Sáng tạo tiếp nối truyền thống

LNV - Không chỉ góp phần bảo tồn được nghề làm giấy dó truyền thống của gia đình và của làng nghề Dương Ổ xưa, cô gái trẻ thế hệ 9X Ngô Thu Huyền còn tìm tòi, vận dụng những kỹ thuật làm giấy mới, tạo nên những loại giấy mang tính ứng dụng cao, đưa giấy dó nhập cuộc với đời sống hiện đại, phù hợp nhu cầu sử dụng đa dạng.
Nghề giấy dó ở Dương Ổ, phường Phong Khê, TP Bắc Ninh có gốc tích từ mấy trăm năm trước, nhưng từ bao giờ thì khó có thể biết được một cách chính xác. Ngay như ông Ngô Ðức Ðiều, một trong những người làm giấy dó nổi tiếng của làng và dòng họ Ngô Ðức cũng không biết rõ nghề của làng có vào năm nào và ông tổ nghề là ai. Có bề dày thời gian như vậy, nhưng do những thay đổi của thời cuộc và sự phát triển của công nghệ làm giấy công nghiệp, nhu cầu sử dụng giấy dó không nhiều, cho nên nghề làm giấy thủ công đứng trước nguy cơ mai một. Gia đình ông Ðiều có nhiều đời làm giấy dó như thế, nhưng đến bây giờ, con cái cũng lựa chọn công việc khác hoặc chuyển sang làm giấy công nghiệp. Tuy nhiên, chỉ cô cháu gái Ngô Thu Huyền, lại mong muốn lưu giữ, tiếp nối nghề truyền thống của ông nội và đang từng bước gây dựng nên thương hiệu dòng giấy dó Ngô Ðức được nhiều người biết đến.


Ngô Thu Huyền nghiên cứu, ứng dụng giấy dó trên các sản phẩm hiện đại.


Ở với ông bà từ nhỏ, nên Huyền được tiếp xúc với nghề làm giấy rất sớm. Loanh quanh phụ giúp ông bà làm những công việc lặt vặt, cho nên Huyền say mê và yêu thích vỏ cây dó cùng những quy trình làm ra các tờ giấy mỏng manh. Khi cô bày tỏ muốn được làm nghề giấy, ông bà nội và gia đình đều không ủng hộ vì nghề vất vả, nhưng Huyền lại rất quyết tâm. Bản thân cô thấy tiếc nuối những giá trị nghề đã được trao truyền qua bao thế hệ. Nếu không có những người yêu mến giấy dó như cô và không có ai trong làng muốn làm nghề làm giấy dó nữa, khi đó nghề sẽ mai một và mất hẳn.

Thời xưa, các cụ trong làng đều làm giấy dó đơn thuần thủ công, bây giờ đã có sự hỗ trợ của máy móc trong một số công đoạn, khiến công việc cũng nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Trước kia, người thợ làm giấy phải giã dó bằng cối, còn hiện đã có máy nghiền làm thay. Công đoạn đãi dó cũng có máy rửa chứ không phải làm bằng tay như trước. Tùy theo từng loại giấy dó mà một số công đoạn có khác biệt đôi chút, nhưng nhìn chung vẫn phải trải qua những khâu cơ bản. Thời gian để làm từ vỏ cây dó ra tờ giấy dó từ một tháng đến tháng rưỡi tùy điều kiện thời tiết. Tính trung bình, cứ 5 kg vỏ dó đẹp thì làm được 1 kg giấy, tùy vào kích cỡ và định lượng sẽ ra số lượng giấy khác nhau.

Trước đây giấy dó là chất liệu dùng để làm các dòng tranh dân gian, tranh Phật giáo, chép gia phả, viết thư pháp, in tài liệu… với những kích cỡ khoảng: 40 cm x 60 cm, 60 cm x 80 cm, mầu nâu cơ bản, ngày nay, giấy dó Ngô Ðức đã phát triển lên đến hàng chục loại với kích cỡ khác nhau phù hợp nhu cầu sử dụng, đáp ứng yêu cầu đa dạng của khách hàng như giấy có họa tiết, hoa lá dùng để in danh thiếp, thiệp mừng, phong bì, làm sổ, khuyên tai, đèn lồng, gấp giấy nghệ thuật origami… Thành quả đầu tiên của Huyền với tư cách là một người thợ làm giấy thủ công là sản xuất dòng giấy dó phục vụ viết thư pháp hiện đại Calligraphy và vẽ mầu nước. Ý tưởng về dòng giấy này hình thành từ ba năm trước, khi Huyền bị cuốn hút bởi những chiếc thiệp mời, những thực đơn được thiết kế, viết tay tỉ mỉ theo một chủ đề thống nhất và hài hòa trong các lễ cưới trên ứng dụng instagram. Lúc đó, Huyền nghĩ, nếu những nét viết và các gam mầu ấy có thể kết hợp trên giấy dó thì thật tuyệt vời. Huyền chia sẻ với ông mình ý tưởng và hai ông cháu bắt tay cùng làm thử mẻ giấy Calligraphy đầu tiên trên chất liệu của dó. Huyền là người cầm khuôn tráng giấy, còn ông nội thì ngồi quan sát, chỉ dẫn. Một trong những khó khăn khi làm dòng giấy Calligraphy và mầu nước là việc kiểm soát độ loang và hút mầu hay mực. Không phải tất cả các loại mực, mầu, bút và kỹ thuật viết, vẽ đều hợp với dòng giấy thủ công này. Vì vậy, Huyền đã nghiên cứu một tỷ lệ pha trộn nguyên liệu vỏ cây và kỹ thuật làm giấy thích hợp để có thể hạn chế phần nào những nhược điểm khi dùng cho Calligraphy và mầu nước. Nghe Huyền kể lại những phản hồi tích cực từ khách hàng, ông nội của cô rất vui và tự hào...

Theo Ngô Thu Huyền, loại giấy dó tốt nhất không phải là loại giấy có chất lượng cao nhất, mà là loại giấy phù hợp với mục đích sử dụng nhất. Dù lý thuyết làm giấy dó đã được ông nội truyền đạt đầy đủ, nhưng làm đến đâu là đụng đến đó. Mỗi đơn hàng lại phát sinh cái khó khác nhau, phải điều chỉnh từng bước. Khó nhất là làm dòng giấy dùng phục chế tài liệu, sách báo bị mối mọt, bục rách trong các thư viện, Cục Lưu trữ quốc gia. Với định lượng rất mỏng, giấy dùng bồi lên tài liệu cũ, nhưng vẫn phải đọc được chữ, có nhiều lúc Huyền phải làm đi làm lại mấy tháng, do kỹ thuật tráng chưa đều tay, chỗ dày, chỗ mỏng. Có lần, nhận được yêu cầu từ phía khách hàng sản xuất loại giấy dó sử dụng in trên máy in la-de với bề mặt đanh mịn, hạn chế việc bung tơ sợi khi chạy qua lô mực in, Huyền đã phải loay hoay nghiên cứu mãi mới có kết quả, song chính từ những khó khăn như vậy đã giúp Huyền tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm và sở hữu các kỹ thuật làm giấy khác nhau.

Với đặc tính xốp nhẹ, bền dai và có độ đàn hồi cao, giấy dó dù bị ướt nước vẫn có thể trở về hình dạng ban đầu khi khô lại. Dường như vì lẽ ấy mà giấy dó mộc mạc, bình dị nhưng vẫn thật đặc biệt. Tận dụng ưu điểm của giấy dó cho những ứng dụng khác nhau, điều này giúp giấy dó Ngô Ðức đến gần người trực tiếp dùng giấy với yêu cầu đa dạng hơn, để từ đó có thể cải thiện sản phẩm cho phù hợp nhu cầu sử dụng. Việc đưa giấy dó tiếp cận giới trẻ đã góp phần tiếp tục lưu giữ và phát triển nghề thủ công truyền thống. Với sự sáng tạo riêng, mỗi người sử dụng như thổi hồn vào tờ giấy dó để khi bước ra khỏi xưởng, mỗi tờ giấy lại kể câu chuyện của riêng mình.

Bài và ảnh: Ngọc Liên

Tin liên quan

Tin mới hơn

Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

LNV - Làng gốm Bát Tràng là một trong những làng nghề luôn đi đầu trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển những giá trị truyền thống. Giữa thời đại công nghệ đang phát triển, người dân làng nghề đã mạnh dạn áp dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số qua các nền tảng trực tuyến để vươn ra thị trường.
Chuyển đổi số để làng nghề Việt Nam vươn xa và giữ hồn truyền thống

Chuyển đổi số để làng nghề Việt Nam vươn xa và giữ hồn truyền thống

LNV - Chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu, mở ra cơ hội mới cho các làng nghề truyền thống Việt Nam trong việc mở rộng thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển bền vững. Nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, phóng viên đã có cuộc trao đổi với Ông Trịnh Quốc Đạt – Nhà giáo ưu tú, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, về hành trình chuyển đổi số của các làng nghề trong bối cảnh hiện nay.
Gìn giữ nghề làm hương Tày ở Pác Nghè

Gìn giữ nghề làm hương Tày ở Pác Nghè

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại, thôn Pác Nghè (Thái Nguyên) vẫn lưu giữ nghề làm hương Tày truyền thống qua nhiều thế hệ. Những bó hương thơm dịu từ thảo mộc rừng không chỉ giữ gìn nét văn hóa lâu đời của đồng bào Tày, mà còn tạo sinh kế, giúp nhiều hộ dân có thu nhập ổn định, đặc biệt vào dịp lễ Tết.
Bắc Ninh gìn giữ và phát huy giá trị trăm nghề trong thời hội nhập

Bắc Ninh gìn giữ và phát huy giá trị trăm nghề trong thời hội nhập

LNV - Bắc Ninh là vùng đất trăm nghề đang nỗ lực gìn giữ và phát huy giá trị làng nghề truyền thống. Từ gốm Phù Lãng đến rượu Làng Vân, nhiều cơ sở sản xuất mạnh dạn đổi mới, xây dựng thương hiệu, góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân.
Làng nghề miền sơn cước xứ Thanh vào vụ Tết

Làng nghề miền sơn cước xứ Thanh vào vụ Tết

LNV - Những ngày cuối năm, khi sương núi còn giăng trên các triền đồi, không khí ở nhiều xã vùng cao Thanh Hóa trở nên rộn ràng hơn bao giờ hết. Từ tiếng thoi đưa của những khung dệt thổ cẩm ở Pù Luông đến những bếp lửa đỏ rực làm kẹo nhãn ở Linh Sơn, các làng nghề đang tất bật vào vụ Tết, lưu giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa đặc sắc của miền sơn cước.
Chuyên Mỹ tìm giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề

Chuyên Mỹ tìm giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề

LNV - Vừa qua, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội phối hợp với UBND xã Chuyên Mỹ và Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và Làng nghề Hà Nội tổ chức hội thảo với chủ đề “Giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề gắn với du lịch, chuyển đổi số”.

Tin khác

Nón ngựa Phú Gia trở thành sản phẩm du lịch độc nhất vô nhị của tỉnh Gia Lai

Nón ngựa Phú Gia trở thành sản phẩm du lịch độc nhất vô nhị của tỉnh Gia Lai

LNV - Tháng 4/2024, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh nghề chằm nón ngựa Phú Gia vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và mới đây, UBND xã Xuân An long trọng tổ chức Lễ công bố và ra mắt sản phẩm du lịch tại Làng nghề nón ngựa Phú Gia, mở ra hướng đi mới cho nón ngựa Phú Gia trở thành sản phẩm du lịch độc nhất vô nhị của tỉnh Gia Lai.
Một đời thổi hồn vào nghề thêu giữa lòng phố cổ

Một đời thổi hồn vào nghề thêu giữa lòng phố cổ

LNV - Thêu vi tính là kỹ thuật thêu ứng dụng công nghệ số vào nghề thêu truyền thống để tạo ra sản phẩm với độ chính xác cao, đồng đều và đáp ứng nhu cầu sản xuất hiện đại. Là một trong những người đặt nền móng cho nghề thêu vi tính ở Hà Nội, ông Bùi Thế Thái vẫn ngày ngày miệt mài thổi lửa nghề giữa lòng phố cổ.
Chuyên Mỹ: Bảo tồn làng nghề truyền thống gắn với du lịch và chuyển đổi số

Chuyên Mỹ: Bảo tồn làng nghề truyền thống gắn với du lịch và chuyển đổi số

Trong bối cảnh phát triển nông thôn mới gắn với kinh tế xanh và kinh tế số, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã chủ trì triển khai chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề xã Chuyên Mỹ gắn với du lịch và chuyển đổi số. Chương trình nhằm phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng nghề, đồng thời tạo động lực đổi mới phương thức sản xuất, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn theo hướng bền vững.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xu thế tiêu dùng hiện nay

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xu thế tiêu dùng hiện nay

LNV - Trong bối cảnh kinh tế – xã hội có nhiều biến động, xu hướng tiêu dùng của thị trường trong nước và quốc tế đang thay đổi mạnh mẽ theo hướng đề cao giá trị bền vững, tính cá nhân hóa và bản sắc văn hóa. Những chuyển dịch này vừa đặt ra thách thức, vừa mở ra nhiều cơ hội mới cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ, lĩnh vực gắn liền với làng nghề truyền thống và sinh kế của hàng triệu lao động nông thôn.
Trà sen Quảng An Hương Thủy: Sản phẩm OCOP mang đậm bản sắc văn hóa Hà Nội

Trà sen Quảng An Hương Thủy: Sản phẩm OCOP mang đậm bản sắc văn hóa Hà Nội

HTX Trà Sen Hương Thủy ra đời từ tình yêu của bà Trần Thị Thủy - GIám đốc HTX sinh ra và lớn lên giữa làng sen Quảng Bá, Tây Hồ, nơi tuổi thơ gắn liền với hương sen, với làng nghề bao đời gìn giữ nét tinh hoa của đất Hà Thành. Từ tình yêu sen và khát vọng phát triển nghề quê, bà Trần Thị Thủy bắt đầu bằng việc thành lập hộ kinh doanh nhỏ, chuyên ướp trà sen theo phương pháp cha ông truyền lại.
Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề, kết nối OCOP với phát triển du lịch Thủ đô

Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề, kết nối OCOP với phát triển du lịch Thủ đô

LNV - Tối 18/12, tại xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm), Sở Công Thương Hà Nội tổ chức khai mạc Triển lãm quảng bá, giao thương kết nối sản phẩm OCOP, thủ công mỹ nghệ và làng nghề phục vụ du lịch năm 2025.
Nhân rộng những mô hình HTX tiêu biểu, thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển

Nhân rộng những mô hình HTX tiêu biểu, thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển

Từ những cánh đồng, trang trại, vùng nuôi trồng, nhiều hợp tác xã đã vươn lên trở thành mô hình tiêu biểu cấp quốc gia. Thành công từ liên kết sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và xây dựng thương hiệu không chỉ giúp nâng cao đời sống nông dân, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm mà còn khẳng định vai trò hạt nhân của kinh tế tập thể trong phát triển nông thôn mới. Từ những mô hình điển hình đó, đã góp phần đưa kinh tế tập thể phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Tăng sức cạnh tranh từ chuỗi giá trị: Câu chuyện liên kết của chè Thu Đan và lụa Vạn Phúc

Tăng sức cạnh tranh từ chuỗi giá trị: Câu chuyện liên kết của chè Thu Đan và lụa Vạn Phúc

Trong bối cảnh thị trường ngày càng đòi hỏi chất lượng ổn định, câu chuyện nâng cao sức cạnh tranh không còn dừng ở từng sản phẩm đơn lẻ mà nằm ở khả năng liên kết chặt chẽ trong toàn bộ chuỗi giá trị. Từ nguyên liệu, quy trình sản xuất, tiêu chuẩn hóa đến xây dựng thương hiệu và tiêu thụ, mỗi mắt xích đều ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế của sản phẩm trên thị trường.
Xu thế thị trường trong và ngoài nước – cơ hội mới cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ Hà Nội

Xu thế thị trường trong và ngoài nước – cơ hội mới cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ Hà Nội

LNV - Hà Nội là trung tâm lớn của cả nước về làng nghề và ngành thủ công mỹ nghệ, nơi hội tụ hàng trăm làng nghề truyền thống với lịch sử lâu đời, kỹ thuật tinh xảo và giá trị văn hóa đặc sắc. Trong bối cảnh thị trường trong nước và quốc tế đang chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tiêu dùng bền vững, cá nhân hóa và đề cao bản sắc văn hóa, sản phẩm thủ công mỹ nghệ Hà Nội đứng trước nhiều cơ hội mới để mở rộng thị trường và nâng cao giá trị.
Giữ lửa men đất Phú Lễ trong hành trình phát triển bền vững

Giữ lửa men đất Phú Lễ trong hành trình phát triển bền vững

LNV - Giữa vùng đất Ba Tri xưa, làng nghề rượu Phú Lễ hơn trăm năm tuổi vẫn đỏ lửa qua nhiều thế hệ. Từ bí quyết men cổ truyền, Phú Lễ hôm nay đang chuyển mình thành điểm giao thoa giữa bảo tồn làng nghề, du lịch trải nghiệm và mô hình kinh tế tuần hoàn gắn với cộng đồng.
Thiết kế sáng tạo – chìa khóa đưa sản phẩm thủ công Hà Nội ra thế giới

Thiết kế sáng tạo – chìa khóa đưa sản phẩm thủ công Hà Nội ra thế giới

LNV - Hà Nội là vùng đất hội tụ tinh hoa của hàng trăm làng nghề truyền thống, nơi kết tinh kỹ thuật thủ công tinh xảo, giá trị văn hóa lâu đời và bản sắc riêng có của Thủ đô. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thị trường tiêu dùng toàn cầu liên tục biến đổi, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ cần “giữ nghề” mà còn phải đổi mới tư duy phát triển. Thực tiễn cho thấy, thiết kế sáng tạo đang trở thành chìa khóa quan trọng giúp sản phẩm thủ công Hà Nội nâng cao giá trị, mở rộng thị trường và từng bước khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Làng nghề miền Tây vào vụ Tết

Làng nghề miền Tây vào vụ Tết

LNV - Những ngày cuối năm, không khí sản xuất tại nhiều làng nghề đặc sản ở miền Tây trở nên nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Từ sáng sớm đến khuya, tiếng máy móc, tiếng nói cười rộn ràng vang lên khắp các xưởng sản xuất, báo hiệu mùa cao điểm phục vụ thị trường Tết đã bắt đầu. Tuy nhiên, phía sau sự tất bật ấy là những gam màu trái ngược: có nơi đầy lạc quan nhờ đơn hàng tăng mạnh, có nơi lại không khỏi lo lắng vì chi phí đầu vào leo thang, sức mua khó dự đoán.
Làng Ngâu – Hương rượu cúc chi níu giữ hồn quê Đại Thanh

Làng Ngâu – Hương rượu cúc chi níu giữ hồn quê Đại Thanh

LNV - Nằm ven đô Hà Nội, làng Ngâu, xã Đại Thanh từ lâu đã được biết đến là vùng đất cần cù, nơi lưu giữ một nghề truyền thống độc đáo: nấu rượu cúc chi. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, nghề nấu rượu nơi đây vẫn được người dân gìn giữ như một phần máu thịt của làng quê, kết tinh từ bàn tay lao động, kinh nghiệm dân gian và hương sắc của loài hoa cúc chi thuần khiết.
Đầu tư 205 tỷ đồng bảo vệ và phát huy nghệ thuật làm gốm của người Chăm

Đầu tư 205 tỷ đồng bảo vệ và phát huy nghệ thuật làm gốm của người Chăm

LNV - UBND tỉnh Khánh Hòa vừa phê duyệt Đề án Quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” giai đoạn 2025 – 2028 và những năm tiếp theo. Đây là bước đi quan trọng nhằm bảo tồn một di sản văn hóa độc đáo đang đứng trước nguy cơ mai một, đồng thời tạo nền tảng để phát triển kinh tế xã hội gắn với du lịch và làng nghề truyền thống.
Làng nghề Thái Nguyên tìm hướng phát triển từ kinh tế sáng tạo

Làng nghề Thái Nguyên tìm hướng phát triển từ kinh tế sáng tạo

LNV - Dưới tác động mạnh mẽ của chuyển đổi số, các làng nghề truyền thống đang từng bước tìm thấy hướng phát triển mới gắn với kinh tế sáng tạo. Tại Thái Nguyên, vùng đất nổi tiếng với cây chè, xu hướng này đang ngày càng rõ nét, đặc biệt với sự tham gia của lực lượng lao động trẻ.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Gia Lai: Công tác tuyên giáo và dân vận tạo nền tảng tư tưởng vững chắc cho chặng đường phát triển mới

Gia Lai: Công tác tuyên giáo và dân vận tạo nền tảng tư tưởng vững chắc cho chặng đường phát triển mới

LNV - Năm 2025 khép lại với nhiều dấu ấn quan trọng trong công tác tuyên giáo và dân vận của tỉnh Gia Lai. Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp, thiên tai, bão lũ tác động không nhỏ đến đời sống Nhân dân, Ban Tuyên g
Người dân Gia Lai vui mừng đón nhà mới “Chiến dịch Quang Trung” do Công an xây dựng

Người dân Gia Lai vui mừng đón nhà mới “Chiến dịch Quang Trung” do Công an xây dựng

LNV - Công an tỉnh Gia Lai vừa bàn giao hai căn nhà đầu tiên trong số 20 căn nhà được Bộ Công an hỗ trợ kinh phí và Công an tỉnh xây dựng trong “Chiến dịch Quang Trung” cho người dân ở tỉnh Gia Lai. Đó là ngôi nhà ông Phạm Đình Ba (SN 1970) ở thôn Háo Lễ,
Từ Nghị quyết 71-NQ/TW đến bước chuyển chiến lược của giáo dục nghề nghiệp

Từ Nghị quyết 71-NQ/TW đến bước chuyển chiến lược của giáo dục nghề nghiệp

LNV - Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nhiều chủ trương, chính sách lớn đã được ban hành, thúc đẩy giáo dục và đào tạo đổi mới, phát triển mạnh mẽ,
Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

LNV - Làng gốm Bát Tràng là một trong những làng nghề luôn đi đầu trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển những giá trị truyền thống. Giữa thời đại công nghệ đang phát triển, người dân làng nghề đã mạnh dạn áp dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số
Hội Cựu chiến binh xã Đào Xá hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao

Hội Cựu chiến binh xã Đào Xá hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao

LNV - Xã Đào Xá (Phú Thọ) được thành lập trên cơ sở sáp nhập 4 xã cũ gồm Thạch Đồng, Tân Phương, Xuân Lộc và Đào Xá, xã có địa bàn rộng với dân số đông. Hội Cựu chiến binh (HCCB) toàn xã có 43 chi hội ở 43 khu dân cư, với tổng số 2.474 hội viên và 2.377 g
Giao diện di động