Hà Nội: 26°C Hà Nội
Đà Nẵng: 28°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 33°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 32°C Thừa Thiên Huế

Vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp trong việc phát triển Làng nghề

LNV - Theo số liệu của Bộ NN và PTNT “Hiện có 427 Hiệp hội ngành nghề Trung ương và hàng nghìn hiệp hội nghề địa phương. Có tới 60% số làng nghề có tổ nghề được nhân dân thờ phụng nhiều đời”.
Các tổ chức xã hội (TCXH) nghề nghiệp có vai trò ảnh hưởng trực tiêp đến phát triển làng nghề không nhiều. Thí dụ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (Vietnam Chamber of Commerce and Industry) VCCI chủ yếu là tổ chức quốc gia tập hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, chủ lao động và các hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam. Hoặc như Liên minh HTX Việt Nam Vieetnam Cooperative Allianc (VCA) là tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp HTX, tổ hợp tác…, được thành lập theo quy định của pháp luật HTX, hoạt động liên quan đến kinh tế tập thể, HTX.


Ông Nguyễn Vi Khải - Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.


Một số các hiệp hội chuyên ngành xuất nhạp khẩu xúc tiến thương mại. có nhiều đóng góp hơn như: Hiệp hội Xuất khẩu Hàng thủ công Mỹ nghệ Việt Nam (VIETCRAFT) là tổ chức xã hội nghề nghiệp phi lợi nhuận của những người, tổ chức và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam; Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) là tổ chức xã hội – nghề nghiệp phi lợi nhuận, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng của các tổ chức, cá nhân của mọi thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, tiêu thụ, dịch vụ thuộc chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật dệt may Việt Nam; Hiệp hội Da - Giầy-Túi xách Việt Nam, trước đây là Hiệp hội Da Giầy Việt Nam, là tổ chức xã hội nghề nghiệp phi lợi nhuận của những người, tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực da giày. (Leather, Footwear and Handbag Association), LEFASO.

Các TCXH – nghề nghiệp có vai trò trực tiếp phát triển làng nghề

Các TCXH nghề nghiệp loại này chủ yếu hoạt động ở 2 cấp tỉnh thành và Trung ương với định danh theo 3 dạng: Một là theo ngành nghề có các Hội nghề gốm sứ hoặc mây tre đan hoặc hội nghề gỗ, sơn mài ...Hai là có tên bao quát hơn như Hội nghề thủ công mỹ nghệ tỉnh A, B..Thứ Ba tên gọi kết hợp vừa theo sản phẩm vừa gắn với tên địa phương.. thí dụ Hiệp hội gốm sư Bát Tràng.. Hiệp hội gỗ đồ thờ Sơn Đồng….Trong các loại hiệp hội này phải nói đến Hiệp hội Làng nghề Việt Nam là có phạm vi toàn quốc.

Định vị vị thế - Hiệp hội Làng nghề Việt Nam là TCXH - nghề nghiệp có tầm bao quát ở TW và là Hiệp hội thành viên của MTTQ Việt Nam.

Định danh loại hình TCXH: Hiệp hội Làng nghề Việt Nam là TCXH - nghề nghiệp phi chính phủ, phi lợi nhuận của những người và các làng nghề, phố nghề truyền thống, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, văn hóa có trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn và phát triển các làng nghề, phố nghề ở Việt Nam. Tên tiếng Anh là Vietnam Association of Craft Villages, viết tắt là VICRAFTS

Mục đích của Hiệp hội là tập hợp, đoàn kết các làng nghề, các tổ chức kinh tế, văn hoá, các nghệ nhân trong làng nghề, phố nghề, các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà văn hoá, các cơ quan nghiên cứu, đào tạo để cùng với các cơ quan Nhà nước thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về khôi phục và phát triển làng nghề, góp sức bảo tồn, phát triển làng nghề Việt Nam; Thực hiện liên kết, hợp tác giữa các tổ chức kinh tế - kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nâng cao giá trị sản phẩm, giá trị văn hóa của các mặt hàng của làng nghề; Hỗ trợ nhau trong việc mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm.


Đại biểu dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm


Định hướng quá trình hoạt động: Từ khi thành lập cho đến nay, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động phong phú và hiệu quả; Thực hiện 6 chương trình công tác đó là: Chấn hưng và phát triển làng nghề; Phát triển doanh nghiệp làng nghề; Xúc tiến thương mại; Thông tin; Văn hóa, Du lịch làng nghề; Đối ngoại. Các nội dung hoạt động của Hiệp hội đều gắn kết với chủ trương của Nhà nước như: Chương trình “Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Mỗi xã một sản phẩm - OCOP”; Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Định hình tư cách pháp nhân TCXH: Hiệp hội Làng nghề Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 22/2005/QĐ-BNV ngày 3/2/2005. Đại hội lần thứ nhất của Hiệp hội đã được tổ chức ngày 20/5/2005 tại Hà Nội; Hiệp hội đặt trụ sở hoạt động tại 14 ngõ 2, phố Hoa Lư TP. Hà Nội. Qua 15 năm xây dựng và phát triển, được sự tham gia nhiệt tình của đông đảo hội viên trong cả nước; Sự hoạt động tích cực của các ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường trực, cùng với sự ủng hộ của các cơ quan Nhà nước liên quan, Hiệp hội đã đạt được những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam.

Qua 04 kỳ Đại hội, Hiệp hội đã có đội ngũ lãnh đạo gồm các chuyên gia, các nhà khoa học, kinh tế, nhà văn hóa - xã hội từng công tác tại các cơ quan Nhà nước, nay về tham gia hoạt động tại Hiệp hội, đã chỉ đạo, tư vấn sát sao, góp phần tạo nên sức sống mới của làng nghề Việt Nam. Tổ chức Hiệp hội có Hội đồng Tư vấn; Hội đồng Liên lạc các Câu lạc bộ Nghệ nhân làng nghề Việt Nam; 01 Viện Nghiên cứu; Tạp chí Làng nghề Việt Nam in và điện tử, có ấn phẩm OCOP in và điện tử; 7 Văn phòng Đại diện; 15 Trung tâm, 10 ban chuyên môn, 03 câu lạc bộ; Trên 13.000 hội viên ở 61/64 tỉnh, thành phố (nhiều hội viên là tổ chức Tỉnh hội, Thành hội và hội viên tập thể); Góp phần xây dựng các làng nghề tiêu biểu ở các vùng miền..

Hoạt động Tôn vinh nghệ nhân: Từ năm 2007 đến 2019, qua 9 lần phong tặng, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã xét và phong tặng: 72 danh hiệu “Làng nghề tiêu biểu”; 72 Đơn vị Kinh tế Làng nghề tiêu biểu; 835 Nghệ nhân Làng nghề Việt Nam (trong đó có 62 Nghệ nhân VHNT Ẩm thực làng nghề Việt Nam); 06 Bảo vật tinh hoa làng nghề; 95 Sản phẩm Thủ công mỹ nghệ Làng nghề tiêu biểu; 68 Thợ giỏi; 115 Bảng vàng gia tộc Nghề truyền thống Việt Nam. Nhà nước đã tiến hành 3 lần phong tặng Nghệ nhân Quốc gia, có 17 Nghệ nhân Nhân dân, 120 Nghệ nhân Ưu tú, trong đó có 14 Nghệ nhân Nhân dân và 63 Nghệ nhân Ưu tú là hội viên của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.

Hoạt động Truyền thông: Hiệp hội coi trọng công tác thông tin truyền thông, báo chí. Ngoài trang Web của Hiệp hội, Tạp chí Làng nghề Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Hiệp hội đã duy trì in đều đặn 4 kỳ/ tháng, ấn phẩm OCOP 1 kỳ/ tháng, với chất lượng ngày càng nâng cao. Với nội dung tuyên truyền giới thiệu hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động của Hiệp hội, về nông thôn mới, OCOP, khuyến công, dạy nghề, xúc tiên thương mại CMCN 4.0 và hội nhập FTA, EVFTA, CPTPP,....Tạp chí đã góp phần nâng cao hiểu biết về làng nghề về luật pháp chính sách, tôn vinh nghệ nhân.Tạp chí thực sự trở thành tài liệu cẩm nang và quảng bá cho sản phẩm làng nghề đúng định hướng hoạt động của Hiệp hội.

Mở rộng quan hệ với các nước: Song song với các hoạt động nghề nghiệp, Hiệp hội đã mở rộng các hoạt động đối ngoại; Trang bị đầy đủ kiến thức để tìm đầu ra cho các sản phẩm tại nước ngoài; Đẩy mạnh việc tổ chức và phối hợp thực hiện các đoàn tham gia hội chợ, khảo sát; Đón tiếp các đoàn khách quốc tế đến tìm hiểu, làm việc và khảo sát trực tiếp tại một số làng nghề để giới thiệu, quảng bá sản phẩm, tìm đầu ra cho sản phẩm, kết nối thông tin tạo du lịch làng nghề với nhiều màu sắc văn hoá Việt.

Kết nối với địa phương: Hiệp hội đã phối hợp với chính quyền một số địa phương xây dựng tổ chức, phát triển nghề tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ít người; Phát triển chương trình tham quan, giao lưu, kết nối giữa các làng nghề và nghệ nhân tại các vùng, miền nhằm thực hiện mục tiêu “Kết nối cộng đồng làng nghề - Bảo tồn Văn hóa - Phát triển Du lịch - Hội nhập Quốc tế” và tổ chức “Ngày Di sản Văn hóa nghề, làng nghề truyền thống hội nhập quốc tế” nhân “Ngày Di sản Văn khóa Việt Nam, từ 19/11/2020 đến 23/11/2020 tại Hà Nội.

Hoạt động của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển Làng nghề với 7 mảng công tác như sau:

Đại diện hợp pháp bảo về quyền lợi cho hội viên. Đủ tư cách pháp nhân trong HTCT.

Tạo môi trường liên kết, hợp tác giữa các hội viên trong sản xuất kinh doanh; Xúc tiến thương mại, dịch vụ, đầu tư, nghiên cứu khoa học, tìm hiểu khảo sát thị trường trong và ngoài nước.

Tổ chức thông tin tuyên truyền quảng bá doanh nghiệp. Tổ chức hội thảo, tọa đàm, triển lãm, xuất bản ấn phẩm thông tin, nâng cao thương hiệu.

Làm đầu mối giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các hội viên, nhằm hạn chế tối đa thiệt hại do tranh chấp gây ra, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh đúng pháp luật.

Tư vấn, hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn các doanh nghiệp về quản lý, pháp luật, nghiệp vụ kinh doanh...

Quán triệt đường lối chủ trương chính sách của Nhà nước, tuyên truyền giáo dục hội viên, tổ chức tư vấn giám sát và phản biện xã hội …

Mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia các hiệp hội quốc tế có liên quan để tranh thủ và tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp kiếm đối tác, thị trường, khách hàng.

Những sự kiện minh hoạ từ quá trình kết nối: Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp (DN) làng nghề Bánh đậu xanh ở Hải Dương thoát hình sự hoá. Tạo ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ lò cao tần trên 1000 độ giữa Làng Gốm Bát Tràng với Làng Rèn Đa Sĩ – Tạo kết nối giao lưu giữa các làng nghề với thị trường hàng thủ công mỹ nghệ nước ngoài cần chỉ dẫn địa lý và sở hữu trí tuệ qua các hội thảo trong ngoài nước. Giúp DN có kiến thức về Chiến lược Tiếp cận thông tin và Maketing khác nhau thế nào. Giới thiệu tấm gương tiêu biểu của DN thành viên hiệp hội và tham gia các Hội ngành các cấp. Góp phần nâng cao nhận thức về Chiến lược sản xuất kinh doanh hiện đại và thị trường bằng bí quyết 5 – 7 chữ M trong sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện các nghệ nhân phát huy vai trò bảo tồn làng nghề sống khoẻ và có tác động tích cực vào quá trình phát triển. Tư vấn kết nối Du lịch làng nghề với công thức 1-3-5 (1 hạ tầng tốt- 3 vùng lõi- dịch vụ - văn hoá lịch sử, tâm linh…; 5 yêu cầu: Sơ đồ chỉ dẫn Du lịch, Hướng dẫn viên, Lịch trình thời gian, các Dịch vụ Y tế an toàn, có camera điều hành).

Có thể nói sự tụ họp thành nhóm của loài người đã diễn ra như một quy luật bất biến – nó chỉ khác nhau về quy mô hình thức, định danh tên gọi ... và xu hướng ngày càng phong phú. Các TCXH ở Việt Nam nói chung, các TCXH nghành nghề nói riêng đã hiện diện khá đông đủ và góp phần phát triển làng nghề như đã từng thấy. Hiệp hội nghề nghiệp ấy như cặp bài trùng góp phần tạo nên bức tranh toàn cảnh hình ảnh Việt Nam tiến tới thịnh vượng nhưng vẫn gìn giữ bản sắc văn hoá có cội nguồn.

Hiệp hội nghành nghề của những người lao động khu vực làng nghề đã góp phần làm thức dậy một tiềm năng, một sức sống hàng ngàn năm bị xâm thực mà không mất bản sắc văn hoá. Không những thế còn đồng hoá cái dị biệt ngoại lai của đối phương thành cái phù hợp đề tồn tại.

Qua những hoạt động sôi nổi, sâu rộng, uy tín, sức lan tỏa của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam được nâng cao; Các cơ quan quản lý Nhà nước tôn trọng và ghi nhận; Nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp đánh giá cao; Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nghệ nhân, thợ giỏi, thợ thủ công làng nghề tín nhiệm, tin cậy, coi là mái nhà chung của cộng đồng làng nghề cả nước.

Trong 3 thập niên gần đây làng nghề Việt Nam đã khởi sắc. Với số lượng “cả nước có 5.411 làng nghề... trong đó có 1.864 làng nghề truyền thống (115 nghề truyền thống) thu hút gần 11 triệu lao động...bao gồm 12 nhóm nghề gốm sứ, mây tre đan, gỗ, đồng, dệt thổ cẩm...Riêng hàng thủ công mỹ nghệ đã có 2000 doanh nghiệp và cơ sở tham gia xuất khẩu đạt kim ngạch tới 2 tỷ USD. Thị trường Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng tới 40%, tiếp theo là Đức và Nhật Bản” .

Sự phát triển của làng nghề gắn với sự lớn mạnh của Hiệp hội như là một hiện tượng “cộng sinh tất yếu” sự phát triển làng nghề là điều kiện, là tiền đề cho sự ra đời của Hiệp hội và ngược lại- sự ra đời của Hiệp hội là tác nhân thúc đẩy làng nghề phát triển. Hiệp hội gắn với Làng nghề như là một cặp đôi tương thích xã hội có tính quy luật. Giá trị cốt lõi của Hiệp hội trong mấy nhiệm kỳ qua không chỉ thúc đẩy nâng tầm quan trọng vị thế của làng nghề mà điều đáng ghi nhận là đằng sau những thành tích giải quyết việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động thì là các giá trị vật thể và phi vật thể thực sự chính là những di sản văn hoá tầm quốc gia không thể cân đong đo đếm bằng tiền bạc.

Đánh giá của Đảng và nhà nước : Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã có Quyết định số 1269/QĐ-CTN ngày 28/7/2020 về việc tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba cho Hiệp hội Làng nghề Việt Nam vì “Đã có thành tích xuất sắc trong công tác bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhiều thành viên nhận được bằng khen và danh hiệu cao quý. Tất nhiên hoạt động của Hiệp hội còn hạn chế và yếu kém do thực lực còn mỏng, cơ sở vật chất còn nghèo nàn. Sự quan tâm của các cấp còn hạn chế.

Những kiến nghị

Thứ nhất về nhận thức: Sự phát triển các TCXH nghề nghiệp sẽ là xu hướng chung tầm toàn cầu. Phải chăng cá TCXH nghề nghiệp không mang ý nghĩa chính trị? Việc cực đoan coi nhẹ vai trò của các TCXH này thể hiện qua các chính sách là điều làm triệt tiêu động lực xã hội không nên có.

Nhận thức về khu vực kinh tế làng nghề không nên phiến diện đánh gíá qua con số bao nhiêu tỷ đồng ...bởi vì giá trị kinh tế tuy nhỏ so với sản xuất đại công nghiệp nhưng giá trị cốt lõi của kinh tế làng nghề là giá trị vật thể và phi vật thể tầm di sản văn hoá. Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan..đã làm từ thế kỷ trước. Hơn nữa Làng nghề chủ yếu là mô hình kinh tế hộ gia đình, tư nhân gần đây đã khẳng định là động lực quan trọng.


Thứ hai về hành lang pháp lý: Các TCXH đang chờ những Luật thông thoáng căn cơ hơn như luật về quyền lập Hội, nhiều thập niên “nợ đọng”không tương xứng với sự phát triển của đất nước và thời đại. Phải chăng đây là sức ỳ của tư duy hay vướng về quan điểm. Chúng ta đã và đang trải qua thời khắc của Thiên niên kỷ thứ 3 với đặc điểm hội nhập và Công nghệ chuyển đổi số mạnh mẽ. Không phải ngẫu nhiên các hiệp định FTA thế hệ mới chú trọng vai trò của các TCXH trong văn bản ký kết.

Với các văn bản hiện hành cần rà soát lại với tinh thần tư duy mới tầm chiến lược đặt các TCXH với vị thế đối tác “không thể thiếu” (theo cách diễn đạt của K. Marx) và đúng với tầm hiến dịnh: “vai trò giám sát Tư vấn và phản biện xã hội” - thực sự cần thiết bằng những luật hoặc văn bản thể chế hoá chủ trương này như văn bản 501ND-TTg “Về thí điểm phản biện khoa học chuyên nghiệp” đã triển khai tại VUSTA từ năm 2015 đề nghị tổng kết và triển khai đại trà với các TCXH khác...

Thứ ba, kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý với mô hình kinh tế hộ gia đình – đặc trưng của sản xuất kinh doanh làng nghề. Phải chăng đó cũng là một nội dung quan trọng góp phần“Định hướng chính sách xây dựng về làng nghề - Lý luận và thực tiễn” thành hiện thực và khả thi theo yêu cầu của hội nhập, phát triển bền vững.

Kiến nghị Nhà nước chủ trì xây dựng ngân hàng dữ liệu về làng nghề tiến tới có hệ thống số liệu thống kê về làng nghề một cách khoa học thống nhất toàn quốc và các tỉnh thành góp phần nghiên cứu, bảo tồn các giá trị của làng nghề bài bản như nhiều nước quanh ta. Họ có các bảo tàng sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở khắp nơi với mô hình đa dạng: Tư nhân, cộng đồng, quốc gia.

Kiến nghị Nhà nước, các cấp có chiến lược xây dựng phát triển các làng nghề kết hợp với du lich sinh thái, du lịch văn hoá tâm linh, ẩm thực… theo quy hoạch khoa học tránh tự phát. Đặc biệt, với hiện trạng một số nghề có thể mai một vì nhiều lý do kiến nghị cần xây dựng chương trình tôn vinh nghệ nhân, đào tạo lớp thợ trẻ kế cận với chính sách đãi ngộ thoả đáng.

Kiến nghị cuối cùng vấn đề môi trường và mặt bằng sản xuất kinh doanh liên quan với nhau. Sản xuất Làng nghề vốn gắn bó với khu dân cư việc hình thành các cụm công nghiệp làng nghề cần có quy hoạch khoa học và khả thi đồng bộ với hệ thống môi trường sinh thái nhân văn, tránh hiện trạng tự phát biến tướng của chia lô chiếm dụng đất đai của nhóm lợi ích đã nêu nhiều trong báo chí. Thực trạng đất đai bị chiếm dụng gây bất ổn xã hội thất thoát tài nguyên hiện nay là thách thức với Nhà nước và người sản xuất kinh doanh làng nghề. Đất đai đã biến thành nơi xây dựng nhà ở cao tầng sang tên đổi chủ đổi mục đích sử dụng thì hệ thống xử lý nước thải ô nhiễm môi trường càng khó giải quyết.

Nguyễn Vi Khải
PCT. HĐTV HH Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.

Tin khác

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

LNV - Ðại hội XIII của Ðảng xác định rõ: Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

LNV - Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm (Hà Nội) có hai nghề truyền thống là dát vàng bạc quì và may đồ da đã có từ lâu đời. Làm vàng bạc quì là một nghề truyền thống, chế biến vàng thật, bạc thật thành bột vàng, bạc (gọi là quì) bằng phương pháp sản xuất thủ công lâu đời, độc đáo.
Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình số 04-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVII về "Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành Nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân giai đoạn 2021-2025".
Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

LNV - Theo ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ NN-PTNT, Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ nhiều năm, tuy nhiên có thời điểm chúng ta sản xuất đại trà, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Vì vậy, thời gian tới phải nâng tầm hơn nữa cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

LNV - Đẩy mạnh việc tuyên truyền làm cho doanh nghiệp, hộ sản xuất, hộ kinh doanh dịch vụ hiểu và quan tâm về maketing và bán hàng online
Nghề và Làng nghề truyền thống

Nghề và Làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề, làng có nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo ra nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em; giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn.
Vai trò, vị thế của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam

Vai trò, vị thế của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam

LNV - Nhiệm kỳ 2018 – 2023 vừa qua, Hiệp hội và các tổ chức, hội viên đã triển khai Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường do tác động tiêu cực lâu dài của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, các cuộc xung đột vũ trang Nga – Ukraina; Israel – Hamas; Israel – Houthi, Israel – Iran…làm đứt gãy chuỗi cung ứng vật tư, nguyên, nhiên liệu toàn cầu, đặc biệt là xăng, dầu. Ảnh hưởng đến đến sức mua và làm suy giảm các thị trường xuất, nhập khẩu truyền thống. Tình hình trên làm cho sản xuất kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế và làng nghề trong cả nước bị đình đốn, việc làm và đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn.
Hướng đi bền vững để bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống

Hướng đi bền vững để bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo nhiều cơ hội việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em, giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có những hướng đi bền vững.
Văn hóa làng nghề trong văn hóa xứ Nghệ

Văn hóa làng nghề trong văn hóa xứ Nghệ

LNV - Làng nghề truyền thống là một nhân tố quan trọng trong văn hóa vùng miền. Với một vùng văn hóa độc đáo như xứ Nghệ, làng nghề có vai trò to lớn, là bông hoa đẹp trong bức tranh văn hóa chung. Làng nghề thể hiện sự đa dạng của văn hóa, thể hiện tính đặc sắc của địa phương. Và trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển làng nghề hợp lý là hướng đi đúng đắn để gắn bảo tồn văn hóa với phát triển kinh tế.
Phát triển bền vững du lịch làng nghề Thừa Thiên Huế

Phát triển bền vững du lịch làng nghề Thừa Thiên Huế

LNV - Du lịch lễ hội văn hoá, du lịch làng nghề truyền thống là một thế mạnh và nét đặc trưng vốn có của du lịch Thừa Thiên Huế hiện tại và trong tương lai. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần khai thác và phát huy các làng nghề truyền thống như một chiến lược phát triển du lịch bền vững gắn với cộng đồng dân cư địa phương, góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Gìn giữ tinh hoa làng nghề thời 4.0

Gìn giữ tinh hoa làng nghề thời 4.0

LNV - Người Việt Nam tự hào có những làng nghề truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm, vang danh xứ người. Thế nhưng, theo năm tháng, các làng nghề truyền thống đang ngày càng mai một. Bên cạnh đó, thời đại công nghệ 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức cho các làng nghề, đòi hỏi công tác duy trì, bảo tồn và phát triển làng nghề cần sự chung tay của nhiều thế hệ và chính quyền các cấp.
Lợi ích của việc bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Lợi ích của việc bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Nhiều năm qua, việc bán hàng online đã khá phổ biến với nhiều lĩnh vực và đã quen thuộc với nhiều khách hàng, nhưng trong lĩnh vực hàng thủ công mỹ nghệ rất ít cơ sở tham gia bán hàng online. Cho đến nay, chủ yếu là các cơ sở sản xuất đồ gốm và điêu khắc gỗ bắt đầu thực hiện bán hàng online.
Chuyển đổi số trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Chuyển đổi số trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

LNV - Bên cạnh cơ hội, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang phải đối mặt với những thách thức lớn từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số trong doanh nghiệp được xác định là giải pháp quan trọng, là xu hướng tất yếu để các doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng lực, lợi thế cạnh tranh, tăng tốc và phát triển.
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam

LNV - Công nghệ 4.0 phát triển mạnh mẽ giúp cho việc mua bán hàng hóa trực tuyến thuận tiện và phổ biến hơn bao giờ hết. Hơn nữa, khi dịch Covid-19 bùng nổ trên nhiều quốc gia với tốc độ lây lan nhanh chóng thì mua bán trực tuyến là giải pháp tối ưu thay thế cho phương thức mua bán truyền thống.
Hà Nội phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa

Hà Nội phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa

LNV - Thành phố Hà Nội là nơi có nhiều làng nghề truyền thống với 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó có 305 làng nghề truyền thống đã được công nhận thuộc 23 quận, huyện và thị xã. Đây là nguồn tài nguyên dồi dào cho phát triển công nghiệp văn hóa.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Hương vị đất trời

Hương vị đất trời

LNV - Thái Nguyên là vùng đất cư trú của người Việt thời tiền sử và sơ sử, rồi trở thành một châu vào thời Lý, thành trấn vào thời Trần, án ngữ vùng đất bao bọc phía bắc kinh đô Thăng Long. Tỉnh Thái Nguyên được vua Minh Mạng lập năm 1831, trở thành trung tâm hành chính - quân sự quan trọng của nhà Nguyễn cũng như thời Pháp thuộc. Những dòng người từ miền xuôi lên lập ấp, canh tác đã tạo thành một khu vực nông nghiệp đặc thù. Chất đất thích hợp với việc trồng chè ở các huyện Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú Lương… đã tạo ra thương hiệu đất chè cho tỉnh. Hầu như người Việt nào cũng biết đến câu “chè Thái, gái Tuyên” với hàm ý ca tụng phẩm chất của thức trà mạn đất Thái Nguyên cùng sắc đẹp và sự đảm đang của những người con gái tỉnh Tuyên Quang lân cận.
Ngày hội mắm Châu Đốc Tôn vinh ẩm thực kết nối kinh tế vùng miền

Ngày hội mắm Châu Đốc Tôn vinh ẩm thực kết nối kinh tế vùng miền

LNV - Nhằm giới thiệu đến du khách trong và ngoài nước những nét đẹp văn hóa, du lịch đặc trưng, và đồng thời khẳng định thương hiệu "Mắm Châu Đốc" của tỉnh An Giang, UBND tỉnh An Giang đã lên kế hoạch tổ chức Ngày hội mắm Châu Đốc, An Giang – OCOP và đặc sản các vùng miền lần thứ II năm 2024. Sự kiện này diễn ra từ ngày 29/8 đến 3/9/2024 tại Quảng trường phường Châu Phú A và các tuyến đường lân cận thuộc TP. Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Đà Nẵng: Phiên chợ Nông sản và Sản phẩm OCOP

Đà Nẵng: Phiên chợ Nông sản và Sản phẩm OCOP

LNV - Nhân dịp kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2/9, thành phố Đà Nẵng tổ chức phiên chợ nông sản và sản phẩm OCOP năm 2024. Phiên chợ diễn ra từ ngày 24- 25/8 tại Quảng trường Trung tâm quận Liên Chiểu, với quy mô gần 40 gian hàng đa dạng sản phẩm từ các quận, huyện của Đà Nẵng và các tỉnh lân cận như Quảng Nam và Thừa Thiên Huế.
Đắk Lắk: Nghiệm thu hoàn thành đề án khuyến công

Đắk Lắk: Nghiệm thu hoàn thành đề án khuyến công

LNV - Ngày 21/8/2024, Sở Công Thương Đắk Lắk; Trung tâm Khuyến công và Tư vấn Phát triển công nghiệp phối hợp với phòng Kinh tế và Hạ tầng, UBND xã Ea Pil, huyện M’Drắk tổ chức nghiệm thu đề án: Hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến trong sản xuất tinh dầu thảo dược tại Công ty TNHH Thương mại EPIS xã Ea Pil, huyện M’Drắk.
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động