Doanh nghiệp, làng nghề phát triển bền vững khi tham gia Hiệp định EVFTA
Để tận dụng tối đa những cơ hội, chinh phục những thách thức, mang lại lợi ích lớn nhất cho mình thì các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề, các cơ quan ban ngành của Nhà nước và các địa phương cần có quá trình chuẩn bị chu đáo về tất cả những vấn đề có liên quan.
Cơ hội
EU với dân số 450 triệu người, là liên minh của những nước có nền kinh tế phát triển, là thị trường rộng lớn với sức mua cao, là mục tiêu của rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa. EU luôn đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng sản phẩm hàng đầu trên thế giới. người dân EU rất thích hàng hóa của Việt Nam trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
Đối với xuất khẩu của Việt Nam, ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. Và gần 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn. Cho đến nay, đây là mức cam kết cao nhất mà một đối tác dành cho Việt Nam trong các Hiệp định thương mại tự do đã được ký kết. Lợi ích này đặc biệt có ý nghĩa khi EU liên tục là một trong hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước ta, Hiệp định EVFTA sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng khoảng 20% vào năm 2022, hơn 42% vào năm 2025 và hơn 44% vào năm 2030.
EVFTA góp phần làm GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân 2,18-3,25% (năm 2019- 2023); 4,57- 5,3% (năm 2024-2028) và 7,07- 7,72% (năm 2029- 2033).
Tiếp cận thị trường EU giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường, giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường truyền thống, mở “cánh cửa khác” cho hàng hóa Việt Nam khi thị trường truyền thống gặp rủi ro.
Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, sản xuất nông nghiệp, hàng thủ công mỹ nghệ, dệt may, giày da hiện nay vẫn là lợi thế của Việt Nam trong đó có các làng nghề. Theo Hiệp hội làng nghề Việt Nam, cả nước hiện có 5.411 làng nghề và làng có nghề, trong đó có 2.008 làng nghề, làng nghề truyền thống và 115 nghề truyền thống đã được công nhận tạo công ăn việc làm cho khoảng 11 triệu người lao động ở hơn 2.000 làng nghề trên khắp đất nước.
EVFTA mở ra cơ hội tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu rất lớn cho các doanh nghiệp trong đó có các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề. Với thị trường EU, tất cả các loại hàng hóa đáp ứng yêu cầu thì tự động sẽ được vào. Thị trường EU mặc dù rất khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, lao động, môi trường nhưng cũng rất minh bạch. Nếu các các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề tiếp cận được thì cần phải chủ động đáp ứng được một số quy tắc nghiêm ngặt về nguồn gốc xuất xứ, nguyên liệu sản xuất đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ, chuẩn bị các vấn đề về kỹ thuật trong quy trình xuất khẩu hàng hóa.
Mặt khác, khi tham gia Hiệp định EVFTA, các sản phẩm làng nghề nói chung và sản phẩm thủ công mỹ nghệ nói riêng đều nằm trong diện được miễn thuế ngay. Điều này giúp sản phẩm làng nghề đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu sang thị trường EU mà không có giới hạn về mặt thuế quan và định lượng.
EU có thu nhập bình quân đầu người rất cao, tiêu dùng tương đối đa dạng, phong phú. Đặc biệt thị trường này có trào lưu tiêu dùng đơn chiếc và tiêu dùng hàng làm thủ công. Do đó việc phát triển các sản phẩm mang tính chất truyền thống sẽ là thế mạnh của các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề. Mặt khác, EU có quá trình công nghiệp hóa với các làng nghề lâu dài, đây cũng là cơ sở để cho Việt Nam tiếp cận được công nghệ phù hợp với các làng nghề…
Thách thức
Cơ hội lớn nhưng chỉ thành lợi ích thực sự khi các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề chuẩn bị đủ nội lực để tham gia. EVFTA được ví như “đường cao tốc” để nhanh đến đích, các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề phải chuẩn bị tốt năng lực cạnh tranh, bên cạnh đó là sự hỗ trợ của nhà nước.
Một trong những hạn chế lớn của các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề là không có hoặc có rất ít khả năng nghiên cứu thị trường. Các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề bán hàng hóa ra thị trường căn cứ vào quan sát thực tiễn, nhưng với thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường cao cấp như EU, việc khảo sát thị trường để xây dựng chiến lược sản phẩm là điều bất khả thi. Hiệp định EVFTA là những thỏa thuận về tự do hóa thương mại giữa EU và Việt Nam. Do vậy, những hàng hóa có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam mới được hưởng những ưu đãi thuế quan từ Liên minh Châu Âu, đặc biệt là hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ, thủy hải sản, nông sản, trong đó có những mặt hàng của làng nghề chúng ta…nghĩa là tỷ lệ nội địa hóa hàng hóa Việt Nam phải đạt từ 40% - 45%.
Mặt khác, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên còn gặp rất nhiều hạn chế như liên kết lại lỏng nẻo, ít chú trọng đến khâu thiết kế nên chủ yếu là gia công, kinh doanh lại mang tính cá thể nhỏ lẻ, manh mún nên rất khó đáp ứng được các đơn hàng lớn.
Khi thực hiện Hiệp định EVFTA, sẽ có các sản phẩm làng nghề của EU vào Việt Nam với giá cả hợp lý và với chất lượng cao cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm làng nghề Việt Nam. Trong khi sản phẩm làng nghề Việt Nam thiếu tính đồng loạt, đặc biệt là các sản phẩm làm thủ công, điều này khiến các Làng nghề và doanh nghiệp làng nghề gặp khó trước đòi hỏi về những đơn hàng xuất khẩu lớn của khách hàng EU. Cách thức quản lý, công nghệ của các làng nghề Việt Nam hiện nay quá lạc hậu, để cạnh tranh được thì đây là bài toán rất khó.
Mặt khác, các sản phẩm làng nghề thường gắn với văn hóa của đất nước. Du khách châu Âu mong muốn mua sản phẩm mang dấu ấn văn hóa của quốc gia và nghiêng nhiều về văn hóa dân gian. Tuy nhiên, nhóm hàng gỗ và thủ công mỹ nghệ của các làng nghề hiện nay mẫu mã vẫn còn đơn điệu, chứa yếu tố tâm linh đạo phật, điều này khiến sản phẩm rất khó tiếp cận người tiêu dùng EU.
Đối với mặt hàng gốm và sứ, sản phẩm đẹp nhưng cồng kềnh dễ vỡ nên bán cho khách du lịch khó và việc xuất khẩu chi phí sẽ rất lớn, giá trị thu được lại thấp. Các sản phẩm làng nghề có tính dân tộc cao nhưng lại không tinh xảo như sản phẩm truyền thống của EU. Văn hóa tương đối khác nên việc tận dụng được cơ hội này, các làng nghề phải nâng lên về mặt tinh sảo, đậm chất văn hóa Việt, hình dáng, trọng lượng phải cải tiến phù hợp thị hiếu tiêu dùng.
Thực tế các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề, dù có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước nhưng sự phát triển của các làng nghề nói chung và sản phẩm thủ công mỹ nghệ được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm năng. Một trong những hạn chế lớn nhất là khâu mẫu mã sản phẩm. Khi tham gia Hiệp định EVFTA, việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp là rất cần thiết. Các doanh nghiệp, các hộ sản xuất tại các làng nghề cần đặc biệt lưu tâm thương hiệu, chỉ dẫn địa lý mang tính chất địa điểm làng nghề. Khi đó, sẽ khẳng định được thương hiệu của Việt Nam khi tham gia xuất khẩu và bảo đảm được quyền lợi nhà xuất khẩu.
Hiệp định EVFTA còn đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến quá trình sản xuất như: Các làng nghề, doanh nhiệp làng nghề sản xuất hàng hóa phải đảm bảo xử lý chất thải, nước thải theo quy định, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, quy định về nhiệt độ, tỷ lệ bụi trong không khí, không sử dụng lao động trẻ em, không để xảy ra sự bất bình đẳng giới trong các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề; Các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội, kiểm soát gian lận thương mại là những thách thức khi tham gia EVFTA.
Những giải pháp
Về phía các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề: Các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề (LNDNLN) muốn tận dụng cơ hội cần phải thực hiện tốt hai việc:
Một là, tìm hiểu những thông tin về các quy định, điều khoản của hiệp định. Các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề phải chủ động tìm hiểu kỹ những quy định, điều khoản về xuất xứ hàng hóa và về xin chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Hai là, chuẩn bị nội lực tốt để hội nhập tốt. LNDNLN phải thay đổi tập quán kinh doanh nhỏ lẻ, tự phát sang tư duy kinh doanh chuyên nghiệp, chuẩn bị mọi mặt để nâng cao chất lượng hàng hóa, hiện đại hóa công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ lao động, chuyên nghiệp hóa công tác quản trị doanh nghiệp, chủ động tìm kiếm nguồn nguyên liệu trong nước để đảm bảo nguyên tắc xuất xứ.
Chủ động nguồn nguyên liệu, nhất là nguồn nguyên liệu trong nước đối với mặt hàng gỗ, gốm sứ, mây tre đan. Các LNDNLN nên tham gia Hiệp hội để hỗ trợ nhau trong công tác pháp lý, thực hiện đúng các cam kết với đối tác. Tham gia hiệp hội còn giúp các LNDNLN chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất, xây dựng chuẩn sản phẩm, đảm bảo được tính đồng nhất của sản phẩm theo sở thích, yêu cầu của người tiêu dùng EU.
Về phía Nhà nước: Cần tích cực xóa bỏ những rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các LNDNLN thông qua việc đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách hành chính, ban hành chính sách với phương châm tạo thuận lợi tối đa cho các LNDNLN, minh bạch và bảo đảm công bằng, không có sự phân biêt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Điều quan trọng là chúng ta cần thay đổi tư duy trong việc xây dựng chính sách từ cả ở cấp trung ương và địa phương, đó là lấy các LNDNLN làm trọng tâm và lấy chuẩn mực quốc tế làm thước đo. Có như vậy, những chính sách được ban hành mới thực sự đi vào cuộc sống và giúp các LNDNLN hoạt động sản xuất kinh doanh được tốt hơn; Trong giai đoạn đầu tham gia EVFTA, Nhà nước cần hỗ trợ theo hướng đồng hành cùng các LNDNLN, đặc biệt là hỗ trợ về thủ tục pháp lý liên quan đến xuất khẩu. Trước hết, các cơ quan chức năng cần xây dựng trung tâm cung cấp thông tin và tư vấn đến các LNDNLN. Nếu có xảy ra vướng mắc hay phát sinh vấn đề các LNDNLN không tự giải quyết được, trung tâm sẽ hỗ trợ các LNDNLN giải quyết. Nhà nước cần đồng hành với các LNDNLN trong chứng nhận xuất xứ hàng hóa ở thời gian đầu, khi họ mới bất đầu đưa sản phẩm vào thị trường EU. Đồng thời, Nhà nước hướng dẫn để các LNDNLN chủ động tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Ngoài ra, cần thường xuyên tổ chức các hội chợ, triễn lãm hàng hóa Việt Nam tại thị trường EU để quảng bá cho thương hiệu Việt, giúp người tiêu dùng Châu Âu nhanh chóng nắm bắt những thông tin chính xác, kịp thời, tạo lòng tin của họ về hàng hóa Việt Nam.
Nhà nước cũng cần hoàn thiện thể chế kinh tế để tạo môi trường pháp lý đầy đủ, phù hợp với những quy định, thể lệ chung của thế giới cũng như của các hiệp định về thương mại tự do, giúp các LNDNLN có cơ sở pháp lý xây dựng chiến lược kinh doanh của mình.
Về phía Hiệp hội làng nghề Việt Nam: Với chức năng là một tổ chức xã hội nghề nghiệp gắn bó với cộng đồng làng nghề trong cả nước, Hiệp hội làng nghề Việt Nam (HHLN) càng cần phát huy trách nhiệm của mình trong việc thực hiện các biện pháp để các LNDNLN tận dụng mọi cơ hội cũng như khắc phục những thách thức trong tham gia Hiệp định EVFTA. Như tuyên truyền, phổ biến về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và Hiệp định EVFTA nói riêng, nhất là những điều khoản liên quan trực tiếp đến làng nghề; HHLN có thể góp ý kiến về giải pháp và trực tiếp thực hiện các dịch vụ phục vụ các LNDNLN, đó là những công việc nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, nâng cao sức cạnh tranh của mỗi sản phẩm, đáp ứng trúng yêu cầu của thị trường EU. Cần phải nhanh chóng có những giải pháp hết sức cụ thể và thiết thực như: Ứng dụng khoa học công nghệ; Cải tiến tổ chức quản lý, chú ý xuất xứ nguyên vật liệu, hàng hóa, bồi dưỡng và đào tạo nhân lực, quan tâm phát huy nghệ nhân, thợ giỏi, khắc phục ô nhiễm môi trường. Đồng thời, HHLN cũng cần có những hỗ trợ thiết thực và hiệu quả hơn cho các LNDNLN trong việc quảng bá, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu đối với sản
phẩm đầu ra.
Hiệp định EVFTA là một bước tiến mới trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sự phát triển trong tiến trình tự do hóa thương mại đem lại nhiều lợi ích to lớn cho tất cả các nước tham gia. Những thách thức và cơ hội đối với các LNDNLN tham gia Hiệp định EVFTA, từ đó, đề xuất những giải pháp để các LNDNLN vượt qua những thách thức, hiện thực hóa cơ hội, tiến sâu vào thị trường EU, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
T.S Nguyễn Như Chinh
Phó Chủ tịch Làng nghề Việt Nam
Tin liên quan
Tin mới hơn

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam
09:49 | 25/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa
10:50 | 23/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề
09:39 | 09/06/2025 Nghiên cứu trao đổi

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề
09:18 | 30/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”
14:25 | 23/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam
09:15 | 13/05/2025 Nghiên cứu trao đổi
Tin khác

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng
09:40 | 09/05/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại
09:08 | 15/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Những yếu tố sống còn của làng nghề
14:31 | 10/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Sức sống ở làng nghề Yên Bái
09:31 | 04/04/2025 Nghiên cứu trao đổi

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống
11:34 | 02/04/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một việt nam thịnh vượng
10:03 | 21/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống
09:45 | 13/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Nâng cao năng lực marketing xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt nam
15:44 | 06/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống tích hợp văn hóa đa giá trị
11:40 | 01/03/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bao bì và thương hiệu sản phẩm làng nghề
21:08 | 20/02/2025 Nghiên cứu trao đổi

Giải bài toán bảo vệ môi trường làng nghề
19:28 | 13/02/2025 Nghiên cứu trao đổi

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ
15:29 | 21/01/2025 Nghiên cứu trao đổi

Gian nan hành trình vươn tầm đặc sản OCOP 5 sao
14:44 | 14/01/2025 Nghiên cứu trao đổi

Kết nối nhà thiết kế - doanh nghiệp Tăng giá trị hàng thủ công mỹ nghệ
15:28 | 05/01/2025 Nghiên cứu trao đổi

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì họp hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu nghệ nhân thủ công mỹ nghệ
09:22 | 17/12/2024 Nghiên cứu trao đổi

Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam
11:14 Văn hóa - Xã hội

Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam
11:14 Văn hóa - Xã hội

Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị
11:13 Văn hóa - Xã hội

Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước
11:12 Tin tức

Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP
14:57 OCOP