Hà Nội: 34°C Hà Nội
Đà Nẵng: 32°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 32°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 32°C Thừa Thiên Huế

500 năm định danh gốm cổ Thanh Hà

LNV - Không sở hữu vẻ đẹp sang trọng, tinh xảo về đường nét, kiểu dáng cùng với những gam màu đầy lung linh, quyến rũ như các dòng gốm danh tiếng xứ Bắc như Chu Đậu, Bát Tràng, Phù Lãng... gốm Thanh Hà suốt 500 năm qua luôn giữ cho mình nét duyên thầm riêng có. Bằng chất gốm dày, giản đơn, thô mộc và gần gũi như chính cái tình của đất và chất quê hồn hậu, nôm na, dễ gần của người xứ Quảng, để từ đó định danh nên một dòng gốm cổ nổi tiếng nhất miền Trung.


Gốm Thanh Hà trong ứng dụng trang trí kiến trúc.


Từ giấc mơ được chén của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng

Truyền thuyết kể rằng, sau khi lập Dinh trấn Thanh Chiêm (năm 1602) ở Điện Bàn, Quảng Nam, vào một đêm nằm ngủ, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng mộng thấy có người đàn bà đẹp xưng là nữ thần hiện lên dâng cho mình một chiếc chén rất đẹp và dặn rằng, Chúa hãy đi tới đất Nam Diêu (tức làng Thanh Hà ngày nay), cách 3 dặm về phía Bắc, sẽ tìm thấy nơi lập làng nghề mới cho dân đặng làm kế ổn định mà xây dựng cơ nghiệp về sau.

Sáng hôm sau, Chúa Tiên theo lời dặn vượt qua con sông đi về phía Bắc chừng 3 dặm thì thấy một ngôi miếu nhỏ có tên là miếu Nam Diêu. Kỳ lạ thay, trong miếu có bày chiếc chén đất nung giống y như chiếc chén mà nữ thần đã tặng Chúa trong giấc mộng. Thấy giấc mộng ứng với điềm lành, chúa âm thầm sai người ra Bắc chiêu mộ thợ giỏi vào làm nghề, từ đó hình thành nên làng gốm Thanh Hà.

Cá chép đất chưa qua nung.


Chuyện ấy thực hư không rõ thế nào, nhưng cứ chiếu theo sử sách và các tài liệu gia phả cổ của các dòng họ ở làng Thanh Hà hiện có thì thấy rằng, sau chiến thắng Trà Bàn (1471), vua Lê Thánh Tông đặt nơi đây làm đạo Thừa tuyên Quảng Nam, đánh dấu cho sự ra đời của danh xưng Quảng Nam, điều đó cũng đồng nghĩa với việc làng Thanh Hà cũng ra đời vào khoảng thời gian này. Bên cạnh đó, theo các nhà nghiên cứu, đình làng Thanh Hà được lập muộn nhất vào đầu thế kỷ thứ 16. Và theo lẽ tự nhiên, để có đình thì trước đó một thời gian lâu dài nơi đây đã có cư dân sinh sống và lập làng, lập ấp. Vì vậy có thể khẳng định rằng làng Thanh Hà được lập vào khoảng thế kỷ 15.

Đáng chú ý, trong các tài liệu của Viện Viễn Đông bác cổ thực hiện vào năm 1941-1943 cho biết, làng Thanh Hà có 8 vị tiền hiền của 8 tộc gọi là “bát tôn”, gồm tiền hiền tộc Nguyễn Văn, Nguyễn Viết, Nguyễn Đức, Nguyễn Kim, Ngụy Như, Bùi Phước, Võ Đình, Võ Văn. Cư dân trong làng ngoài nghề làm nông còn có nghề làm gạch, ngói, đồ gốm. Riêng trong gia phả của hầu hết các dòng họ này còn ghi rõ thủy tổ của họ là người Thanh Hóa di cư vào khai khẩn đất Thanh Hà. Cũng theo các tài liệu của Viện Viễn Đông bác cổ, thời nhà Nguyễn, nghề làm gạch, ngói của làng Thanh Hà rất phát triển, một số thợ giỏi được vời ra kinh đô Huế làm tại tượng cục, tức quan xưởng chuyên lo việc chế tác đồ ngự dụng, tàu thuyền, súng ống, đúc tiền và vật liệu xây dựng. Thậm chí có ông Bùi Phước Thạnh giỏi nghề nung ngói và gạch lưu ly còn được vua Minh Mạng phong trật Chánh Cửu phẩm, hay như ông Bùi Phước Châu được vua Thiệu Trị phong trật Tòng Cửu phẩm.

Nghệ nhân Nguyễn Văn Chín tranh thủ lúc nông nhàn làm thêm sản phẩm ông Táo đất.


Lại nói về cái sự độc đáo của nghề gốm Thanh Hà. Thuở xưa, sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán Triều Nguyễn ghi danh gốm Thanh Hà là thổ sản của xứ Quảng Nam. Người Thanh Hà làm gốm không chuộng lấy cái hình thức tinh xảo, óng chuốt như gốm Chu Đậu, Bát Tràng ở ngoài Bắc mà chú trọng vào cái sự chắc khỏe có phần thô mộc, giản dị và gần gũi của mỗi món đồ làm ra. Vì lẽ đó, gốm Thanh Hà đa phần là đồ gốm nung, không tráng men, ít trang trí và cốt gốm dày dặn. Sản phẩm làm ra chủ yếu theo cách chuốt nặn bằng tay trên bàn xoay đạp chân và đem nung trong lò đốt củi. Người thợ giỏi có thể nhìn sắc màu ngọn khói tỏa ra từ lò nung mà đoán được gốm chín hay chưa. Sản phẩm khá phong phú, đa dạng từ các loại chum, hũ, lọ, om, bình, nồi, bình vôi, tò he, bùng binh, ngói các loại...

Ông Táo đất vừa mới ra lò, sản phẩm quen thuộc của làng gốm Thanh Hà.


Kể từ chuyện Chúa Tiên Nguyễn Hoàng nằm mộng được tặng chén tiên rồi hình thành nên nghề gốm đến nay, đã trải mấy trăm năm dâu bể, nghề gốm Thanh Hà cùng với đúc đồng Phước Kiều, mộc Kim Bồng không chỉ được định danh mà còn tạo thành bộ ba chân kiềng nghề thủ công lừng danh xứ Quảng, để cho câu hát “Thanh Hà vẫn gạch bát nồi / Thuốc thơm Cẩm Lệ mấy đời lừng danh” còn truyền tụng đến muôn đời sau.

Đến làng nghề di sản nổi danh thời hậu thế

500 làng gốm cổ Thanh Hà có lẽ cũng sẽ đi vào quên lãng nếu như không có sự giữ gìn và phát triển của lớp lớp hậu bối về sau. Ngày nay, tuy công nghệ làm gốm đã phát triển vượt bậc so với trước nhưng người Thanh Hà chủ yếu vẫn giữ cách làm gốm theo lối thủ công như cha ông họ từ hàng trăm năm về trước. Đó là lối làm gốm bằng bằng xoay đạp chân, nung củi, không tráng men và ít trang trí.

Bàn xoay đạp chân, một kỹ thuật làm gốm cổ của người Thanh Hà.


Để theo kịp với xu thế mới, một số nghệ nhân trẻ của làng cũng ra sức tìm tòi những phương thức mới, chủ yếu để sản xuất các dòng sản phẩm gốm trang trí có tính mĩ thuật cao và cũng đã gặp hái được không ít thành công, nhưng đa phần vẫn thích phong cách làm gốm cũ bởi có lẽ nó thể hiện được cái hồn và bản sắc riêng của gốm Thanh Hà mà không nơi nào có được. Vì vậy sản phẩm làm ra tuy có mang dáng dấp thời thượng nhưng người ta vẫn thấy ở đó phảng phất sự dung dị, khỏe khoắn vốn có của chất gốm xứ này.

Trong xu thế đời sống hiện nay người làm gốm Thanh Hà cũng có cái lo chung trong chuyện cơm áo gạo tiền. Đó là làm sao vừa bảo tồn được nghề xưa nhưng đồng thời cũng phải tìm cách sống được với nghề, bởi suy cho cùng gốm không phải là nghề dễ làm giàu như bao nghề khác. Vì thế, ngoài những sản phẩm truyền thống đang có đầu ra tạm ổn như nồi, niêu, om, bùng binh... nhiều người cũng bắt đầu tìm cách chuyển hướng sang sản xuất những mặt gốm trang trí có tính ứng dụng cao như tranh, tượng, phù điêu, chân đèn, chậu hoa... Thậm chí có người còn tranh thủ lúc nông nhàn giữa năm làm thêm ông Táo đất để phục vụ thị trường cúng ông Công ông Táo vào dịp cuối năm.

Chữ bằng gốm trang trí ở một homestay.


Nghệ nhân Nguyễn Văn Chín của làng gốm Thanh Hà cho biết, giờ cũng ít người theo nghề làm Táo đất, ngay trong nhà ông cũng chỉ có ông và vợ cặm cụi làm cho vui chứ hai đứa con cũng không ham. “Làm Táo đất thu nhập không nhiều nhưng nếu chịu khó cũng đủ lo được một cái Tết tươm tất cho gia đình, với lại được cái vui và giữ được nghề xưa để làm du lịch”, ông Chín nói.

Một tín hiệu khả quan cho làng nghề gốm Thanh Hà đó là kể từ khi Hội An trở thành trung tâm du lịch của miền Trung thì làng cũng trở thành điểm thu hút khách tham quan. Ngoại trừ sự ảnh hưởng của đợt dịch COVID-19 lần này, còn như mọi năm lượng du khách đến làng khá đông, vừa giúp người dân có điều kiện tăng thêm thu nhập từ việc bán đồ gốm lưu niệm và các dịch vụ khác vừa tạo thêm không khí sôi động của làng nghề. Nắm bắt được cơ hội này, chính quyền địa phương và người dân cũng nhanh nhạy và năng động mở thêm nhiều hoạt động quảng bá du lịch như tổ chức lễ hội làng nghề, làm homestay, mở hiệu buôn bán đồ gốm mĩ nghệ, mở tour khám phá cho du khách tự tay trải nghiệm làm gốm...

Bùng binh đất (hay còn gọi đồng binh, một dạng heo đất đựng tiền tiết kiệm), sản phẩm truyền thống của làng gốm Thanh Hà.


Theo thông tin từ Cục Di sản Văn hóa của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch, làng Thanh Hà hiện có 32 hộ làm gốm với 134 lao động trên tổng số 320 hộ, trong đó có 5 hộ làm gốm truyền thống, 13 hộ làm con thổi, số còn lại là hộ làm gốm mỹ nghệ và có ít nhất là 3 người buôn gốm chuyên nghiệp. Cả làng hiện có 4 lò gốm truyền thống (lò úp, lò bầu), 4 lò ngửa để nung gốm mĩ nghệ, 5 lò ngửa để nung con thổi. Đội ngũ thợ gốm ở Thanh Hà hiện nay đều là hậu duệ của các dòng họ làm gốm nổi tiếng như họ: Nguyễn Viết, Nguyễn Văn, Ngụy, Bùi, Phạm, Lê... nối mạch cao quý một trong những dòng gốm lâu đời nhất Việt Nam.

Làng gốm Thanh Hà thuộc phường Thanh Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Làng nằm ngay bên bờ sông Thu Bồn, cách phố cổ Hội An chừng 3km về hướng Tây. Hằng năm, vào ngày mùng 10 tháng Bảy (âm lịch) lễ giỗ tổ làng nghề diễn ra rất long trọng tại khu miếu cổ Nam Diêu với nhiều hoạt động văn hóa, tâm linh rất đặc sắc. Ngay giữa làng gốm Thanh Hà hiện có Công viên đất nung rộng hơn 5.000m2, là nơi trưng bày nhiều sản phẩm gốm đặc sắc của Thanh Hà, là bảo tàng và địa chỉ tham quan gốm độc đáo của Việt Nam.

Theo Thái Hoàng

Tin liên quan

Tin mới hơn

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.
Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.

Tin khác

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng

LNV - Tạp chí Làng Nghề Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng” của đồng chí Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH T.W Đảng cộng sản Việt Nam.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Hiệu quả mô hình “Nông dân dạy nông dân”

Hiệu quả mô hình “Nông dân dạy nông dân”

LNV - Mô hình “Nông dân dạy nông dân” do Hội Nông dân tỉnh (nay là Ban công tác nông dân tỉnh, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh) triển khai từ năm 2019, theo hướng các hộ sản xuất, kinh doanh giỏi trực tiếp hỗ trợ hộ nghèo về vốn và kỹ thuật bằng hình thức “cầm tay chỉ việc”, giúp giảm tỷ lệ hội viên thoát nghèo đạt từ 3%/năm trở lên.
Ra mắt hiệp hội OCOP & Doanh nhân DNS "Chapter Hải Dương"

Ra mắt hiệp hội OCOP & Doanh nhân DNS "Chapter Hải Dương"

LNV - Hiệp Hội OCOP và Doanh nhân là Tổ chức xã hội nghề nghiệp được thành lập ra để bảo vệ, quảng bá truyền thông sản phẩm OCOP, là cầu nối tới người tiêu dùng, Doanh nhân và Doanh nghiệp trong nước và quốc tế, với tinh thần "Tương trợ- Trao cơ hội".
An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

LNV - Suốt hàng chục năm qua, nghề chẻ đá tại ấp Hòn Sóc, xã Hòn Đất vẫn được người dân nơi đây duy trì như một phần không thể thiếu trong cuộc sống mưu sinh. Mỗi buổi sáng, cả bãi đá rộng lớn vang lên âm thanh đặc trưng của làng nghề: tiếng máy cắt xèng
Thông điệp về khát vọng hùng cường từ đại lễ 80 năm Quốc khánh

Thông điệp về khát vọng hùng cường từ đại lễ 80 năm Quốc khánh

LNV - Sáng mùng 2 tháng 9 năm 2025, Quảng trường Ba Đình lại một lần nữa chứng kiến thời khắc lịch sử. Tám mươi năm sau mùa thu 1945, Việt Nam đã kỷ niệm Quốc khánh bằng một đại lễ choáng ngợp, vừa trang nghiêm, vừa rực rỡ, vừa thấm đẫm niềm tự hào dân tộc.
Bánh gio - món ăn truyền thống của người Tày

Bánh gio - món ăn truyền thống của người Tày

LNV - Giữa đại ngàn xanh thẳm của vùng cao Đông Bắc, người Tày vẫn gìn giữ một món bánh giản dị nhưng đậm đà bản sắc – bánh gio. Bánh được làm từ gạo nếp thơm ngâm nước tro vỏ cây, gói trong lá chít và nấu bằng lửa nhỏ. Bánh gio mang hương vị thanh mát, m
Giao diện di động