Hà Nội: 25°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Cách mạng 4.0 trong làng nghề: Từ nhận thức đến ứng dụng

LNV - Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát huy tác dụng tích cực như một xu thế tất yếu đến đời sống kinh tế-xã hội toàn cầu, trong đó có nước ta. Làng nghề chúng ta cần nắm bắt cơ hội này, ứng dụng có hiệu quả trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển làng nghề.
Thời gian qua, trên Tạp chí Làng nghề Việt Nam, đã có một số bài đề cập vấn đề ứng dụng Cách mạng 4.0 trong làng nghề. Những bài viết này cung cấp thêm một số kiến thức cơ bản để bạn đọc có thể hiểu vấn đề sâu và toàn diện hơn; Đồng thời, tập trung bàn về những biện pháp mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh và làng nghề chúng ta cần quan tâm trong ứng dụng.

CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA

Như chúng ta đã biết, Cách mạng 4.0 ứng dụng các công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet cho vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)… trong đó, “Chuyển đổi số” là một trong ba trụ cột chính (vật lý, công nghệ sinh học và kỹ thuật số), bảo đảm cho Cách mạng 4.0 phát huy tác dụng. Như vậy, “Chuyển đổi số” đã trở thành một xu thế tất yếu; Việc ứng dụng Cách mạng 4.0 phải bắt đầu từ chuyến đổi số. Đại hội XIII của Đảng đã quyết định: “Ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”....”Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; Phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ”... “Chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số” (trích Báo cáo Chính trị Đại hội XIII).


Theo các nhà nghiên cứu, “Chuyển đổi số” là sự tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp, tận dụng các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng. Cụ thể hơn, khái niệm “Chuyển đổi số” thường được hiểu theo nghĩa là quá trình thay đổi từ mô hình doanh nghiệp truyền thống sang doanh nghiệp số nhằm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty. Trong thực tế, “Chuyển đổi số” không chỉ có vai trò quan trọng tại các doanh nghiệp mà chuyển đổi số còn đóng vai trò quan trọng trong tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội của đất nước.

Để thực hiện “Chuyển đổi số”, trước hết, phải “Số hóa”, tức là chuyển đổi các hệ thống giải pháp thông thường sang hệ thống kỹ thuật số (như chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số...). “Chuyển đổi số” là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn.

Có thể thấy ý nghĩa và tác dụng của chuyển đổi số. (i) Đối với doanh nghiệp, chuyển đổi số mang lại nhiều lợi ích trong việc nâng cao sức cạnh tranh, như: Cắt giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn, lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt kịp thời, tối ưu hóa được năng suất làm việc của nhân viên... (ii) Đối với người dân, chuyển đổi số làm thay đổi cách sống, làm việc và giao dịch với nhau. (iii) Đối với nhà nước, chuyển đổi số dùng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi trải nghiệm người dùng với các dịch vụ do nhà nước cung cấp, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi mô hình và phương thức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Ngày 6/1/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã phê duyệt Quyết định 06/QĐ-TTg về Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Một trong những nội dung quan trọng của Đề án là tới giai đoạn 2023-2025, 100% người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được định danh và xác thực điện tử thông suốt, hợp nhất trên tất các các hệ thống thông tin của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương.


Chuyển đổi số được thực hiện trong các ngành kinh tế sẽ tạo điều kiện hình thành nền “Kinh tế số” của đất nước. Kinh tế số được hiểu là một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; Sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng, …) mà công nghệ số được áp dụng. Kinh tế số cũng có những đóng góp có ý nghĩa trong sự hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi công nghệ toàn cầu..
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã sớm có nhiều chủ trương, giải pháp thực hiện Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi sang nền kinh tế số.
Ngày 01/7/2014, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tháng 8/2018, Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử được thành lập do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Chủ tịch Ủy ban. Tiếp theo là Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Đặc biệt là Quyết định số 749/2020/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã xác định đến năm 2030, Việt Nam trở thành “Quốc gia số”; Đồng thời, đề ra mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP; Năm 2030 chiếm 30% GDP.

Do ý nghĩa và tầm quan trọng của chuyển đổi số, ngày 22/4/2022, tại Quyết định số 505/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt ngày 10/10 hàng năm là “Ngày Chuyển đổi số quốc gia” với 3 mục tiêu chính là: (i) Đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhiệm vụ về chuyển đổi số quốc gia; (ii) Nâng cao nhận thức của người dân toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của chuyển đổi số; (iii) Thúc đẩy sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia của toàn dân bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số.

Theo các chuyên gia, cùng với kinh tế số, xã hội số cùng với Chính phủ số tạo thành ba trụ cột của một quốc gia số. Dưới đây, xin giới thiệu thêm một số nội dung của xã hội số, công dân số và Chính phủ số.

Xã hội số: Chuyển đổi số trong xã hội là nhằm hình thành xã hội số. Xã hội số, xét theo nghĩa rộng, bao trùm lên mọi hoạt động của con người. Động lực chính của xã hội số là công nghệ số, dựa trên sự tăng trưởng thông tin, dữ liệu một cách nhanh chóng, làm thay đổi mọi hoạt động của toàn xã hội, từ chính phủ, kinh tế cho tới người dân (công dân số): Triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, từng bước hình thành hệ sinh thái công dân số, gắn chip điện tử trên thẻ Căn cước công dân, v.v...;


Công dân số: Công dân số là người có kỹ năng, kiến thức, có thể truy cập Internet thông qua máy tính, điện thoại di động và các thiết bị kỹ thuật số khác để tương tác với cá nhân, tổ chức và cộng đồng, tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội trên nền tảng kỹ thuật số. Công dân số là một thành phần của công dân toàn cầu, có trách nhiệm, đạo đức với hành vi của mình trên nền tảng kỹ thuật số để thúc đẩy kết nối cộng đồng trên toàn cầu và cùng nhau chia sẻ thông tin, giúp mọi người trên toàn thế giới đều có thể tham gia với tư cách là một công dân trong xã hội.

Chính phủ số: Chính phủ thực hiện đúng chức năng của “Chính phủ kiến tạo”, chuyển mọi quyết định về cơ chế, chính sách của Chính phủ lên môi trường số, hình thành “Chính phủ số” hoạt động dựa trên dữ liệu và cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu của người dân và doanh nghiệp. Chính phủ số dùng công nghệ số, sử dụng dữ liệu để ra quyết định, coi dữ liệu là một loại tài nguyên mới, cũng tức là chuyển đổi về cách thức ra quyết định của cơ quan chính quyền dựa trên báo cáo bằng giấy tờ sang dữ liệu phân tích định lượng và tổng hợp từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau thông qua chuyển đổi số.

ỨNG DỤNG 4.0 TRONG LÀNG NGHỀ

Trong làng nghề chúng ta, hiện có nhiều loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh với quy mô rất khác nhau (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ sản xuất, hộ kinh doanh) trong đó hộ kinh doanh với quy mô nhỏ và vừa chiếm phần rất lớn. Vì vậy, việc ứng dụng những thành tựu của Cuộc Cách mạng 4.0 phải sát hợp với trình độ, khả năng của từng loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh, không thể máy móc, rập khuôn.

Dưới đây, xin đề cập việc ứng dụng 4.0 trong một số lĩnh vực hoạt động của cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề.

Trong quản trị cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề hiện nay, do có nhiều cơ sở quy mô nhỏ bé, vốn liếng chưa nhiều, văn phòng cần gọn nhẹ, cho nên thiết thực nhất là ứng dụng chuyển đổi số từng bước trong các hoạt động trước đây dùng phương pháp thủ công. Ví dụ như: Quản lý, lưu giữ tài liệu; Quản trị công việc, nhân sự, lập báo cáo; Trao đổi thông tin, hội thảo trực tuyến; Đào tạo nhân lực; thu thập dữ liệu về khách hàng; Khảo sát tình hình làng nghề, v.v... Trong đó, việc số hóa các thông tin tài liệu có tác dụng thiết thực giúp doanh nghiệp lưu giữ tài liệu lâu dài, dễ tìm kiếm, tiết kiệm chi phí, tránh rủi ro, thất thoát.

Trong lĩnh vực thiết kế sản phẩm. Theo các chuyên gia thiết kế, trong thời dại 4.0, các công cụ được sử dụng hiện nay không chỉ là giấy vẽ, bút vẽ, màu vẽ mà còn là những phần mềm giúp cho nhà thiết kế mang lại những tác phẩm không chỉ được phác họa theo phương pháp truyền thống mà còn có thể là một sản phẩm được tạo ra bởi sự kết hợp giữa tính thẩm mỹ, sức sáng tạo của con người và đặc biệt là sự hỗ trợ của công nghệ số. Việc sử dụng công nghệ hiện đại trong thiết kế không chỉ tiết kiệm thời gian và chi phí mà còn tạo nên sự khác biệt của sản phẩm được tạo ra so với phương pháp truyền thống. giúp cho nhà thiết kế có những tiếp cận mới, làm nảy nở những kiểu dáng mới cho sản phẩm làng nghề.

Trong xúc tiến thương mại: Thực tiễn cho thấy trong làng nghề, các hoạt động xúc tiến thương mại đều có thể ứng dụng các công cụ hiện đại của cách mạng 4.0 nhất là trong quảng bá sản phẩm và giới thiệu các sự kiện xúc tiến thương mại. Việc giới thiệu sản phẩm có thể thực hiện bằng hình ảnh, băng hình, kỹ thuật 3D, giúp cho khách hàng nhận biết giá trị của sản phẩm, nhất là giá trị văn hóa của sản phẩm làng nghề truyền thống. Việc giới thiệu các sự kiện (như hội chợ, triển lãm ...) cũng có thể ứng dụng các công cụ hiện đại, để qua thực tế ảo, khách hàng cũng có thể nhận biết những đặc sắc của từng sự kiện để tham dự, cũng như những sản phẩm hàng hóa mới để tìm mua.

Xúc tiến hơn nữa “thương mại điện tử”, thực hiện việc mua bán, trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ giữa các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân, tổ chức tư nhân bằng các giao dịch điện tử thông qua mạng Internet hoặc các mạng máy tính, không dùng tiền mặt. Thương mại điện tử cũng bao gồm việc đặt hàng và dịch vụ thông qua mạng máy tính, nhưng thanh toán và vận chuyển hàng hoặc dịch vụ cuối cùng có thể thực hiện trực tuyến hoặc bằng phương pháp thủ công.

Trong hoạt động du lịch. Theo các chuyên gia du lịch, có thể gọi thời kỳ hiện nay là thời kỳ “Du lịch 4.0” ra đời cùng với cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Các ứng dụng kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, công nghệ thực tế ảo, dữ liệu lớn…được ứng dụng sẽ tạo động lực mới cho ngành du lịch để ngành này thực sự trở thành “ngành kinh tế mũi nhọn” của đất nước.

Có thể thấy các lợi ích như sau. (i) Đối với khách du lịch, công nghệ 4.0 góp phần thúc đẩy nhu cầu du lịch của người dân thông qua những thông tin hấp dẫn về điểm du lịch, sản phẩm du lịch của các địa phương mà họ tiếp cận được qua môi trường Internet, thông qua các hình ảnh, các thước phim 3D, 4D tái dựng các sự kiện, di tích lịch sử, văn hóa, các di sản thiên nhiên. (ii) Đối với các nhà quản lý, việc số hóa cơ sở dữ liệu du lịch như tài nguyên du lịch; Hệ thống các nhà hàng, khách sạn; Hệ thống giao thông… của mỗi địa phương sẽ giúp họ quản lý hoạt động du lịch một cách dễ dàng, thuận tiện hơn trước. (iii) Đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ du lịch, công nghệ 4.0 giúp họ mở rộng thị trường du lịch nhờ Internet kết nối vạn vật, qua đó, có thể giảm các chi phí quảng bá và tiếp thị sản phẩm, dịch vụ du lịch, nâng cao sức cạnh tranh và tăng thêm lợi nhuận của đơn vị.

CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG LÀNG NGHỀ

Trong xây dựng làng nghề. Đối với các làng nghề, cần thực hiện Quyết định số 924/QĐ-TTg ngày 2/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ về “Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh giai đoạn 2021 – 2025” (dưới đây, gọi tắt là “Chương trình”). Theo Quyết định này, chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới là giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh và chiến lược chuyển đổi số quốc gia.

“Chuyển đổi số” trong xây dựng nông thôn mới sẽ từng bước hình thành nông thôn mới thông minh, nâng cao hiệu quả hoạt động của cộng đồng, góp phần xây dựng nông thôn mới. Việc ứng dụng công nghệ số trong xây dựng nông thôn mới cũng nhằm đẩy mạnh xây dựng chính quyền số trong xây dựng nông thôn mới; Thúc đẩy kinh tế số trong phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao chất lượng đời sống người dân, thu hẹp dần khoảng cách về chất lượng dịch vụ giữa nông thôn - thành thị, từng bước hướng tới nông thôn mới thông minh. “Chương trình” gồm ba trụ cột: (i) Phát triển chính quyền số ở nông thôn; (ii) Phát triển các chủ thể kinh tế số ở nông thôn; (iii) Phát triển xã hội số cho cộng đồng dân cư ở nông thôn.

Đây là một cơ hội mới rất quan trọng để chúng ta có thêm căn cứ và nguồn lực trong nhiệm vụ xây dựng làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống thành “Làng nghề văn hóa”. Việc thực hiện Chương trình này có thể dựa theo những nội dung các phần đã trình bày trên đây về Chính phủ số, xã hội số, công dân số.

Trong bảo tồn di sản văn hóa làng nghề. Có thể thực hiện một số việc cụ thể như: (i) Ứng dụng phần mềm thuyết minh tự động gồm nhiều ngôn ngữ khác nhau để phục vụ khách tham quan hội chợ, triển lãm sản phẩm làng nghề; (ii) Thực hiện số hóa di sản văn hóa làng nghề để thuận tiện trong việc lưu giữ, phục vụ nghiên cứu và quảng bá những giá trị của di sản văn hóa; (iii) Ứng dụng công nghệ 3D trong việc bảo tồn, phục dựng di sản văn hóa vật thể, các di vật, cổ vật hoặc những công trình kiến trúc nghệ thuật của di tích đã bị xuống cấp, hoặc bị hủy hoại bởi khí hậu và thời gian.

Đối với nghề, làng nghề có nguy cơ mai một. Cả nước ta hiện có tới 171 làng nghề có giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc. Nhưng hoạt động cầm chừng, không ổn định, có nguy cơ mai một; Một số nghề có nguy cơ thất truyền. Có thể ứng dụng công nghệ 4.0 trong các việc như: Phục dựng các quy trình công nghệ của các nghề đang có nguy cơ mai một, dựng thành phim, ảnh, băng hình ... kèm theo thuyết minh, có hình ảnh nghệ nhân, thể hiện truyền thống nghề thủ công của làng, lưu giữ làm tài liệu nghiên cứu sau này.

Tóm lại, cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc chưa từng có, thúc đẩy công cuộc phát triển đất nước ta trên cơ sở chuyển đổi số với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Văn bản của Đảng, Nhà nước đã ban hành khá đầy đủ. Làng nghề chúng ta cần nắm vững và có biện pháp ứng dụng phù hợp, đem lại những hiệu quả thiết thực cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh và cho các làng nghề, đưa làng nghề cùng tiến lên theo xu hướng chung của khoa học, kỹ thuật hiện đại.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

LNV - Khuyến công gắn với định hướng phát triển kinh tế – xã hội Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Bà Rịa – Vũng Tàu xác định công nghiệp là trụ cột chủ lực, chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch cơ cấu từ khai khoáng san
Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

LNV - Trường THCS Nguyễn Trường Tộ là ngôi trường thuộc TOP trường THCS chất lượng tốt ở Hà Nội. Để đạt được những thành tích đáng tự hào ấy, Trường THCS Nguyễn Trường Tộ luôn chú trọng đổi mới việc dạy và học với phương châm ”Lấy học sinh làm trung tâm”,
Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

LNV - Những ngày này, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hải Phòng đang tất bật chuẩn bị cho Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc. Năm nay, lễ hội mang ý nghĩa đặc biệt hơn khi Đền Kiếp Bạc và Chùa Côn Sơn nằm trong quần thể di tích, danh thắng được UNESCO côn
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm g
Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

LNV - Nằm ở vùng trung du giàu truyền thống cách mạng, xã Hoàng Vân (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh) không chỉ được biết đến bởi những dấu ấn lịch sử, mà còn nổi bật với một loại cây đặc sản mang lại giá trị kinh tế cao: trám đen. Cứ vào độ cuối tháng 6 đế
Giao diện di động