Hà Nội: 28°C Hà Nội
Đà Nẵng: 29°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 30°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 28°C Thừa Thiên Huế

Làng nghề thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

LNV - Ngày 9/3/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Chỉ thị số 01-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trong bài này, xin nêu lên một số kiến nghị để các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề có thể tham khảo trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng (dưới đây, gọi tắt là Đại hội XIII) là sự tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn, kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025; Xác định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045; có giá trị định hướng và lãnh đạo, chỉ đạo toàn bộ các hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội. Các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề chúng ta cần nghiên cứu và vận dụng cụ thể, đề ra Chương trình, Kế hoạch hành động đưa Nghị quyết vào cuộc sống của làng nghề.

KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ BỀN VỮNG

Đại hội XIII đã quyết định “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; Phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (trích Báo cáo Chính trị tại Đại hội). Mục tiêu cụ thể: đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.


Khát vọng phát triển đất nước do Đại hội XIII hiệu triệu cần được chuyển thành khát vọng phát triển làng nghề bền vững, thấm sâu vào mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề, vào từng người lao động, biến thành hành động và kết quả cụ thể, thiết thực đáp ứng hiệu triệu của Đảng.

Muốn vậy, làng nghề phải đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển: Một tầm nhìn mới về văn hóa làng nghề, về sự phát triển của nghề thủ công mỹ nghệ trong giai đoạn mới của công cuộc phát triển đất nước. Phải nêu cao ý chí, khát vọng vươn lên, phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, để kinh tế làng nghề thịnh vượng hơn, đời sống của cư dân làng nghề khá hơn nhiều so với hiện nay. Điều đáng mừng là nhiều chủ cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề đang trong độ tuổi thanh niên, một số nghệ nhân học tập bài bản, tốt nghiệp các trường mỹ thuật công nghiệp nay chí thú về quê hương lập nghiệp. Họ đang có hoài bão làm ăn lớn, thay đổi bộ mặt làng nghề. Theo tinh thần ấy, mỗi cơ sở làng nghề cần xây dựng Chương trình, Kế hoạch, đặt mục tiêu phấn đấu cao trong những năm tới về năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như về tăng trưởng doanh thu hằng năm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của người lao động.

CẦN NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO

Nếu như ý chí, khát vọng phát triển là đột phá trong tư duy về mục tiêu phấn đấu của làng nghề, thì trong thực hiện, rất cần có đổi mới, sáng tạo mạnh mẽ trong biện pháp. Đại hội XIII quyết định “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; Hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới” (trích Báo cáo Chính trị tại Đại hội).

Như mọi người đã biết, chất lượng và sức cạnh tranh đang là yếu tố sống còn của sản phẩm làng nghề trong điều kiện hiện nay. Những biện pháp cần thực hiện đã rõ, đó là: (i) xác định sản phẩm chủ lực đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường; (ii) quy hoạch vùng nguyên liệu (một số nghề đang thiếu nguyên liệu, phải mua từ xa, tốn chi phí vận chuyển); (iii) đấy mạnh thiết kế, đổi mới mẫu mã; (iv) cải tiến quy trình sản xuất, tiến tới sản xuất xanh, bảo vệ môi trường; (v) áp dụng kinh tế số, xây dựng thương hiệu, nhãn mã vạch xuất xứ; (vi) tăng cường tiếp thị, mở rộng thị trường, phát triển du lịch, v.v… Những biện pháp này, lâu nay vẫn thực hiện, song lần này phải được thực hiện mạnh mẽ hơn, sáng tạo hơn và đạt kết quả cao hơn, trên cơ sở ứng dụng công nghệ 4.0.


Một số biện pháp cần được chú trọng trong điều kiện hiện nay, nhất là khi đại dịch Covid-19 vẫn còn hoành hành trên khắp thế giới:

Một là, cải tiến mẫu mã. Lâu nay, mẫu mã hàng thủ công vẫn bị coi là cũ kỹ, chậm đổi mới, nay cần được quan tâm trước tiên. Có thể phân ra ba loại: (i) loại sản phẩm làm đúng theo hình dáng, màu sắc, kích cỡ cổ truyền để đáp ứng nhu cầu của khách hàng thích chơi đồ cổ; (ii) loại sản phẩm theo mẫu mã cũ nhưng có cải tiến, hiện đại hơn về hình dáng, màu sắc, v.v…; (iii) loại sản phẩm có mẫu mã hoàn toàn mới, thực hiện theo sáng tạo của nghệ nhân; đáng mừng là ngày càng có thêm nhiều sản phẩm thuộc loại này, thể hiện tư duy sáng tạo phong phú của nghệ nhân, được khách hàng ưa chuộng. Các cơ sở làng nghề cần tìm hiểu nhu cầu của khách hàng đối với mặt hàng của cơ sở mình mà cải tiến mẫu mã phù hợp.

Hai là, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề. Cơ sở sản xuất làng nghề cần quan tâm thực hiện những biện pháp liên quan, như: chỉ dẫn địa lý, thương hiệu, mã vạch xuất xứ (QR Code), v.v…Đó là những thông tin rất cần thiết để khách hàng nắm được xuất xứ của hàng hóa, như sản xuất tại cơ sở nào, bằng nguyên liệu gì, mẫu mã ra sao, giá cả thế nào, v.v… qua đó tăng độ tin cậy của khách hàng với sản phẩm, mở rộng thị trường, nhất là bán hàng qua internet đang trở nên phổ biến ngày nay.

Ba là, thực hiện các quan hệ liên kết, kết nối. Đó là liên kết giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh trong cùng ngành nghề; Giữa các cơ sở trong một làng hoặc một vùng địa lý; Liên kết giữa các cơ sở với các cơ quan thuộc các bộ, ngành (thuế, quản lý thị trường, quản lý môi trường, vận tải …) hoặc các tổ chức dịch vụ, tư vấn (các viện, trường), v.v… qua đó, tạo thêm nguồn lực cho các cơ sở làng nghề. Cần quan tâm liên kết theo chuỗi giá trị, tức là liên kết toàn diện, hoàn chỉnh, từ khâu cung ứng nguyên vật liệu đến thiết kế mãu mã, tổ chức sản xuất, đến tiếp thị, đưa hàng hóa ra thị trường…nhằm mục tiêu sản xuất hàng hóa có chất lượng và đem lại hiệu quả cao, đồng thời phân chia lợi ích hợp lý giữa các bên tham gia quá trình sản xuất kinh doanh.

HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN

Để bảo đảm cho làng nghề đổi mới sáng tạo, thực hiện khát vọng phát triển, Nhà nước cần tiếp tục chuyển đổi chức năng, tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho làng nghề trong thực hiện nhiệm vụ kép chống dịch Covid-19 và phát triển sản xuất kinh doanh.

Những năm qua, cùng với sự chuyển đổi sang kinh tế thị trường, Nhà nước ta đã chuyển dần sang Nhà nước kiến tạo phát triển. Theo các nhà nghiên cứu, “Nhà nước kiến tạo phát triển” là một mô hình quản lý nhà nước được Giáo sư Mỹ Chalmers Ashby Jonhson (1931-2010) nêu lên đầu tiên, trong đó Nhà nước đề ra các chính sách mang tính định hướng và thúc đẩy sự phát triển với tốc độ cao; Tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; Tăng cường giám sát để phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô... tạo được sự phát triển nhanh của đất nước. Nhiều nước đã vận dụng thành công mô hình này, tùy theo đặc điểm của từng nước, song vẫn có một số đặc trưng chung. Đó là: (i) Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; (ii) Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước được tổ chức tinh gọn với đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, mẫn cán và trong sạch; (iii) Xử lý hợp lý quan hệ nhà nước – thị trường – doanh nghiệp; (iv) Thiết lập và phát triển nền hành chính công phục vụ quá trình phát triển.

Đại hội XIII đã quyết định “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước” (trích Báo cáo Chính trị tại Đại hội). Từ thực tiễn, xin kiến nghị một số điểm sau đây:

Trước hết, là tiếp tục hoàn chỉnh thể chế. Đó là hệ thống thể chế phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân, ý chí, khát vọng, sức sáng tạo; Giải phóng mọi lực lượng sản xuất; Tạo sự đồng thuận của toàn dân tộc. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh bình đẳng. Nhà nước đảm bảo thực thi nguyên tắc thượng tôn pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; Toàn án xét xử theo luật, không chịu tác động của bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào. Thực hiện đầy đủ các quyền của công dân đã được quy định tại Điều 25 Hiếp pháp 2013 “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”.

Hai là, tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả. Nhà nước phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân; Công chức tinh thông nghiệp vụ, trong sạch, liêm chính, phòng ngừa và đẩy lùi tình trạng tham nhũng và các biểu hiện tha hóa quyền lực. Đẩy mạnh cải cách hành chính: Tiếp tục xóa bỏ những đối xử bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhất là trong tiếp cận đất đai và tín dụng; Xóa bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết đang là rào cản ảnh hưởng đến sức vươn lên của các làng nghề.

Ba là, giải quyết đúng đắn quan hệ giữa ba trụ cột của nền kinh tế: Nhà nước, thị trường, xã hội. Nhà nước thực hiện đúng chức năng kiến tạo phát triển; Thị trường vận hành theo đúng các quy luật của thị trường hiện đại; Các tổ chức xã hội thực hiện những dịch vụ mà Nhà nước không cần tham gia, đồng thời khỏa lấp những khiếm khuyết của thị trường. Cần tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động của các tổ chức xã hội, như Đại hội XIII đã quyết định “Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường” (trích Báo cáo Chính trị tại Đại hội).

Bốn là, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện đồng bộ các chính sách tài khóa, tiền tệ, thương mại, đầu tư (như giãn, hoãn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập, tiền thuê đất, các chính sách nới lỏng về tín dụng, cho vay với lãi suất thấp để trả lương cho người lao động, v.v…), giúp các cơ sở làng nghề tiếp cận các chính sách ấy cùng các chính sách hiện hành và khai thác các thuận lợi trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà nước ta đã ký kết với các đối tác, để phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh.

Hy vọng rằng các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề nước ta quán triệt sâu sắc và thực hiện sáng tạo Nghị quyết Đại hội XIII, với khát vọng phát triển mạnh mẽ hơn, bền vững hơn, sẽ đạt nhiều thành tựu mới, đóng góp xứng đáng vào công cuộc phát triển đất nước.


CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

LNV - Khuyến công gắn với định hướng phát triển kinh tế – xã hội Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Bà Rịa – Vũng Tàu xác định công nghiệp là trụ cột chủ lực, chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch cơ cấu từ khai khoáng san
Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

LNV - Trường THCS Nguyễn Trường Tộ là ngôi trường thuộc TOP trường THCS chất lượng tốt ở Hà Nội. Để đạt được những thành tích đáng tự hào ấy, Trường THCS Nguyễn Trường Tộ luôn chú trọng đổi mới việc dạy và học với phương châm ”Lấy học sinh làm trung tâm”,
Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

LNV - Những ngày này, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hải Phòng đang tất bật chuẩn bị cho Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc. Năm nay, lễ hội mang ý nghĩa đặc biệt hơn khi Đền Kiếp Bạc và Chùa Côn Sơn nằm trong quần thể di tích, danh thắng được UNESCO côn
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm g
Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

LNV - Nằm ở vùng trung du giàu truyền thống cách mạng, xã Hoàng Vân (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh) không chỉ được biết đến bởi những dấu ấn lịch sử, mà còn nổi bật với một loại cây đặc sản mang lại giá trị kinh tế cao: trám đen. Cứ vào độ cuối tháng 6 đế
Giao diện di động