Hà Nội: 30°C Hà Nội
Đà Nẵng: 31°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 0°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 0°C Thừa Thiên Huế

Cần khung pháp lý cho hộ kinh doanh làng nghề

LNV - Trong các tổ chức sản xuất, kinh doanh làng nghề nước ta hiện nay, hộ kinh doanh chiếm phần chủ yếu; chính vì vậy, rất cần hoàn chỉnh khung khổ pháp lý cho hộ kinh doanh hoạt động hiệu quả, coi đây là một điều kiện cơ bản để làng nghề phát triển bền vững.

Bài viết này nhằm điểm lại thực trạng các chủ trương, chính sách đã ban hành liên quan đến hộ kinh doanh làng nghề, qua đó nêu lên những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, bảo đảm hình thành khung khổ pháp lý hoàn chỉnh cho hộ kinh doanh làng nghề (dưới đây gọi tắt là hộ kinh doanh) hoạt động.

HOÀN CHỈNH CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH

Hiện nay, hộ kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân, về quy mô thuộc loại hình nhỏ và vừa; đang chịu tác động của các thể chế, chính sách về hai mặt đó.

*Trước hết, xin điểm qua các quan điểm chính sách của Đảng qua các kỳ đại hội về kinh tế tư nhân.


Tại Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001), Báo cáo Chính trị đã viết: “Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; Khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước”.

Đến Đại hội X (năm 2006), Báo cáo Chính trị đã viết: “Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”.

Báo cáo chính trị tại Đại hội XI (năm 2011) đã ghi: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”.

Tại Đại hội XII (năm 2016), Báo cáo chính trị ghi: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế Nhà nước”.

Đến Đại hội XIII (năm 2021), Báo cáo chính trị ghi: “Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; Phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động”.

Qua trích dẫn trên đây, có thể rút ra một số nhận xét như sau: (i) Từ nhiều năm nay, theo đường lối đổi mới, Đảng luôn luôn khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm; công nhận kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; Khuyến khích hình thành tập đoàn kinh tế tư nhân lớn mạnh; (ii) Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân liên kết với các doanh nghiệp thành công ty cổ phần, đa sở hữu.


Đó là những vấn đề về thể chế hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó có hộ kinh doanh; Vấn đề đặt ra là cần những nội dung cụ thể hơn để hoàn chỉnh thể chế, nhất là những văn bản quy phạm pháp luật, những cơ chế, chính sách cụ thể để thể chế được thực thi trong cuộc sống.

*Tiếp theo, xin điểm qua các văn bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa, loại hình tổ chức phổ biến của hộ kinh doanh trong làng nghề.

-Được ban hành sớm nhất là Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.

-Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa, có hiệu lực từ ngày 29/8/2009 thay thế Nghị định 90/2001.

-Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 ngày 12/6/2017 gồm 35 điều, có hiệu lực từ ngày 1/1/2018

-Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2020 gồm 101 điều, ban hành theo văn bản số 20/VBHN-VPQH ngày 15/7/2020, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021.

-Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 28/8/2021 (có hiệu lực thi hành từ 10/2021) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017.

Qua những văn bản được trích dẫn trên đây, có thể rút ra một số nhận xét:
  1. Nghị định 90/2001 được Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ chủ trì biên soạn (dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Phan Văn Khải) đã khai mở những nhận thức đầu tiên của chúng ta về ý nghĩa và tầm quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế, đồng thời quy định những chủ trương, chính sách rất quan trọng; (ii) Các văn bản tiếp theo đã cụ thể hóa thêm nhiều chủ trương, chính sách; (iii) Song điều đáng tiếc là cho đến nay, vẫn còn nhiều điều chưa đi vào cuộc sống; Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có hộ kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức.
*Xin điểm qua các văn bản liên quan đến làng nghề.

- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 132/2000/QĐ-TTG ngày 24/11/2000 về một số chính sách phát triển ngành nghề nông thôn.
-Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/ 2006 về phát triển ngành nghề nông thôn.
  • Thông tư số 116 /2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 66/2006/NĐ- CP ngày 07/7/2006 về phát triển ngành nghề nông thôn.
  • Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 9/6/2004 về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn.
  • Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký kinh doanh (trong đó có các điều 66 đến 72 về Hộ kinh doanh).
  • Nghị định 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 về phát triển ngành nghề

nông thôn.- Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 4/1/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp; trong đó có riêng Chương VIII về Hộ kinh doanh với 08 điểm quy định mới, quan trọng nhất là 02 điều khác trước: (i) Được kinh doanh tại nhiều địa điểm;và (ii) Không hạn chế số lao động. (Vấn đề này tác giả đã đăng tạp chí Làng nghề Việt Nam số 15(51) ngày 9/4/ 2021).
Qua các văn bản trên, xin có hai nhận xét: (i) Các văn bản đã liệt kê các ngành nghề nông thôn và các chính sách khuyến khích, song chưa đề cập cụ thể các ngành nghề thủ công thuộc làng nghề; (ii) Các văn bản chưa đề cập các quy định về làng nghề - một thực thế trong cuộc sống nhưng chưa có quy định để hoạt động.
TĂNG CƯỜNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Theo thống kê năm 2019, cả nước có khoảng 5,4 triệu hộ kinh doanh hoạt động trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Các hộ kinh doanh cùng với các doanh nghiệp tư nhân hình thành khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 42% vào GDP, đang phát triển mạnh mẽ, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Trong làng nghề, hộ kinh doanh là hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến nhất. Hộ kinh doanh vừa là một đơn vị kinh tế, vừa là một đơn vị sinh hoạt (gia đình), trong đó các thành viên có chung mục tiêu trong sản xuất, kinh doanh, từ sản xuất đến phân phối. Hộ kinh doanh có những ưu thế như: (i) Có chung một cơ sở kinh doanh, từ sản xuất đến phân phối, có chung mặt bằng sản xuất, các tư liệu sản xuất (công cụ sản xuất, đất đai, nhà xưởng); (ii) Có điều kiện linh hoạt huy động toàn bộ lao động trong hộ; (iii) Chủ gia đình thường là nghệ nhân, thợ giỏi vừa là chủ bỏ vốn ra kinh doanh vửa là người điều hành sản xuất, kinh doanh (doanh nhân); (iv) Có điều kiện thực hiện việc truyền dạy nghề, qua đó giữ gìn và phát huy truyền thống của nghề, lưu truyền bí quyết nghề của từng gia đình, từng nghệ nhân; v) Phân phối thu nhập thuận tình, hợp với nhu cầu cả gia đình, cân đối nhu cầu sinh hoạt và tái đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Hộ kinh doanh cũng có nhiều nhược điểm:( i) Vốn ít, quy mô nhỏ, ít lao động; (ii) Thiếu điều kiện để mở rộng sản xuất, khó đáp ứng những đơn hàng lớn; (iii) Trình độ của chủ hộ thường thấp, kỹ năng quản lý hạn chế, khó đổi mới kỹ thuật, công nghệ; (iv) Thiếu điều kiện tiếp cận thị trường nên thường phải bán hàng với giá thấp...

Điều đáng quan tâm là hiện nay đang có những số liệu khác nhau về làng nghề và hộ kinh doanh làng nghề.

-Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam: Lâu nay, vẫn dùng số liệu cả nước có 5.411 làng nghề (trong đó có 1.864 làng nghề truyền thống) thu hút khoảng 11 triệu lao động.

-Theo Đề án “Bảo tồn và phát triển làng nghề giai đoạn 2021 – 2030” do Cục Kinh tế họp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) chủ trì vào tháng 9/2021: đến năm 2020, cả nước có 1.951 làng nghề được công nhận (trong đó có 889 làng nghề truyền thống); bao gồm 216.357 cơ sở sản xuất, kinh doanh (trong đó có 212.700 hộ kinh doanh) thu hút khoảng 672.000 lao động. Tuy nhiên, những số liệu này chưa được Bộ NN&PTNT chính thức công bố.

-Theo bài viết trên trang 6 Tạp chí Làng nghề Việt Nam số 10 (93) ngày 11/3/2022 dẫn số liệu của Cục Công nghiệp địa phương (Bộ Công thương): tính đến 30/6/2021, cả nước có 2.901 làng nghề và làng có nghề (1.288 làng nghề đã được công nhận) với 988.052 lao động.

Như vậy, rất tiếc là cho đến nay, chưa có một hệ thống tư liệu, số liệu được công bố chính thức về hoạt động của các làng nghề cũng như hộ kinh doanh, từ sản xuất đến kinh doanh, đến đời sống của cư dân làng nghề. Tình trạng này không chỉ gây khó khăn cho công tác nghiên cứu, mà quan trọng hơn, là thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định cơ chế, chính sách cho hoạt động của hộ kinh doanh làng nghề.

Tuy nhiên, xét về các văn bản về quan điểm, chính sách hiện hành như đã nêu trên đây, cũng có thể nói chúng ta đã có tương đối nhiều văn bản, đề cập nhiều vấn đề liên quan, song vẫn chưa có một hệ thống cơ chế, chính sách trực tiếp sát hợp cho hộ kinh doanh làng nghề; Đáng quan tâm nhất là đã có một số chính sách có thể vận dụng, nhưng chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ. Đây chính là vấn đề tổ chức thực hiện mà bài viết này muốn nhấn mạnh.

Qua khảo sát thực tiễn và tham vấn giới nghiên cứu, xin nêu một số kiến nghị như sau.

Một là, hộ kinh doanh làng nghề: về thành phần, thuộc kinh tế tư nhân, về quy mô, thuộc loại hình nhỏ và vừa; vì vậy, các cơ chế, chính sách cần tích hợp các văn bản liên quan cả hai tư cách đó. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan điểm then chốt làm cơ sở cho việc hoạch định các cơ chế, chính sách cho hộ kinh doanh, bảo đảm cho hộ hoạt động hiệu quả, đóng góp xứng đáng cho kinh tế làng nghề cũng như kinh tế nông thôn.

Hai là, chú ý sự vận động phát triển của hộ kinh doanh: Có những hộ tiếp tục giữ hình thức hộ, đồng thời thực hiện các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động; lại có những hộ đăng ký chuyển thành doanh nghiệp. Cần chính sách khuyến khích việc chuyển đổi này như: miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp lần đầu; miễn phí công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp lần đầu; Miễn lệ phí môn bài; Được tư vấn, hướng dẫn về thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán, ...

Ba là, để nâng cao chất lượng hoạt động của hộ kinh doanh, ngoài các cơ chế, chính sách lâu nay vẫn đề cập nhưng chưa được thực hiện (như mặt bằng; đầu tư; tín dụng; Xúc tiến thương mại; lên kết theo chuỗi giá trị; ứng dụng khoa học, công nghệ; Đào tạo nhân lực...), nay cần chú ý bổ sung và có những cách làm mới đối với các vấn đề ấy trong điều kiện “bình thường mới” khi đại dịch COVID-19 đã được kiểm soát, như thực hiện “kinh tế số”, “kinh tế xanh”, nhất là trong ứng dụng Công nghệ 4.0 vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của hộ kinh doanh.

Bốn là, cùng với khung pháp lý cho hộ kinh doanh, cũng cần có khung pháp lý cho (i) Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn; (ii) Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời,tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay. Các loại hình làng nghề này hoạt động hiệu quả sẽ đóng góp quan trọng trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Năm là, thống nhất nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với làng nghề, thực thi quy định tại Nghị định 52/2018 /NĐ-CP ngày 12/4/2018: Bộ NN & PTNT là cơ quan quản lý nhà nước về làng nghề, ngành nghề nông thôn tại trung ương (Điều 15); UBND cấp tỉnh/thành phố là cơ quan quản lý Nhà nước về làng nghề, ngành nghề nông thôn tại địa phương (Điều 23), khắc phục tình trạng phân tán hiện nay (nơi thì do Sở NN&PTNT, nơi thì do Sở Công Thương ...). Thực hiện được việc này sẽ tạo thuận lợi trong quản lý hộ kinh doanh tại điah phương.

Sáu là, thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước với tổ chức xã hội liên quan trong vận hành khung khổ pháp lý cho hộ kinh doanh. Bộ NN&PTNT là cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề, là đầu mối trong quản lý toàn diện các làng nghề, trong đó có hộ kinh doanh, là cơ quan theo dõi, phân tích hoạt động và đề xuất cơ chế, chính sách cho làng nghề và hộ kinh doanh, là cơ quan chủ trì việc phối hợp với các bộ, ban, ngành trong những hoạt động liên quan; đồng thời kiểm tra, đánh giá, theo dõi và thường xuyên bổ sung cơ chế, chính sách theo diễn biễn của thực tiễn; đây cũng là cơ quan có thẩm quyền trong việc công bố các số liệu, tư liệu về hoạt động của các làng nghề, các hộ kinh doanh trong cả nước. Cùng với các cơ quan Nhà nước, rất cần thúc đẩy các hoạt động tư vấn, dịch vụ của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp (hội, hiệp hội ngành nghề) liên quan, coi đây là một thành phần không thể thiếu để nâng cao chất lượng hoạt động của hộ kinh doanh.

CGCC Vũ Quốc Tuấn
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

Nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại

LNV - Nghề dệt cổ truyền dân gian của các tộc người là một mảng đề tài nghiên cứu rất cơ bản trong nghiên cứu dân tộc học và nhân học ở Việt Nam, cũng như ở các nước khác trên thế giới. Qua các nội hàm của việc nghiên cứu nghề dệt cổ truyền dân gian sẽ là những thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất về các thành tố văn hóa cùng những tinh hoa về bản sắc văn hóa của dân tộc đó, mà chúng ta cần tôn vinh duy trì nó trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số cùng sự đóng góp của nó vào kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Trong số đó có nghề dệt cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc mang đậm sắc màu văn hóa Thái.
Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

Gốm cổ Quảng Đức di sản văn hóa tiêu biểu

LNV - Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Phú Yên. Trong suốt hơn 400 năm chiều dài lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Phú Yên thì gốm cổ Quảng Đức đã có tuổi gốm trên 300 năm, xứng đáng được gọi là “báu vật” của miền đất Phú Yên.
Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

Tìm giải pháp phát triển làng nghề gắn với văn hóa, du lịch

LNV - Mỗi làng nghề có một nét đặc trưng, không chỉ mang tới cho du khách những sản phẩm thủ công hấp dẫn mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Do vậy, phát triển làng nghề bền vững gắn với văn hóa, du lịch đang là hướng đi được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

LNV - Ðại hội XIII của Ðảng xác định rõ: Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

Nghề dát vàng bạc quì làng Kiêu Kỵ

LNV - Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm (Hà Nội) có hai nghề truyền thống là dát vàng bạc quì và may đồ da đã có từ lâu đời. Làm vàng bạc quì là một nghề truyền thống, chế biến vàng thật, bạc thật thành bột vàng, bạc (gọi là quì) bằng phương pháp sản xuất thủ công lâu đời, độc đáo.

Tin khác

Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

Khai thác nguồn lực phát triển kinh tế làng nghề tại Thủ đô

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình số 04-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVII về "Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành Nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân giai đoạn 2021-2025".
Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

Cần nâng tầm các sản phẩm làng nghề, lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử

LNV - Theo ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ NN-PTNT, Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ nhiều năm, tuy nhiên có thời điểm chúng ta sản xuất đại trà, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Vì vậy, thời gian tới phải nâng tầm hơn nữa cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

Marketing bán hàng online cho sản phẩm gốm bát tràng

LNV - Đẩy mạnh việc tuyên truyền làm cho doanh nghiệp, hộ sản xuất, hộ kinh doanh dịch vụ hiểu và quan tâm về maketing và bán hàng online
Nghề và Làng nghề truyền thống

Nghề và Làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề, làng có nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo ra nhiều việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em; giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn.
Vai trò, vị thế của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam

Vai trò, vị thế của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam

LNV - Nhiệm kỳ 2018 – 2023 vừa qua, Hiệp hội và các tổ chức, hội viên đã triển khai Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường do tác động tiêu cực lâu dài của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, các cuộc xung đột vũ trang Nga – Ukraina; Israel – Hamas; Israel – Houthi, Israel – Iran…làm đứt gãy chuỗi cung ứng vật tư, nguyên, nhiên liệu toàn cầu, đặc biệt là xăng, dầu. Ảnh hưởng đến đến sức mua và làm suy giảm các thị trường xuất, nhập khẩu truyền thống. Tình hình trên làm cho sản xuất kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế và làng nghề trong cả nước bị đình đốn, việc làm và đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn.
Hướng đi bền vững để bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống

Hướng đi bền vững để bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Phát triển kinh tế nông thôn không thể bỏ qua vai trò của các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy, làng nghề đã và đang tạo nhiều cơ hội việc làm, không chỉ cho người trong độ tuổi lao động mà còn cho cả người già, người khuyết tật, trẻ em, giúp tăng thu nhập và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo tại nông thôn. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có những hướng đi bền vững.
Văn hóa làng nghề trong văn hóa xứ Nghệ

Văn hóa làng nghề trong văn hóa xứ Nghệ

LNV - Làng nghề truyền thống là một nhân tố quan trọng trong văn hóa vùng miền. Với một vùng văn hóa độc đáo như xứ Nghệ, làng nghề có vai trò to lớn, là bông hoa đẹp trong bức tranh văn hóa chung. Làng nghề thể hiện sự đa dạng của văn hóa, thể hiện tính đặc sắc của địa phương. Và trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển làng nghề hợp lý là hướng đi đúng đắn để gắn bảo tồn văn hóa với phát triển kinh tế.
Phát triển bền vững du lịch làng nghề Thừa Thiên Huế

Phát triển bền vững du lịch làng nghề Thừa Thiên Huế

LNV - Du lịch lễ hội văn hoá, du lịch làng nghề truyền thống là một thế mạnh và nét đặc trưng vốn có của du lịch Thừa Thiên Huế hiện tại và trong tương lai. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần khai thác và phát huy các làng nghề truyền thống như một chiến lược phát triển du lịch bền vững gắn với cộng đồng dân cư địa phương, góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Gìn giữ tinh hoa làng nghề thời 4.0

Gìn giữ tinh hoa làng nghề thời 4.0

LNV - Người Việt Nam tự hào có những làng nghề truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm, vang danh xứ người. Thế nhưng, theo năm tháng, các làng nghề truyền thống đang ngày càng mai một. Bên cạnh đó, thời đại công nghệ 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức cho các làng nghề, đòi hỏi công tác duy trì, bảo tồn và phát triển làng nghề cần sự chung tay của nhiều thế hệ và chính quyền các cấp.
Lợi ích của việc bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Lợi ích của việc bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Nhiều năm qua, việc bán hàng online đã khá phổ biến với nhiều lĩnh vực và đã quen thuộc với nhiều khách hàng, nhưng trong lĩnh vực hàng thủ công mỹ nghệ rất ít cơ sở tham gia bán hàng online. Cho đến nay, chủ yếu là các cơ sở sản xuất đồ gốm và điêu khắc gỗ bắt đầu thực hiện bán hàng online.
Chuyển đổi số trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Chuyển đổi số trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

LNV - Bên cạnh cơ hội, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang phải đối mặt với những thách thức lớn từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số trong doanh nghiệp được xác định là giải pháp quan trọng, là xu hướng tất yếu để các doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng lực, lợi thế cạnh tranh, tăng tốc và phát triển.
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh trực tuyến trên nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam

LNV - Công nghệ 4.0 phát triển mạnh mẽ giúp cho việc mua bán hàng hóa trực tuyến thuận tiện và phổ biến hơn bao giờ hết. Hơn nữa, khi dịch Covid-19 bùng nổ trên nhiều quốc gia với tốc độ lây lan nhanh chóng thì mua bán trực tuyến là giải pháp tối ưu thay thế cho phương thức mua bán truyền thống.
Hà Nội phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa

Hà Nội phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa

LNV - Thành phố Hà Nội là nơi có nhiều làng nghề truyền thống với 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó có 305 làng nghề truyền thống đã được công nhận thuộc 23 quận, huyện và thị xã. Đây là nguồn tài nguyên dồi dào cho phát triển công nghiệp văn hóa.
Lợi ích bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

Lợi ích bán hàng online với sản phẩm thủ công mỹ nghệ

LNV - Nhiều năm qua, việc bán hàng online đã khá phổ biến với nhiều lĩnh vực và quen thuộc với khách hàng, nhưng trong lĩnh vực hàng thủ công mỹ nghệ rất ít cơ sở tham gia bán hàng online. Cho đến nay, chủ yếu là các cơ sở sản xuất đồ gốm và điêu khắc gỗ bắt đầu thực hiện bán hàng online.
Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc kinh doanh online trên nền tảng kỹ thuật số

Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc kinh doanh online trên nền tảng kỹ thuật số

LNV - Nghề dệt lụa ở Vạn Phúc (quận Hà Đông, TP. Hà Nội) từ lâu đã nổi tiếng bởi nét tài hoa của những nghệ nhân làng nghề. Với những ai yêu lụa Vạn Phúc khi về nơi đây như được trở lại cội nguồn với nhiều nét xưa cũ. Bao đời nay, lụa Vạn Phúc chỉ sử dụng chất liệu tơ tằm truyền thống, do bàn tay của người lao động tạo nên. Điều đáng quý là các sản phẩm ở đây được làm từ nguyên liệu tự nhiên, có nhiều ưu điểm khác hẳn với các sản phẩm trôi nổi trên thị trường.
Xem thêm
qc-vinamilk-100-thanh-trung
Mới nhất Đọc nhiều
TỔNG THUẬT: LỄ TRUY ĐIỆU VÀ LỄ AN TÁNG TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

TỔNG THUẬT: LỄ TRUY ĐIỆU VÀ LỄ AN TÁNG TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

LNV - Lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tổ chức lúc 13 giờ 00 phút ngày 26 tháng 7 năm 2024 tại Nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội.
Huyện Bình Liêu (Quảng Ninh): Ứng dụng công nghệ số trong xây dựng Nông thôn mới

Huyện Bình Liêu (Quảng Ninh): Ứng dụng công nghệ số trong xây dựng Nông thôn mới

LNV - Ứng dụng công nghệ số trong xây dựng nông thôn mới đã góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống người dân, thu hẹp dần khoảng cách về chất lượng cung cấp dịch vụ giữa nông thôn với thành thị.
Nghề đan võng ngô đồng đón nhận danh hiệu Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia

Nghề đan võng ngô đồng đón nhận danh hiệu Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia

LNV - Lễ đón nhận danh hiệu Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia nghề đan võng ngô đồng được tổ chức trong khuôn khổ Festival “Cù Lao Chàm - Mùa Ngô đồng đỏ” 2024 tại xã đảo Tân Hiệp (Quảng Nam).
Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

Quản lý và giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề

LNV - Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội.
Khuyến công Hà Nam: Hỗ trợ cơ sở công nghiệp nông thôn thiết bị tiên tiến vào sản xuất

Khuyến công Hà Nam: Hỗ trợ cơ sở công nghiệp nông thôn thiết bị tiên tiến vào sản xuất

LNV - 6 tháng đầu năm 2024, Sở Công Thương Hà Nam đã chỉ đạo triển khai đề án hỗ trợ cho 4 cơ sở công nghiệp nông thôn ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến vào sản xuất với nguồn kinh phí hỗ trợ là 1 tỷ đồng.
qc-vinamilk-dinh-duong-vang
ct-tnhh-pt-xuan-thanh
ctcp-xd-tan-loc
nong-nghiep-xanh
minh-hieu
nhu-thanh
an-phat
thanh-chau
thuan-duc
ha-tinh
binh-dinh
Giao diện di động