Hà Nội: 24°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Thực trạng và giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Nghệ An

LNV - Trong những năm qua, công nghiệp Nghệ An phát triển khá và đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và đóng góp lớn cho nguồn thu ngân sách của tỉnh; Giải quyết nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Cơ cấu công nghiệp tiếp tục chuyển dịch nhanh và đúng hướng, cơ cấu nội ngành có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo, giảm dần công nghiệp khai khoáng. Đã hình thành được một số lĩnh vực công nghiệp chủ lực.
Mục tiêu phát triển công nghiệp Nghệ An trong những năm tới là vừa ưu tiên các ngành có lợi thế cạnh tranh, vừa tập trung chuyển dịch cơ cấu sang các lĩnh vực có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, tăng tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu, đẩy mạnh các ngành sản xuất thành phẩm cuối cùng. Công nghiệp hỗ trợ kém phát triển dẫn đến các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào linh kiện nhập khẩu sẽ làm tăng chi phí đầu vào do tiền chuyên chở, kho vận, bảo hiểm,... tăng lên, chưa kể rủi ro về thời gian nhận hàng ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất, giảm sức cạnh tranh. Từ đó việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) từ những nhà sản xuất lắp ráp, nhất là trong nhóm ngành cơ khí chế tạo, sản xuất và lắp ráp ô tô, sản xuất máy móc, thiết bị,... do tỷ lệ chi phí cho linh, phụ kiện của nhóm ngành này thường chiếm tới 70% trong giá thành sản phẩm.

Hiện trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện một số nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ chủ yếu như: Sản xuất linh kiện, phụ tùng kim loại; sản xuất bao bì; sản xuất linh kiện điện tử, công nghiệp hỗ trợ dệt may. Tuy nhiên số lượng và quy mô các doanh nghiệp còn rất hạn chế, qua điều tra khảo sát, tính đến năm 2017, các ngành CNHT tỉnh Nghệ An có khoảng 105 doanh nghiệp, chiếm 28,15% số doanh nghiệp trong các ngành có công nghiệp hỗ trợ và chỉ chiếm 7,6% tổng số doanh nghiệp toàn ngành công nghiệp. Cụ thể:

Công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí, chế tạo

Nhu cầu về sản phẩm CNHT phục vụ ngành cơ khí chế tạo trên địa bàn tỉnh Nghệ An và thị trường cả nước là rất lớn, đa dạng cả về kích thước, mẫu mã, chất lượng và được dự báo là sẽ tăng trưởng nhanh trong những năm tới, nhằm phục vụ cho các dự án lớn trong các lĩnh vực đóng tàu, điện, xi măng, thiết bị xây dựng, phục vụ sản xuất nông nghiệp cũng như các sản phẩm cơ khí phục vụ tiêu dùng. Tuy nhiên CNHT cho những ngành này hiện nay không đáp ứng được, đặc biệt là ở các dự án lớn trong ngành đóng tàu, thiết bị điện, xi măng. Trên địa bàn tỉnh có khoảng 163 doanh nghiệp công nghiệp cơ khí đang hoạt động nhưng chỉ có 05 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chế và 23 cơ sở gia công một số chi tiết máy móc, thiết bị ngành cơ khí và 06 cơ sở sản xuất các thiết bị đóng tàu, thuyền nhưng để phát triển các cơ sở này đủ khả năng tham gia vào chuỗi giá trị là rất khó. Nhìn chung, ngành công nghiệp cơ khí ở Nghệ An hiện nay chưa phát triển


Làng đa nem Diễn Ngọc (Diễn Châu)


CNHT nhóm cơ khí phục vụ ngành nông nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác chế biến khoáng sản đã có những bước phát triển nhất định nhưng chủ yếu mới phục vụ thị trường các doanh nghiệp trong tỉnh. Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ nhóm này trên địa bàn Nghệ An mới chỉ dừng lại một số chi tiết như đúc gang (dạng phôi), nhựa, cao su; động cơ và thân vỏ khung các loại máy nổ, máy xay xát, máy bơm nước, máy cày, máy gặt đập liên hoàn; sản xuất chế tạo các loại khuôn mẫu, bồn áp lực, phụ tùng, bi nghiền, băng chuyền, các thiết bị phụ tùng cho ngành hoá chất, thiết bị đong đếm và bơm xăng dầu; sản xuất kết cấu thép gia công và chế tạo,... phục vụ ngành công nghiệp chế biến gỗ, mía đường, sản xuất xi măng, gạch ngói, khai thác chế biến khoáng sản,... Tuy nhiên, các sản phẩm sản xuất còn thủ công nhiều, hàm lượng công nghệ chưa cao.

CNHT nhóm cơ khí đóng tàu: Các sản phẩm như vỏ lãi, xuồng, tàu, bồn nước các loại, chi tiết máy đánh bắt thủy sản, chân vịt, máy ép chân vịt, ép tôn, trục tiến tới hộp số phục vụ công nghiệp đóng, sửa chữa tàu, thuyền

Ngành sản xuất phụ tùng điện, linh kiện điện tử, CNTT, viễn thông

Nghệ An với lợi thế có điều kiện về mặt hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực CNTT, môi trường tổ chức - chính sách thuộc loại khá so với các tỉnh thành đứng đầu cả nước nhưng công nghiệp điện-điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông phát triển còn chậm kéo theo CNHT cho ngành này chưa phát triển. CNHT lĩnh vực này có 06 cơ sở sản xuất trên tổng số 17 doanh nghiệp ngành công nghiệp sản xuất thiết bị điện, điện tử, CNTT, viễn thông, sản phẩm chủ yếu là thiết bị điện tử, viễn thông và các thiết bị ứng dụng trong điện thoại di động, vi mạch bán dẫn công nghệ cao. Còn có một số cơ sở sản xuất thiết bị điện, linh kiện điên tử nội địa nhưng quy mô còn nhỏ, sản phẩm chất lượng chưa cao, thị trường tiêu thụ khó nên hoạt động sản xuất cầm chừng, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.

CNHT ngành sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy

Trên địa bàn tỉnh chưa có tập đoàn nào sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy do vậy, công nghiệp hỗ trợ lĩnh vực này không đáng kể và phát triển chậm. Ngành sản xuất xe có động cơ, rơ moóc và các phương tiện vận tải khác có 12 doanh nghiệp, tạo việc làm cho 548 lao động. Trong số đó, chỉ có 03 doanh nghiệp và một số cơ sở nhỏ lẻ sản xuất các phụ tùng linh kiện.

CNHT ngành dệt may-da giày

Công nghiệp dệt may - da giày Nghệ An là ngành chủ lực về tạo ra nhiều việc làm, mang lại kim ngạch xuất khẩu cao cho tỉnh. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 65 cơ sở/nhà máy may mặc đang hoạt động trải khắp các huyện, thành, thị; 01 nhà máy thuộc gia và 01 dự án sản xuất giày da xuất khẩu.

Với quy mô phát triển hiện nay của công nghiệp dệt may - da giày là điều kiện thuận lợi cơ bản cho ngành CNHT ngành này phát triển. Tuy nhiên, lĩnh vực này nhìn chung đang yếu và thiếu do các doanh nghiệp dệt may - da giày của Nghệ An chủ yếu là gia công nên nguồn nguyên phụ liệu phải phụ thuộc vào sự chỉ định của nhà nhập khẩu, các nhà sản xuất CNHT trong nước thấy không có lãi nên không quan tâm đầu tư. Mặt khác, phát triển CNHT ngành dệt may - da giày đòi hỏi chi phí cho xử lý môi trường rất cao, nhất là công đoạn nhuộm vải và thuộc da, do đó sản phẩm làm ra có giá thành cao hơn sản phẩm nhập khẩu

CNHT sản xuất bao bì, in ấn và tem nhãn

Lĩnh vực CNHT sản xuất bao bì, in ấn và tem nhãn có khoảng 20 DN đang hoạt động, chủ yếu là doanh nghiệp trong nước quy mô nhỏ và vừa. Đây cũng là lĩnh vực CNHT phục vụ cho nhiều ngành công nghiệp hạ nguồn khác nhau như bao bì giấy carton, bao bì nhựa và in ấn trên bao bì...


Làng nghề gốm cổ Trù Sơn


Thực trạng về lao động trong ngành CNHT

Tổng số lao động CNHT trên địa bàn tỉnh vẫn còn rất khiêm tốn, khoảng 10.783 người, chiếm chưa đầy 17% tổng số lao động ngành công nghiệp tỉnh và chiếm 27,7%. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chủ yếu là lao động qua trình độ sơ cấp, trung cấp chiếm tỷ trọng lớn trên 86,79% trong tổng số lao động. Điều đó phản ánh số lao động hiện nay phần lớn mới qua đào tạo cơ bản, thực hiện các công việc không yêu cầu cao về trình độ và kỹ năng như gia công, lắp ráp là chính, điển hình là số lượng lao động công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may-da giày chỉ chiếm 3,8% tổng số lao động làm việc trong ngành.

Trình độ công nghệ, tổ chức sản xuất và khả năng liên kết

- Lĩnh vực CNHT sản xuất nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện kim loại (cơ khí) nhìn chung máy móc thiết bị đã lạc hậu vài thế hệ, ít được đổi mới kỹ thuật và công nghệ, nên chỉ có khả năng cung cấp các sản phẩm CNHT không có yêu cầu cao về kỹ thuật, độ chính xác thấp, các sản phẩm CNHT thuộc lớp cung ứng 3,4. Quy mô các doanh nghiệp cơ khí nhỏ và vừa, mặt bằng nhà xưởng chật hẹp, tổ chức sản xuất đơn chiếc, chủ yếu là gia công các sản phẩm cơ khí phục vụ nhu cầu của địa phương; Chưa có doanh nghiệp qui mô lớn làm vai trò hạ nhân thúc đẩy phát triển ngành.

Lĩnh vực CNHT điện - điện tử, CNTT, các DN trong nước chủ yếu sản xuất dây cáp, dây điện từ... Trình độ công nghệ của các DN trong nước đạt trình độ trung bình.

Công nghệ sản xuất lĩnh vực CNHT ngành dệt may-da giày: Công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may còn nhiều bất cập. Năng lực các nhà máy cơ khí chuyên ngành dệt may hiện tại nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp trong ngành. Dây chuyền sản xuất lạc hậu,

CNHT sản xuất bao bì, in tem, nhãn mác nhìn chung đã trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến mặc dù lĩnh vực này chiếm tỷ trọng thấp trong giá trị sản phẩm nhưng các doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu của các ngành công nghiệp hạ nguồn.

Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ

Trên thực tế phát triển công nghiệp hỗ trợ song song với các ngành công nghiệp chính có lợi thế của tỉnh phù hợp với quy hoạch và chính sách phát triển CNHT của cả nước, quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Nghệ An. Phù hợp với thị trường và xu thế phân công quốc tế, được các nhà lắp ráp, sản xuất sản phẩm cuối cùng quan tâm do đáp ứng được nhu cầu nội địa hoá. Xem phát triển CNHT là một trong những khâu đột phá để nâng cao giá trị gia tăng và tạo nền tảng phát triển ngành công nghiệp bền vững. Phát triển CNHT có chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tế của Nghệ An trong tổng 6 nhóm ngành hàng được Chính phủ quy định hỗ trợ nhằm phục vụ một số lĩnh vưc công nghiệp ưu tiên của tỉnh và hướng tới mục tiêu tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ưu tiên thu hút các Tập đoàn đa quốc gia lựa chọn Nghệ An đầu tư để tạo điều kiện cho công nghiệp hỗ trợ phát triển. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh tham gia sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.

Để CNHT Nghệ An phát triển, UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành quyết định số 1306/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 UBND về việc phê duyệt chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2018 - 2025, xác định các ngành và sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển, như: Công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may, da-giày; Công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử-tin học-viễn thông; Công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí, chế tạo; CNHT ngành sản xuất, lắp ráp ô tô; Công nghiệp hỗ trợ ngành sản xuất vật liệu xây dựng; Lĩnh vực sản xuất bao bì, in ấn, nhãn dán; CNHT công nghiệp công nghệ cao. Ngoài ra việc tạo điều kiện để các công ty FDI với các doanh nghiệp trong nước (quốc doanh và tư nhân) có điều kiện gặp gỡ, tìm hiểu và hợp tác làm ăn, tạo điều kiện cho công nghiệp phụ trợ phát triển.

Xúc tiến và hỗ trợ mở rộng thị trường trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp phát triển công nghiệp hỗ trợ. Tạo mối liên kết hiệu quả giữa doanh nghiệp trong tỉnh với các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài.Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp CNHT đóng trên địa bàn tỉnh.

Hỗ trợ cho doanh nghiệp CNHT trong nước đầu tư trên địa bàn tỉnh Nghệ An, nhất là các DNNVV tiếp cận được nguồn vốn với lãi suất thấp để mua máy móc thiết bị, công nghệ phục vụ cho sản xuất sản phẩm CNHT. Hỗ trợ hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư các nhà cung cấp FDI vào các ngành CNHT ưu tiên phát triển trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Công bố thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ trên trang thông tin điện tử của ngành Công Thương và cổng thông tin điện tử tỉnh. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về chính sách phát triển CNHT để thu hút đầu tư nguồn lực xã hội vào phát triển CNHT.

Bài, ảnh: Nguyễn Công Nhâm

Tin liên quan

Tin mới hơn

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

Xu hướng thị trường và giải pháp phát triển bền vững ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Nước ta có khoảng 5411 làng nghề và làng có nghề trong đó có hơn 1800 làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) truyền thống. Ngành nghề TCMN truyền thống có hoạt động sản xuất lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và đời sống cộng đồng nông thôn. Không chỉ đóng góp vào việc bảo tồn di sản, ngành nghề TCMN còn mang lại giá trị kinh tế đáng kể, tạo hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

Giải pháp phát huy giá trị các làng nghề truyền thống

LNV - Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước có khoảng hơn 5.400 làng nghề, trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng có hơn 1.500 làng, với khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

Nghệ An cần có giải pháp về khai thác, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ

LNV - Các vùng nông thôn của Nghệ An có nguồn nguyên liệu tự nhiên đa dạng như cái, tre, nứa, luồng, cói, mây, gỗ, đá, đất sét…Những nguyên liệu này là cơ sở để phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt, nguyên vật liệu thủ công mỹ nghệ của Nghệ An được sự phân bố theo vùng sinh thái, tương ứng với từng nhóm nghề truyền thống, và rất phù hợp để phát triển quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững...
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi nguyên liệu thủ công mỹ nghệ

LNV - Nguồn nguyên liệu là 'nút thắt cổ chai' lớn nhất của ngành thủ công mỹ nghệ và đòi hỏi một chiến lược tái cấu trúc toàn diện từ cấp vùng đến liên kết vùng.
Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

Làng nghề hướng đến môi trường kinh doanh minh bạch

LNV - Các làng nghề đang có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, tới hành động, nói không với sản xuất, kinh doanh hàng giả. Việc làng nghề nói không với sản xuất hàng giả sẽ góp phần xây dựng lại một môi trường kinh doanh chất lượng, uy tín.

Tin khác

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

Bộ tiêu chí nông thôn mới tăng tính chủ động cho địa phương

LNV - Ngày 25/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tham vấn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn tới.
Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

Thúc đẩy hội nhập quốc tế cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội

LNV - Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ dừng lại ở gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là câu chuyện hội nhập, đổi mới sáng tạo và nâng tầm sản phẩm thủ công Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ - Bắc Ninh

LNV - Làng Đồng Kỵ ở sát bờ Nam sông Ngũ Huyện Khê – đây cũng là con sông chứng nhân lịch sử của dân tộc, của Bắc Ninh. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành nơi sản xuất và cung cấp đồ gỗ mỹ nghệ lớn, không chỉ cung cấp sản phẩm cho các nơi trong nước mà còn ra cả các nước khác trên thế giới.
Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng tập trung phát triển làng nghề với phát triển du lịch

LNV - Với lợi thế về làng nghề gốm sứ truyền thống, Bát Tràng, TP Hà Nội tiếp tục tập trung phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của địa phương.
Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Một số nghề thủ công truyền thống của dân tộc Khơ Mú ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam

LNV - Người Khơ Mú ở Việt Nam thường được các dân tộc khác gọi là: Xá Cẩu, Tày Hạy. Với tổng số dân vào khoảng trên dưới 56.542 người, họ cư trú ở các vùng rẻo cao, vùng giữa thuộc các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ của Việt Nam.
Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

Làng nghề - “mắt xích” cho công nghiệp văn hóa

LNV - Dưới tác động của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, việc khai thác tiềm năng của các làng nghề trong lĩnh vực du lịch không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống mà còn tạo động lực phát triển cho công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mũi nhọn theo chiến lược phát triển của Thủ đô.
Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

Nghị quyết 57 mở đường phát triển làng nghề

LNV - Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đang mở ra kỷ nguyên mới cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh tại các làng nghề thủ công, tạo đà bứt phá nhờ khoa học công nghệ. Nghị quyết này không chỉ là định hướng chiến lược về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là “cầu nối vàng” giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học với cộng đồng doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

Ứng dụng công nghệ số phát triển làng nghề

LNV - Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động ứng dụng, chuyển đổi dữ liệu và quy trình sản xuất từ thủ công sang số hóa, tự động hóa. Đồng thời, tích cực sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia các sàn thương mại điện tử để đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.
Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

Làng nghề với bài toán “chuyển đổi xanh”

LNV - Xây dựng mô hình “chuyển đổi xanh”, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất, giảm phát thải chất độc hại đang được coi là hướng mở có tín hiệu khả quan, để giải “bài toán khó” ô nhiễm môi trường làng nghề vốn vẫn là mối lo chung của không ít địa phương từ nhiều năm nay. Dẫu vậy, việc triển khai các giải pháp này vẫn là điều không dễ...
Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Việt Nam

LNV - Du lịch làng nghề (DLLN) là một loại hình du lịch khá mới mẻ tại Việt Nam, nó mang lại một số lợi ích thiết thực như: giúp đa dạng hóa các loại hình du lịch; khôi phục, phát triển một số làng nghề có nguy cơ bị mai một, thất truyền; góp phần phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong làng nghề và gia đình xung quanh làng nghề; quảng bá văn hóa Việt Nam và văn hóa mỗi vùng miền. Tuy nhiên, khi phát triển DLLN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức cần phải có giải pháp tháo gỡ. Trong bài viết này, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp DLLN tiếp tục phát triển để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

Bảo tồn làng nghề truyền thống trước thách thức của thời đại

LNV - Làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của đất nước. Bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ chương trình của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.
Những yếu tố sống còn của làng nghề

Những yếu tố sống còn của làng nghề

LNV - Hệ thống sản xuất trong các làng nghề mang hình thái đặc trưng và bản sắc riêng biệt của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Làng nghề không chỉ là một khu vực sản xuất có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra thu nhập, việc làm cho người dân nông thôn mà còn chứa đựng trong đó những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Sức sống ở làng nghề Yên Bái

Sức sống ở làng nghề Yên Bái

LNV - Mang trong mình những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt của người dân mỗi địa phương, mỗi vùng đất; thế nên không ít nghề truyền thống và các sản phẩm của làng nghề ở Yên Bái không những không bị mai một mà ngày càng khẳng định giá trị nhờ đổi mới sáng tạo, kết hợp du lịch, thương mại điện tử và xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp: Bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

LNV - Tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

LNV - Khuyến công gắn với định hướng phát triển kinh tế – xã hội Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Bà Rịa – Vũng Tàu xác định công nghiệp là trụ cột chủ lực, chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch cơ cấu từ khai khoáng san
Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

LNV - Trường THCS Nguyễn Trường Tộ là ngôi trường thuộc TOP trường THCS chất lượng tốt ở Hà Nội. Để đạt được những thành tích đáng tự hào ấy, Trường THCS Nguyễn Trường Tộ luôn chú trọng đổi mới việc dạy và học với phương châm ”Lấy học sinh làm trung tâm”,
Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

LNV - Những ngày này, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hải Phòng đang tất bật chuẩn bị cho Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc. Năm nay, lễ hội mang ý nghĩa đặc biệt hơn khi Đền Kiếp Bạc và Chùa Côn Sơn nằm trong quần thể di tích, danh thắng được UNESCO côn
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm g
Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

LNV - Nằm ở vùng trung du giàu truyền thống cách mạng, xã Hoàng Vân (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh) không chỉ được biết đến bởi những dấu ấn lịch sử, mà còn nổi bật với một loại cây đặc sản mang lại giá trị kinh tế cao: trám đen. Cứ vào độ cuối tháng 6 đế
Giao diện di động