Hà Nội: 29°C Hà Nội
Đà Nẵng: 29°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 25°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 27°C Thừa Thiên Huế

Phát huy di sản văn hóa phi vật thể làng nghề

LNV - Nhân kỷ niệm 15 năm thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Văn phòng đại diện Hiệp hội tại Tp Hồ Chí Minh đã tổ chức biên soạn bộ sách“Làng nghề Viêt Nam – miệt mài cuộc hành trình di sản”. Đây là một bộ sách có giá trị, thể hiện công sức rất đáng trân trọng của các tác giả và những người biên soạn, đã đề cập đề tài di sản văn hóa phi vật thể làng nghề mà chúng ta rất cần đi sâu nghiên cứu, bảo vệ, khai thác và phát huy.
RẤT CẦN NGHIÊN CỨU SÂU VỀ “NGHỀ” VÀ “LÀNG NGHỀ”

Cho đến nay, tuy chưa có số liệu thống kê, song cũng có thể thấy những sách nghiên cứu sâu về nghề thủ công và làng nghề Việt Nam chưa nhiều. Phần lớn vẫn dừng lại ở giới thiệu lịch sử, quá trình hình thành các nghề, các làng nghề hoặc lịch sử các vị Tổ nghề; Có những cuốn sách nặng về cung cấp thông tin (có khi người này sao chép lại của người khác, rất ít nội dung bổ sung hoặc tư liệu mới), thường thiếu phân tích, tổng kết; Lại càng thiếu những cuốn sách nghiên cứu chuyên sâu về di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống. Có thể nói: Trong khi các làng nghề cả nước, nhất là các làng nghề truyền thống đang ra sức khắc phục khó khăn để bảo vệ và phát huy những di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công đậm đà bản sắc của dân tộc ta, kể cả bản sắc của mỗi vùng, miền, thậm chí của mỗi làng nghề, mỗi nghệ nhân, thì việc nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, từ thực tiễn mà khái quát lên thành lý luận đang rất yếu, chưa được quan tâm đúng mức. Quan trọng hơn nữa là nếu nghiên cứu sâu lịch sử phát triển của mỗi nghề thủ công, có thể thấy giá trị cao đẹp của các nghề, công sức của cha ông ta trong phát triển nghề, những bước thăng trầm của mỗi nghề và sức sống mãnh liệt của mỗi nghề; Từ đó, thấy rõ hơn ý nghĩa của việc bảo tồn và phát huy di sản nghề và xây dựng làng nghề trong thời đại mới.


Có thể khẳng định: Nếu như công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về nghề thủ công và làng nghề chưa theo kịp, chưa có những kiến thức, triết lý và khái niệm cần thiết về di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống, thì rất dễ sa vào những vụ việc cụ thể, chạy theo hình thức mà không quan tâm nội dung, cũng dễ sa vào những hoạt động lợi dụng “thương mại hóa” di sản, thậm chí “kinh doanh tâm linh” thu lợi bất chính (như trong việc tôn tạo di sản, tổ chức lễ hội, tôn vinh …) mà xã hội đã lên án. Nếu như thế, càng khó có thể nói đến yêu cầu và sứ mạng của lý luận là tạo căn cứ cho hoạch định và thực thi những cơ chế, chính sách về nghề thủ công và làng nghề mà chúng ta vẫn nói đó là di sản văn hóa phi vật thể quý báu của dân tộc cần bảo vệ, khai thác và phát huy. Rõ ràng là đang rất cần những nghiên cứu sâu về lý luận và thực tiễn đối với nghề thủ công và làng nghề làm cơ sở cho những cơ chế, chính sách cho bước phát triển bền vững của lĩnh vực này.

MỘT CUỐN SÁCH TÂM HUYẾT VÀ TRÍ TUỆ

Trong bối cảnh như trên, bộ sách “Làng nghề Viêt Nam- miệt mài cuộc hành trình di sản” do Văn phòng đại diện Hiệp hội tại Tp Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn đã thể hiện rõ “tâm” và “tầm” của những người chủ trì.

Bộ sách gồm 766 trang, chia làm hai tập: Tập 1 có tiêu đề “Di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống - Văn hóa sống của dân tộc”; Tập 2 có tiêu đề “Đa dạng di sản văn hóa phi vật thể - Nghề thủ công truyền thống Việt Nam”. Tập 1 gồm các bài viết đề cập những vấn đề chung về di sản văn hóa và nghề thủ công truyền thống Việt Nam, phát huy di sản bằng các hoạt động du lịch, đồng thời giới thiệu kinh nghiệm khá chi tiết của nước Áo trong việc khai thác, phát huy di sản, khi họ coi nghề thủ công truyền thống là di sản văn hóa phi vật thể và là thành tố kinh tế của đất nước. Tập 2 đi sâu vào tính đa dạng của di sản văn hóa nghề thủ công truyền thống Việt Nam từ các vùng, miền đến một số địa phương tiêu biểu, một số nghề và nghệ nhân tiêu biểu. Như vậy là bộ sách đã đi từ nhận thức lý luận đến thực tiễn, cung cấp cho người đọc những kiến thức đa dạng, phong phú, vừa rộng vừa sâu.


Qua bộ sách, có thể thấy những vấn đề quan trọng góp phần giúp người đọc thêm kiến thức, khẳng định những giá trị của di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống nước ta cũng như yêu cầu bảo vệ và phát huy các di sản quý báu ấy.

Trước hết, đó là nhận thức sâu thêm thuật ngữ “di sản văn hóa phi vật thể” và những vấn đề lý luận cơ bản về di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công.

Theo bộ sách, di sản văn hóa phi vật thể bao gồm “các truyền thống hoặc các biểu hiện sống mà ngày nay chúng ta được thừa hưởng từ tổ tiên và đang truyền lại cho con cháu đời sau, chẳng hạn như biểu đạt truyền khẩu, phong tục, tập quán, nghệ thuật biểu diễn, thực hành, ứng xử xã hội, nghi lễ, sự kiện lễ hội, kiến thức và thực hành liên quan đến tự nhiên và vũ trụ hoặc kiến thức và kỹ năng để sản xuất đồ thủ công truyền thống” (tr. 54). “Nghề thủ công truyền thống” đã được khẳng định là một trong 05 hình thức di sản văn hóa phi vật thể theo Công ước về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO năm 2003. Luật Di sản văn hóa của Việt Nam năm 2009 cũng đã quy định “Nghề thủ công truyền thống” là một trong 07 loại hình di sản văn hóa phi vật thể. Như vậy, người đọc không những hiểu sâu về di sản văn hóa phi vật thể trong các nghề thủ công mỹ nghệ, mà còn hiểu thêm rằng “tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể không phải là sự thể hiện văn hóa của chính nó mà là sự giàu có của kiến thức và kỹ năng được truyền lại thông qua sự thể hiện từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo” (tr. 55). Chính vì thế, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định “di sản văn hóa phi vật thể là di sản sống của chúng ta” (tr.57), khi họ coi di sản văn hóa không chỉ bao gồm các đặc tính hữu hình, mà đặc biệt hơn nữa, còn có các yếu tố thiết yếu đại diện cho văn hóa sống của cộng đồng con người với sự tiến hóa và phát triển liên tục của con người.

Hai là, nhũng đóng góp rất quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống cho mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Như Chương trình nghị sự vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc năm 2015 đã đưa ra khái niệm phát triển bền vững gồm ba phương diện kinh tế, xã hội và môi trường, có thể thấy di sản văn hóa phi vật thể có thể đóng góp hiệu quả vào sự phát triển bền vững trên từng phương diện nói trên. Đối với nước ta cũng vậy, bộ sách đã diễn giải về từng lĩnh vực mà chúng ta đang quan tâm trong sự phát triển bền vững đất nước (từ tr. 107). Đó là: (i) Phát triển xã hội toàn diện, trong đó có việc bảo đảm an ninh lương thực bền vững; Chăm sóc y tế chất lượng; Tiếp cận nguồn nước và vệ sinh môi trường an toàn; Giáo dục có chất lượng; Hệ thống bảo trợ xã hội cho mọi người và bình đẳng giới. (ii) Bền vững về môi trường, trong đó có các nội dung như giúp bảo vệ đa dạng sinh học; góp phần bảo vệ môi trường bền vững; Góp phần tăng khả năng ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu; (iii) Phát triển kinh tế toàn diện; Quan trọng nhất là những tri thức, kỹ năng và thực hành nghề được các thế hệ duy trì và phát huy, tạo sinh kế cho các nhóm và cộng đồng dân cư nông thôn; Góp phần tạo nguồn lực cho phát triển; Tạo ra thu nhập và công việc bền vững cho nhiều cá nhân và cộng đồng, bao gồm người nghèo và những đối tượng dễ bị tổn thương; triển khai các hoạt động du lịch liên quan đến di sản văn hóa phi vật thể; và (iv) Bảo vệ hòa bình và an ninh: Góp phần duy trì sự bình yên, tình thương yêu trong cộng đồng; Giúp ngăn chặn hoặc giải quyết các tranh chấp về lợi ích, giúp mọi cơ sở liên kết với nhau theo chuỗi giá trị trong sản xuất kinh doanh, từ đó bảo đảm an ninh, đồng thuận xã hội, vượt qua sự hiểu lầm, thậm chí đối đầu, hận thù và bạo lực.

Ba là, những giải pháp chủ yếu để bảo vệ, khai thác và phát huy di sản phi vật thể nghề thủ công truyền thống.

Bộ sách đã chỉ ra các yếu tố cấu thành chính của di sản văn hóa phi vật thể bao gồm sự “tự xác định”, cùng với sự “tái tạo liên tục” để đáp ứng nhu cầu của xã hội, “mối liên hệ với bản sắc văn hóa” của các cộng đồng với nhóm người; “tính xác thực” của chúng; Và mối quan hệ không thể hòa tan của chúng với quyền con người (tr. 52); Chính vì vậy, di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ, đây là một yêu cầu mang tính quốc tế.

Theo các tác giả của bộ sách, Công ước 2003 của Liên hợp quốc chủ yếu đề cập các kỹ năng và kiến thức liên quan đến nghề thủ công hơn là bản thân các sản phẩm thủ công; thay vì tập trung vào việc bảo tồn các hiện vật thủ công, các biện pháp bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể thủ công nghiệp tập trung vào việc khuyến khích các nghệ nhân tiếp tục sản xuất thủ công và truyền kỹ năng và kiến thức của họ cho người khác, đặc biệt là trong cộng đồng của chính họ (tr. 99). Nói cách khác, “mục tiêu của việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể thủ công là bảo đảm rằng kiến thức và kỹ năng liên quan đến nghề truyền thống được truyền lại cho các thế hệ tương lai, để các nghề thủ công có thể tiếp tục được thực hành sản xuất trong cộng đồng của họ, cung cấp sinh kế cho người làm và phản ánh sự sáng tạo” (tr. 101). Trách nhiệm này không phải của ai khác, mà chính là của cộng động các làng nghề thủ công truyền thống, với sự trợ giúp của các tổ chức xã hội liên quan và về cơ chế, chính sách của cơ quan nhà nước.

Đáng chú ý là bộ sách đã giới thiệu khá chi tiết bản Báo cáo “Nghề thủ công truyền thống là di sản văn hóa phi vật thể và là thành tố kinh tế Áo” do đích thân Thủ tướng Liên bang Áo và Bộ kinh tế và kỹ thuật số Liên bang Áo ủy quyền thực hiện năm 2019. Báo cáo dày 230 trang, được các tác giả bộ sách giới thiệu tóm tắt nhưng rất đầy đủ, coi đây là một “quy trình nghiên cứu khoa học về giá trị nghề thủ công truyền thống, đồng thời cung cấp những kết luận khoa học. Tài liệu này có thể được tham khảo nhằm rút ngắn quá trình nghiên cứu nghề thủ công truyền thống Việt Nam “ (tr. 193). Tác giả nhấn mạnh “Mối quan tâm chính của Báo cáo không phải là bảo quản các đồ vật mà là bảo vệ quá trình sản xuất – điều này đòi hỏi phải bảo vệ các tài năng, kỹ năng và kiến thức chuyên môn cần thiết để sản xuất các đồ vật đó” (tr. 196). Từ đó, có thể thấy rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát huy đội ngũ nghệ nhân các làng nghề truyền thống.

Trên đây, là một số cảm nhận đối với bộ sách “Làng nghề Viêt Nam – miệt mài cuộc hành trình di sản” do Văn phòng đại diện Hiệp hội Làng nghề Việt Nam tại Tp Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn - một bộ sách quý thể hiện Tâm và Tầm của nhũng người biên soạn, xin được giới thiệu để những người quan tâm đến vấn đề di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống tìm đọc. Phải chăng, qua bộ sách, những người biên soạn muốn nói với các nhà quản lý, các làng nghề, các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề những trăn trở, suy nghĩ về tương lai thật chưa rõ ràng, bền vững trong công cuộc chấn hưng và phát triển làng nghề nước ta? Mong rằng những cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có trách nhiệm nắm và hiểu được tầm quan trọng của vấn đề, từ đó có những giải pháp thiết thực để bảo vệ, khai thác và phát huy di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công rất quý của dân tộc ta theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, tổ chức.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam


Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Sản phẩm OCOP Cao Bằng vươn xa nhờ thương mại điện tử

Sản phẩm OCOP Cao Bằng vươn xa nhờ thương mại điện tử

OVN - Cao Bằng hiện có 174 sản phẩm OCOP được công nhận, trong đó 28 sản phẩm đã chính thức có mặt trên sàn thương mại điện tử buudien.vn. Đây là bước đi quan trọng giúp sản phẩm nông sản địa phương tiếp cận người tiêu dùng cả nước, đồng thời mở ra hướng
Thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, môi trường

Thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, môi trường

LNV - Chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo đang trở thành động lực quan trọng để nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và yêu cầu hội nhập.
Khai mạc phiên chợ nông sản đặc sản 2025 tại Hà Nội

Khai mạc phiên chợ nông sản đặc sản 2025 tại Hà Nội

LNV - Sáng 18/9, tại Khu Hội chợ Triển lãm giao dịch Kinh tế và Thương mại (số 489 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội), Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Trung tâm Xúc tiến thương mại Nông nghiệp tổ chức Phiên chợ Nông sản, Đặc sản vùng miền năm 2025, kết hợp Diễn đàn “Chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong phát triển nông nghiệp và bảo vệ môi trường”.
Xã Hưng Đạo (TP Hà Nội): Tự lực tự cường khắc phục khó khăn trong chuyển đổi chính quyền hai cấp

Xã Hưng Đạo (TP Hà Nội): Tự lực tự cường khắc phục khó khăn trong chuyển đổi chính quyền hai cấp

LNV - Xã Hưng Đạo nằm ở phía Tây Nam thủ đô Hà Nội. Hưng Đạo được sáp nhập từ diện tích và dân số 5 xã thuộc huyện Quốc Oai (cũ) bao gồm: Đồng Quang, Tân Phú, Đại Thành, Tân Hòa, Cộng Hòa. Hiện Hưng Đạo có diện tích 24,90km2; Dân số 49.357 người.
Kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo an toàn thực phẩm Tết Trung thu 2025

Kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo an toàn thực phẩm Tết Trung thu 2025

LNV - Trong dịp Tết Trung thu năm nay, lực lượng Quản lý thị trường Hà Nội đồng loạt ra quân kiểm tra, kiểm soát thị trường, đặc biệt là các cơ sở sản xuất, kinh doanh bánh trung thu. Chỉ sau ít ngày triển khai, nhiều vụ việc vi phạm đã bị phát hiện, góp
Giao diện di động