm Huỳnh Khoa – Hương vị An Giang chạm chuẩn OCOP 5 sao

OVN - An Giang – vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc hùng vĩ của núi non, rừng tràm và những cánh đồng lúa bạt ngàn, mà còn lưu giữ trong mình kho tàng ẩm thực độc đáo. Giữa muôn vàn sản vật địa phương, nước mắm Huỳnh Khoa đư
Giao diện di động