Hà Nội: 23°C Hà Nội
Đà Nẵng: 23°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 28°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 23°C Thừa Thiên Huế

Phát huy di sản văn hóa phi vật thể làng nghề

LNV - Nhân kỷ niệm 15 năm thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Văn phòng đại diện Hiệp hội tại Tp Hồ Chí Minh đã tổ chức biên soạn bộ sách“Làng nghề Viêt Nam – miệt mài cuộc hành trình di sản”. Đây là một bộ sách có giá trị, thể hiện công sức rất đáng trân trọng của các tác giả và những người biên soạn, đã đề cập đề tài di sản văn hóa phi vật thể làng nghề mà chúng ta rất cần đi sâu nghiên cứu, bảo vệ, khai thác và phát huy.
RẤT CẦN NGHIÊN CỨU SÂU VỀ “NGHỀ” VÀ “LÀNG NGHỀ”

Cho đến nay, tuy chưa có số liệu thống kê, song cũng có thể thấy những sách nghiên cứu sâu về nghề thủ công và làng nghề Việt Nam chưa nhiều. Phần lớn vẫn dừng lại ở giới thiệu lịch sử, quá trình hình thành các nghề, các làng nghề hoặc lịch sử các vị Tổ nghề; Có những cuốn sách nặng về cung cấp thông tin (có khi người này sao chép lại của người khác, rất ít nội dung bổ sung hoặc tư liệu mới), thường thiếu phân tích, tổng kết; Lại càng thiếu những cuốn sách nghiên cứu chuyên sâu về di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống. Có thể nói: Trong khi các làng nghề cả nước, nhất là các làng nghề truyền thống đang ra sức khắc phục khó khăn để bảo vệ và phát huy những di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công đậm đà bản sắc của dân tộc ta, kể cả bản sắc của mỗi vùng, miền, thậm chí của mỗi làng nghề, mỗi nghệ nhân, thì việc nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, từ thực tiễn mà khái quát lên thành lý luận đang rất yếu, chưa được quan tâm đúng mức. Quan trọng hơn nữa là nếu nghiên cứu sâu lịch sử phát triển của mỗi nghề thủ công, có thể thấy giá trị cao đẹp của các nghề, công sức của cha ông ta trong phát triển nghề, những bước thăng trầm của mỗi nghề và sức sống mãnh liệt của mỗi nghề; Từ đó, thấy rõ hơn ý nghĩa của việc bảo tồn và phát huy di sản nghề và xây dựng làng nghề trong thời đại mới.


Có thể khẳng định: Nếu như công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về nghề thủ công và làng nghề chưa theo kịp, chưa có những kiến thức, triết lý và khái niệm cần thiết về di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống, thì rất dễ sa vào những vụ việc cụ thể, chạy theo hình thức mà không quan tâm nội dung, cũng dễ sa vào những hoạt động lợi dụng “thương mại hóa” di sản, thậm chí “kinh doanh tâm linh” thu lợi bất chính (như trong việc tôn tạo di sản, tổ chức lễ hội, tôn vinh …) mà xã hội đã lên án. Nếu như thế, càng khó có thể nói đến yêu cầu và sứ mạng của lý luận là tạo căn cứ cho hoạch định và thực thi những cơ chế, chính sách về nghề thủ công và làng nghề mà chúng ta vẫn nói đó là di sản văn hóa phi vật thể quý báu của dân tộc cần bảo vệ, khai thác và phát huy. Rõ ràng là đang rất cần những nghiên cứu sâu về lý luận và thực tiễn đối với nghề thủ công và làng nghề làm cơ sở cho những cơ chế, chính sách cho bước phát triển bền vững của lĩnh vực này.

MỘT CUỐN SÁCH TÂM HUYẾT VÀ TRÍ TUỆ

Trong bối cảnh như trên, bộ sách “Làng nghề Viêt Nam- miệt mài cuộc hành trình di sản” do Văn phòng đại diện Hiệp hội tại Tp Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn đã thể hiện rõ “tâm” và “tầm” của những người chủ trì.

Bộ sách gồm 766 trang, chia làm hai tập: Tập 1 có tiêu đề “Di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống - Văn hóa sống của dân tộc”; Tập 2 có tiêu đề “Đa dạng di sản văn hóa phi vật thể - Nghề thủ công truyền thống Việt Nam”. Tập 1 gồm các bài viết đề cập những vấn đề chung về di sản văn hóa và nghề thủ công truyền thống Việt Nam, phát huy di sản bằng các hoạt động du lịch, đồng thời giới thiệu kinh nghiệm khá chi tiết của nước Áo trong việc khai thác, phát huy di sản, khi họ coi nghề thủ công truyền thống là di sản văn hóa phi vật thể và là thành tố kinh tế của đất nước. Tập 2 đi sâu vào tính đa dạng của di sản văn hóa nghề thủ công truyền thống Việt Nam từ các vùng, miền đến một số địa phương tiêu biểu, một số nghề và nghệ nhân tiêu biểu. Như vậy là bộ sách đã đi từ nhận thức lý luận đến thực tiễn, cung cấp cho người đọc những kiến thức đa dạng, phong phú, vừa rộng vừa sâu.


Qua bộ sách, có thể thấy những vấn đề quan trọng góp phần giúp người đọc thêm kiến thức, khẳng định những giá trị của di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống nước ta cũng như yêu cầu bảo vệ và phát huy các di sản quý báu ấy.

Trước hết, đó là nhận thức sâu thêm thuật ngữ “di sản văn hóa phi vật thể” và những vấn đề lý luận cơ bản về di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công.

Theo bộ sách, di sản văn hóa phi vật thể bao gồm “các truyền thống hoặc các biểu hiện sống mà ngày nay chúng ta được thừa hưởng từ tổ tiên và đang truyền lại cho con cháu đời sau, chẳng hạn như biểu đạt truyền khẩu, phong tục, tập quán, nghệ thuật biểu diễn, thực hành, ứng xử xã hội, nghi lễ, sự kiện lễ hội, kiến thức và thực hành liên quan đến tự nhiên và vũ trụ hoặc kiến thức và kỹ năng để sản xuất đồ thủ công truyền thống” (tr. 54). “Nghề thủ công truyền thống” đã được khẳng định là một trong 05 hình thức di sản văn hóa phi vật thể theo Công ước về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO năm 2003. Luật Di sản văn hóa của Việt Nam năm 2009 cũng đã quy định “Nghề thủ công truyền thống” là một trong 07 loại hình di sản văn hóa phi vật thể. Như vậy, người đọc không những hiểu sâu về di sản văn hóa phi vật thể trong các nghề thủ công mỹ nghệ, mà còn hiểu thêm rằng “tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể không phải là sự thể hiện văn hóa của chính nó mà là sự giàu có của kiến thức và kỹ năng được truyền lại thông qua sự thể hiện từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo” (tr. 55). Chính vì thế, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định “di sản văn hóa phi vật thể là di sản sống của chúng ta” (tr.57), khi họ coi di sản văn hóa không chỉ bao gồm các đặc tính hữu hình, mà đặc biệt hơn nữa, còn có các yếu tố thiết yếu đại diện cho văn hóa sống của cộng đồng con người với sự tiến hóa và phát triển liên tục của con người.

Hai là, nhũng đóng góp rất quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống cho mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Như Chương trình nghị sự vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc năm 2015 đã đưa ra khái niệm phát triển bền vững gồm ba phương diện kinh tế, xã hội và môi trường, có thể thấy di sản văn hóa phi vật thể có thể đóng góp hiệu quả vào sự phát triển bền vững trên từng phương diện nói trên. Đối với nước ta cũng vậy, bộ sách đã diễn giải về từng lĩnh vực mà chúng ta đang quan tâm trong sự phát triển bền vững đất nước (từ tr. 107). Đó là: (i) Phát triển xã hội toàn diện, trong đó có việc bảo đảm an ninh lương thực bền vững; Chăm sóc y tế chất lượng; Tiếp cận nguồn nước và vệ sinh môi trường an toàn; Giáo dục có chất lượng; Hệ thống bảo trợ xã hội cho mọi người và bình đẳng giới. (ii) Bền vững về môi trường, trong đó có các nội dung như giúp bảo vệ đa dạng sinh học; góp phần bảo vệ môi trường bền vững; Góp phần tăng khả năng ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu; (iii) Phát triển kinh tế toàn diện; Quan trọng nhất là những tri thức, kỹ năng và thực hành nghề được các thế hệ duy trì và phát huy, tạo sinh kế cho các nhóm và cộng đồng dân cư nông thôn; Góp phần tạo nguồn lực cho phát triển; Tạo ra thu nhập và công việc bền vững cho nhiều cá nhân và cộng đồng, bao gồm người nghèo và những đối tượng dễ bị tổn thương; triển khai các hoạt động du lịch liên quan đến di sản văn hóa phi vật thể; và (iv) Bảo vệ hòa bình và an ninh: Góp phần duy trì sự bình yên, tình thương yêu trong cộng đồng; Giúp ngăn chặn hoặc giải quyết các tranh chấp về lợi ích, giúp mọi cơ sở liên kết với nhau theo chuỗi giá trị trong sản xuất kinh doanh, từ đó bảo đảm an ninh, đồng thuận xã hội, vượt qua sự hiểu lầm, thậm chí đối đầu, hận thù và bạo lực.

Ba là, những giải pháp chủ yếu để bảo vệ, khai thác và phát huy di sản phi vật thể nghề thủ công truyền thống.

Bộ sách đã chỉ ra các yếu tố cấu thành chính của di sản văn hóa phi vật thể bao gồm sự “tự xác định”, cùng với sự “tái tạo liên tục” để đáp ứng nhu cầu của xã hội, “mối liên hệ với bản sắc văn hóa” của các cộng đồng với nhóm người; “tính xác thực” của chúng; Và mối quan hệ không thể hòa tan của chúng với quyền con người (tr. 52); Chính vì vậy, di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ, đây là một yêu cầu mang tính quốc tế.

Theo các tác giả của bộ sách, Công ước 2003 của Liên hợp quốc chủ yếu đề cập các kỹ năng và kiến thức liên quan đến nghề thủ công hơn là bản thân các sản phẩm thủ công; thay vì tập trung vào việc bảo tồn các hiện vật thủ công, các biện pháp bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể thủ công nghiệp tập trung vào việc khuyến khích các nghệ nhân tiếp tục sản xuất thủ công và truyền kỹ năng và kiến thức của họ cho người khác, đặc biệt là trong cộng đồng của chính họ (tr. 99). Nói cách khác, “mục tiêu của việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể thủ công là bảo đảm rằng kiến thức và kỹ năng liên quan đến nghề truyền thống được truyền lại cho các thế hệ tương lai, để các nghề thủ công có thể tiếp tục được thực hành sản xuất trong cộng đồng của họ, cung cấp sinh kế cho người làm và phản ánh sự sáng tạo” (tr. 101). Trách nhiệm này không phải của ai khác, mà chính là của cộng động các làng nghề thủ công truyền thống, với sự trợ giúp của các tổ chức xã hội liên quan và về cơ chế, chính sách của cơ quan nhà nước.

Đáng chú ý là bộ sách đã giới thiệu khá chi tiết bản Báo cáo “Nghề thủ công truyền thống là di sản văn hóa phi vật thể và là thành tố kinh tế Áo” do đích thân Thủ tướng Liên bang Áo và Bộ kinh tế và kỹ thuật số Liên bang Áo ủy quyền thực hiện năm 2019. Báo cáo dày 230 trang, được các tác giả bộ sách giới thiệu tóm tắt nhưng rất đầy đủ, coi đây là một “quy trình nghiên cứu khoa học về giá trị nghề thủ công truyền thống, đồng thời cung cấp những kết luận khoa học. Tài liệu này có thể được tham khảo nhằm rút ngắn quá trình nghiên cứu nghề thủ công truyền thống Việt Nam “ (tr. 193). Tác giả nhấn mạnh “Mối quan tâm chính của Báo cáo không phải là bảo quản các đồ vật mà là bảo vệ quá trình sản xuất – điều này đòi hỏi phải bảo vệ các tài năng, kỹ năng và kiến thức chuyên môn cần thiết để sản xuất các đồ vật đó” (tr. 196). Từ đó, có thể thấy rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát huy đội ngũ nghệ nhân các làng nghề truyền thống.

Trên đây, là một số cảm nhận đối với bộ sách “Làng nghề Viêt Nam – miệt mài cuộc hành trình di sản” do Văn phòng đại diện Hiệp hội Làng nghề Việt Nam tại Tp Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn - một bộ sách quý thể hiện Tâm và Tầm của nhũng người biên soạn, xin được giới thiệu để những người quan tâm đến vấn đề di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống tìm đọc. Phải chăng, qua bộ sách, những người biên soạn muốn nói với các nhà quản lý, các làng nghề, các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề những trăn trở, suy nghĩ về tương lai thật chưa rõ ràng, bền vững trong công cuộc chấn hưng và phát triển làng nghề nước ta? Mong rằng những cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có trách nhiệm nắm và hiểu được tầm quan trọng của vấn đề, từ đó có những giải pháp thiết thực để bảo vệ, khai thác và phát huy di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công rất quý của dân tộc ta theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, tổ chức.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam


Tin liên quan

Tin mới hơn

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

Marketing, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề

LNV - Sáng 9/10, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Cục Công thương Địa phương phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên tổ chức Hội thảo: "Tư vấn nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam". Đây là đề án thuộc Chương trình Khuyến công quốc gia năm 2024 của Bộ Công Thương.
Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

Diện mạo Thủ đô Hà Nội sau 70 năm giải phóng - Tầm nhìn tương lai

LNV - Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đã tạo nên nền văn hiến rực rỡ mang đậm dấu ấn Thủ đô, trong đó nổi trội, dễ nhận biết là về diện mạo đô thị. Từ quy mô, cấu trúc đô thị, kết cấu hạ tầng, kiến trúc công trình, cảnh quan nhân tạo, cảnh quan tự nhiên, tổng hòa là kiến trúc cảnh quan, luôn được ghi nhận là ngày càng văn minh, hiện đại hơn, xứng tầm là "Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

Hiệp định FTA "cơ hội vàng" cho doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu

LNV - Các Hiệp định thương mại tự do (FTA), FTA thế hệ mới mà Việt Nam ký kết với các nước đang và sẽ mở ra “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

Phát triển làng nghề truyền thống: Cần có sự quan tâm cụ thể hơn từ phía Nhà nước

LNV - Trong thời gian qua, để hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã liên kết với các nghệ nhân làng nghề tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn để lan tỏa những sản phẩm thủ công truyền thống đến với công chúng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đó chỉ là một phần nhỏ, để hỗ trợ các làng nghề phát triển bền vững cần có sự quan tâm của Nhà nước và các cơ quan chức năng một cách cụ thể và sâu sát hơn nữa.
Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Phát triển bền vững làng nghề gốm gắn với du lịch

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

Giải pháp đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu tỉnh Vĩnh Phúc

LNV - Nghị quyết số 19/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 25/2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 263/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 đều là những chủ chương, chính sách quan trọng tạo nền tảng, cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu; đồng thời cũng là thước đo đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.

Tin khác

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

Làng gốm truyền thống khu vực miền Trung: Nhận diện đặc trưng làng nghề gốm khu vực

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại.
Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

Làng gốm truyền thống miền Trung: Bảo tồn và phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng (Kỳ I)

LNV - Làng nghề gốm khu vực Miền Trung Việt Nam luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học. Tại đây đang thường xuyên diễn ra những tiếp biến văn hóa giữa quá khứ và hiện tại. Để xác định được hướng đi đúng cho bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề gốm vấn đề cốt lõi là nhận diện được những đặc trưng cơ bản của làng gốm truyền thống vốn dĩ đã tồn tại từ hàng trăm năm lịch sử. Trong đó, cần đề cập đến tất cả các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, không gian văn hóa ở, làm nghề, những thiết chế văn hóa cũ/mới liên quan để cùng vì mục đích bảo tồn, phát huy giá trị hướng đến du lịch cộng đồng.
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

LNV - Ðại hội XIII của Ðảng xác định rõ: Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

LNV - Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm (Hà Nội) có hai nghề truyền thống là dát vàng bạc quì và may đồ da đã có từ lâu đời. Làm vàng bạc quì là một nghề truyền thống, chế biến vàng thật, bạc thật thành bột vàng, bạc (gọi là quì) bằng phương pháp sản xuất thủ công lâu đời, độc đáo.
Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình số 04-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVII về "Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành Nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân giai đoạn 2021-2025".
Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

LNV - Theo ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ NN-PTNT, Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ nhiều năm, tuy nhiên có thời điểm chúng ta sản xuất đại trà, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Vì vậy, thời gian tới phải nâng tầm hơn nữa cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

LNV - Đẩy mạnh việc tuyên truyền làm cho doanh nghiệp, hộ sản xuất, hộ kinh doanh dịch vụ hiểu và quan tâm về maketing và bán hàng online
Nghề và Làng nghề truyền thống

Nghề và Làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề, làng có nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo ra nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em; giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn.
Vai trò, vị thế của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam

Vai trò, vị thế của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam

LNV - Nhiệm kỳ 2018 – 2023 vừa qua, Hiệp hội và các tổ chức, hội viên đã triển khai Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường do tác động tiêu cực lâu dài của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, các cuộc xung đột vũ trang Nga – Ukraina; Israel – Hamas; Israel – Houthi, Israel – Iran…làm đứt gãy chuỗi cung ứng vật tư, nguyên, nhiên liệu toàn cầu, đặc biệt là xăng, dầu. Ảnh hưởng đến đến sức mua và làm suy giảm các thị trường xuất, nhập khẩu truyền thống. Tình hình trên làm cho sản xuất kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế và làng nghề trong cả nước bị đình đốn, việc làm và đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn.
Hướng đi bền vững để bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống

Hướng đi bền vững để bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo nhiều cơ hội việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em, giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có những hướng đi bền vững.
Văn hóa làng nghề trong văn hóa xứ Nghệ

Văn hóa làng nghề trong văn hóa xứ Nghệ

LNV - Làng nghề truyền thống là một nhân tố quan trọng trong văn hóa vùng miền. Với một vùng văn hóa độc đáo như xứ Nghệ, làng nghề có vai trò to lớn, là bông hoa đẹp trong bức tranh văn hóa chung. Làng nghề thể hiện sự đa dạng của văn hóa, thể hiện tính đặc sắc của địa phương. Và trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển làng nghề hợp lý là hướng đi đúng đắn để gắn bảo tồn văn hóa với phát triển kinh tế.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
Huyện Hoài Đức (Hà Nội): Sơn Đồng xây dựng NTM kiểu mẫu kết hợp nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Huyện Hoài Đức (Hà Nội): Sơn Đồng xây dựng NTM kiểu mẫu kết hợp nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Chủ tịch UBND xã Sơn Đồng ông Nguyễn Viết Hùng cho biết, “Sau khi hoàn thành kết quả xây dựng NTM nâng cao, xã Sơn Đồng tiếp tục đề nghị xét và công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu thành phố Hà Nội năm 2024 đối với 2 lĩnh vực Y tế và Giáo d
Vĩnh Phúc: Thúc đẩy phát triển hoạt động khuyến công

Vĩnh Phúc: Thúc đẩy phát triển hoạt động khuyến công

LNV - Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị định số 45 của Chính phủ về khuyến công, các cấp, các ngành, địa phương trong tỉnh đã dành nhiều nguồn lực triển khai các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, mang lại những hiệu quả thiết thực. Để nguồn vốn hỗ trợ khuyến công của tỉnh phát huy hiệu quả hơn nữa, cần có sự điều chỉnh kịp thời các nội dung hỗ trợ theo hướng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu của công tác khuyến công trong tình hình mới.
Triển lãm các sản phẩm OCOP xuất khẩu từ ngày 31-10 đến ngày 4-11

Triển lãm các sản phẩm OCOP xuất khẩu từ ngày 31-10 đến ngày 4-11

OVN - Vừa qua, Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phối hợp tổ chức buổi giới thiệu thông tin “Triển lãm các sản phẩm OCOP xuất khẩu”.
Xuất khẩu rau, quả lập kỷ lục mới

Xuất khẩu rau, quả lập kỷ lục mới

LNV - Theo Bộ NN&PTNT, từ đầu năm 2024 đến nay, xuất khẩu rau, quả đạt hơn 6 tỷ USD. Đây là con số ấn tượng của ngành hàng này khi ghi nhận sự tăng trưởng lớn đối với nhiều mặt hàng và thị trường. Ngành Nông nghiệp dự báo, xuất khẩu rau, quả năm 2024 sẽ đ
Trà vỏ chuối hỗ trợ giấc ngủ ngon ít người biết

Trà vỏ chuối hỗ trợ giấc ngủ ngon ít người biết

LNV - Trà vỏ cam, vỏ quýt hay vỏ lựu khá phổ biến nhưng trà vỏ chuối là một xu hướng mới mang lại một số lợi ích như giúp ngủ ngon.
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động