Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 28°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Chấn hưng Làng nghề Việt Nam và vai trò của Hiệp hội

LNV - Do đó sự phát triển của làng nghề gắn với sự lớn mạnh của Hiệp hội như là một hiện tượng “cộng sinh tất yếu” sự hình thành làng nghề là điều kiện tiền đề cho sự ra đời của Hiệp hội và ngược lại, sự ra đời của Hiệp hội là tác nhân thúc đẩy làng nghề phát triển. Hiệp hội gắn với Làng nghề như là một cặp đôi tương thích xã hội có tính quy luật.
Chặng đường từ khởi sắc đến chấn hưng Làng nghề Việt Nam

So với lịch sử phát triển hàng ngàn năm của làng nghề thì 15 năm hoạt động của Hiệp hội chỉ là một dấu chấm. Dấu chấm son của quá trình hình thành, phục hồi, phát triển…. Thực ra khi có nghề, những người thợ ở làng nghề cũng đã phải liên kết với nhau đề tồn tại theo phương châm “Buôn có bạn, bán có phường”. Phường hội là tổ chức của thợ thủ công cùng nghề hoặc của nhà buôn cùng buôn một thứ hàng trong xã hội từ xa xưa. Các dạng sớm nhất của phường hội được hình thành là các hiệp hội thương nhân.

Lịch sử Làng nghề gắn với dân tộc, không gian làng nghề bảo tồn các giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc. Làng nghề là cộng đồng kinh tế-xã hội bền vững gắn với từng mảnh đất địa linh, nhân kiệt nhất định trường tồn theo thời gian. Ngành, nghề nào đó có thể mai một, thất truyền nhưng giá trị văn hóa phi vật thể còn lưu lại mãi mãi với lịch sử - “lịch sử như lò thuốc súng đôi khi nó mạnh hơn người làm ra nó.” (Lê-ô-nôp - Đại văn hào Nga)

Làng nghề Việt Nam đã hình thành và phát triển hàng ngàn năm nay như là một khu vực không thể thiếu của lịch sử dân tộc Việt Nam và cũng thăng trầm theo thời gian. Dù có suy vi do thời thế nhưng Làng nghề vẫn tồn tại vì đây là cội rễ kết tinh có tầm văn hóa, là xu thế ngày càng được nhiều nước coi trọng bảo tồn, phát triển, chấn hưng.


TSKH Nguyễn Vi Khải


Theo thống kê của Courrier du Vietnam 17/3/2003, ở nước ta có hơn 2000 làng nghề, miền Bắc có 1594 làng nghề (79%), miền Trung có 312 làng nghề (15,5%) và miền Nam có 111 làng nghề (5,5%). Ở miền Bắc các làng nghề lại tập trung hơn ở một số địa phương thuộc đồng bằng Bắc bộ như Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hà Nam…

Đặc biệt, trong 3 thập niên gần đây làng nghề Việt Nam đã khởi sắc. Với số lượng “cả nước có 5.411 làng nghề... trong đó có 1.864 làng nghề truyền thống (115 nghề truyền thống) thu hút khoảng 11 triệu lao động...bao gồm 12 nhóm nghề gốm sứ, mây tre đan , gỗ, đồng, đệt thổ cẩm...Riêng hàng thủ công mỹ nghệ đã có 2000 doanh nghiệp và cơ sở tham gia xuất khẩu đạt kim ngạch tới 2 tỷ USD. Thị trường Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng tới 40% ..tiếp theo là Đức và Nhật Bản” (Báo cáo Tổng kết - Lưu Duy Dần Chủ tich Hiệp hội Làng nghề Việt Nam…” Kỷ yếu Đại hội đại biểu toàn quốc” tr.7)

Như vậy có thể thấy khoảng 10 - 15 năm qua số lượng làng nghề đã tăng đáng kể, đây cũng là thời gian Hiệp hội Làng nghề Việt Nam được thành lập và hoạt động của Hiệp hội chắc chắn đã có vai trò nhất định trong sự phát triển của làng nghề, như cặp đôi tương thích mà xã hội đã khẳng định.

Nói một cách khác, tạo lập không gian và khẳng định hành trình di sản văn hóa làng nghề không thể thiếu sự hiện diện của Hiệp hội Làng nghề.


Kinh tế người dân tại làng nghề chắc chắc cao hơn sản xuất thuần nông và có cơ hội làm giàu. Khi phát triển với số lượng ngày càng nhiều thì xuât hiện sự cạnh tranh về chất lượng sản phẩm là lẽ tự nhiên của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh này tất yêu dẫn đến hàng loat các hoạt động: Cải tiến mẫu mã, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm, tăng cường năng lực marketing, nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, đổi mới kỹ thuật, công nghệ… các hoạt động này mang tính chuyên nghiệp và cũng như sự tương thích xã hội, hoạt động này đòi hỏi sự hình thành các tổ chức hội, hiệp hội, trung tâm tư vấn, viện nghiên cứu, đào tạo.v.v. Đây là các hoạt động dân sự hình thành các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Hiệp hội làng nghề cấp Trung ương và các thành viên xuất hiên, trưởng thành trong lẽ tự nhiên ấy. Hiện nay Hiệp hội có tới 13.113 hội viên (trong đó 32% là hội viên tổ chức), số hội viên đã có tại 61/63 tỉnh thành.

Tuy nhiên nhìn tổng thể, đối với khu vực làng nghề những rào cản về quan điểm, nhận thức nổi lên phổ biến là sự quan tâm chưa đầy đủ hoạt động sản xuất của làng nghề, mọi sự cố về ô nhiễm môi trường cho rằng tại làng nghề, hoặc chỉ coi trọng về ý nghĩa kinh tế của làng nghề, thậm chí coi làng nghề là kinh tế hộ gia đình - cá thể, không quan trọng bằng kinh tế nhà nước, điều đó thể hiện rõ khi ưu tiên quá nhiều cho các doanh nghiệp Nhà nước mà quên lãng khu vực sản xuất nhỏ và vừa của làng nghề… Mặc dù vậy, làng nghề và hoạt động của Hiệp hội vẫn vượt qua nhiều rào cản để khởi sắc và phát triển, chấn hưng. Hình ảnh so sánh làng nghề như những con tem nhiều màu sắc lấp lánh trên lưng con voi kinh tế Việt Nam đang từng bước chuyển xoay là bức tranh toàn cảnh rất có ấn tượng.

Trước các thách thức để chấn hưng

Thách thức trước nhu cầu của xã hội - khi phải vượt qua ngưỡng của sự phát triển trung bình thấp, hiện nay thu nhập đầu người Việt Nam mới dừng lại ở mức 2.750 USD/ người. Đây cũng chỉ là mức trung bình thấp, còn thua xa các nước láng giềng trong khu vực như Thái Lan 7.187 USD, Malaixia 10.942 USD, Singapore 64.041USD (theo IMF 2019)

Thách thức trước sự hội nhập, khi các hiệp định thương mại EVFTA, CPTPP… Gần 20 hiệp đinh đã có hiệu lực, chúng ta sẽ giao lưu thương mại với số dân không dưới 4 tỷ người, với các nền kinh té phát triển, nhu cầu về hàng hóa và sức mua rất lớn, sản phẩm các loại hàng hóa khác nói chung và của làng nghề nói riêng có cơ hội rất lớn để chấn hưng thực sự. Nhưng cũng là thách thức rất lớn bởi quy chuẩn các hiệp định về chất lượng hàng hóa, nhãn mác, bao bì, nguồn gốc xuất xứ ... đòi hỏi ở mức độ rất cao.

Thách thức từ trong bản thân làng nghề đang còn nhiều khó khăn yếu kém. Hầu hết là quy mô sản xuất nhỏ, vốn ít, mặt bằng hạn hẹp, vấn nạn ô nhiễm môi trường chưa có giải pháp căn cơ, nhân lực đào tạo chưa bài bản, thiếu tính hệ thống, hành lang pháp lý chưa đồng bộ… Đặc biệt trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều vấn đề đặt ra cho làng nghề những thách thức mới không dễ vượt qua, thậm chí phải là thay đổi chiến lược sản xuất với hàng loạt nội dung: Money (tiền, vốn), Manpower (nhân lực), Mechanism (cơ chế), Materials (nguyên liệu) và Marketing (tiếp thị), Marchine (máy móc công cụ) Management (quản lý) và gần đây là nhân tố Method (phương pháp) và Measurement (Kiểm tra, đo lường). Đó là 9 chữ M cần có trong quá trình phát triển, chấn hưng.

Với hoạt động của Hiệp hội, thách thức cũng không nhỏ khi hành lang pháp lý còn nhiều chồng chéo, bất cập, Luật về quyền lập hội trải qua hàng chục lần dự thảo chưa biết đến bao giờ công bố. Là tổ chức xã hội mang tính chất tự nguyện- tự quản- tự chủ - tự trang trải. Hiệp hội gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, về cơ chế quản lý của Nhà nước… Không phải ngẫu nhiên Đảng cũng thừa nhận: “Nội dung, phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với NNPQ , Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội... thẩm quyền và trách nhiệm giữa Đảng lãnh đạo với Nhà nước quản lý còn có những điểm chưa được luận giải thấu đáo” (ĐCSVN . BCHTW – Báo cáo Tổng kết “30 năm đổi mới”, Nhà xuát bản Chính trị Quốc gia- Sự thật Hà Nội 2015, trang. 146.) Tất nhiên hoạt động của Hiệp hội cũng còn những tồn tại nhất định. Tổng kết của Ban chấp hành Hiệp hội đã nói rõ vấn đề này.

Những đặc trưng của Làng nghề và hoạt động của Hiệp hội

Đặc trưng về lịch sử, truyền thống văn hóa xã hội con người: Mỗi làng nghề là một môi trường văn hóa, kinh tế - xã hội và kỹ thuật truyền thống lâu đời. Là nơi bảo tồn những tinh hoa nghệ thuật, kỹ thuật sản xuất từ đời này sang đời khác đúc kết ở những nghệ nhân tài hoa. Bên trong các làng nghề thường chứa đựng những nét văn hóa thuần Việt với không gian văn hóa nông nghiệp: Cây đa, giếng nước, sân đình, hoặc là những miệt vườn với cánh cò trắng, lũy tre xanh, những làn điệu dân ca

Mỗi làng nghề đó có các hoạt động dân sự như xây dựng hương ước, hình thành phường hội tổ chức lễ hội trong cộng đồng…Hoạt động dân sự trong cộng đồng làng nghề là hình thức sinh động, hiệu quả. Tại những kỳ hội chợ, nhiều làng nghề đã có cơ hội ký hợp đồng xuất khẩu tại chỗ, mang lại giá trị hàng tỷ đồng mỗi năm. Phần lớn làng nghề truyền thống gắn với một vùng sông nước nằm trên trục giao thông thuận lợi, cả đường bộ lẫn đường sông nên thuận tiện để xây dựng các chương trình du lịch kết hợp.

Sản phẩm của làng nghề là loại đặc biệt: Ngoài giá trị sử dụng, giá trị trao đổi…còn những giá trị phi hữu hình khác như giá tri văn hóa nhân văn, giá trị thẩm mỹ, ý nghĩa tâm linh… Nếu một số sản phẩm công nghệ sản xuất bằng máy hàng loạt có vòng đời ngắn luôn thay đổi thì phần lớn sản phẩm từ làng nghè, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ lại có vòng đời rất lâu và vĩnh viễn, càng lâu càng có giá. Các hoạt động này được Hiệp hội chỉ đạo kết hợp với các đơn vị, các tổ chức xã hội, các cơ quan quản lý của Nhà nước, thu hút các nhà khoa học, các nhà tài trơ,…

Khẳng định giá trị văn hóa – nhân văn từ sản phẩm làng nghề: Khu vực làng nghề không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, là nơi thu hút nhiều lao động… mà sự tồn tại và phát triển của làng nghề còn khẳng định giá trị văn hóa – nhân văn từ sản phẩm làng nghề đã làm cho hình ảnh của Việt Nam sinh động, đa dạng. Hiệp hội coi trọng điều này vì quá trình hoạt động – thông qua các hội nghị ,hội thảo diễn đàn…Tầm của vấn đề đã được khẳng định: Sự tồn tại của làng nghề gắn với sự tồn tại của Nhà nước của dân tộc chính là do kết tinh của bản sắc văn hóa trường tồn, sự hiện diện của các sản phẩm tinh xảo độc đáo, những bí quyết gia truyền, sự phong phú của các lễ hội, đặc biệt sự tiếp nối của các thế hệ nghệ nhân của nhiều làng nghề có lịch sử lâu đời. Chứng minh điều đó, quốc gia quốc thổ có thể bị đô hộ hàng ngàn năm nhưng bản sắc văn hóa Quốc Tổ ấy như một nguồn năng lượng vĩnh cửu đã trỗi dạy mỗi khi bị xâm lăng áp đặt.

Không phải ngẫu nhiên, Chủ tịch Uỷ ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh: Khu vực làng nghề không chỉ gắn bó với sản xuất nông nghiệp, tạo ra giá trị kinh tế, bảo vệ môi trường và gắn với phát triển nghề truyền thống, làng nghề còn góp phần tạo ra yếu tố văn hóa, gắn với lịch sử vì vậy bảo vệ làng nghề cũng là bảo vệ văn hóa dân tộc.

Có thể nói, Hiệp hội và các tổ chức thành viên đã thực hiện tốt các chức năng và vai trong của mình trong 15 năm đầy thách thức khó khăn.

Là tổ chức xã hội nghề nghiệp, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hiệp hội Làng nghề đã thực sự là người đại diện cho khối tích hợp các Làng nghề trên phạm vi toàn quốc. Hiệp hội có vai trò rất quan trọng trong hệ thống cộng đồng xã hội đông đảo của Nhà nước CHXHCNVN hiện nay.

Có thể nói dưới hình thức các “phường hội” giản đơn nhất từ khi có làng nghề, hiệp hội làng nghề có quá trình phát triển lâu đời nhất, do nhu cầu “Buôn có bạn, bán có phường” từ xa xưa… nguồn gốc lịch sử 36 phố phường Hà Nội chứng minh điều đó. Hiệp hội thực sự là trợ thủ có tầm khi định hướng sản xuất làng nghề nhận thức sâu sắc chuỗi giá trị của sản phẩm, trong đó giá trị văn hóa phi vật thể là mẫu số chung của mới thời kỳ phát triển, là thước đo tiêu chí hàng đầu cho thương hiệu.

Chức năng của Hiệp hội không chỉ là người đại diện bảo về quyền lợi cho hàng chục triệu lao động của làng nghề mà hơn thế nữa Hiệp hội còn là cầu nối đa chiều kết dính các mối quan hệ giữa người lao động (dân) với Nhà nước, giữa các thành viên trong cộng đồng, giữa người sản xuất với người tiêu dùng, đặc biệt định hướng du lịch làng nghề trong thời hội nhâp sâu rộng…đã là sự quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới.

Với chức năng giám sát và phản biện xã hội, hiệp hội đã và đang góp phần chuyển tải nguyện vọng của Dân vào quá trình hoạch định chinh sách, hoàn thiện luật pháp…tuy nhiên Hiệp hội cũng như các hội thành viên hoạt động trong điều kiện nhiều khó khăn, cơ sở vật chất nghéo nàn, chưa được quan tâm đúng mức, hành lang pháp lý chưa thông thoáng…nên hiệu quả còn hạn chế.

Hiệp hội Làng nghề Việt Nam hiện nay với hành trình 15 năm không nhiều lắm nhưng hoạt động liên tục, bền bỉ đã thực sự là một dấu son dáng ghi nhận. Ngoài các tổ chức thành viên, Hiệp hội có cả một mạng lưới của hội chuyên nghề (hơn 50 nhóm nghề), Hiệp hội làng nghề ở các tỉnh thành. Đây là nơi tập hợp đông đảo đội ngũ nghệ nhân, là cơ sở đặc biệt cho sự bảo tồn và phát triển làng nghề trong hội nhập. Một mạng lưới làng nghề, tổ chức hội nghề nghiệp, các thế hệ nghệ nhân, thợ giỏi tâm huyết của làng nghề, vì làng nghề, do làng nghề, với hàng chục triệu lao động tại nơi gọi là quê hương thanh bình ấy là một khối tài sản vô giá của đất nước.

Chỉ riêng việc tôn vinh nghệ nhân như những bảo vật sống quốc gia, thành lập hơn 30 bảo tàng sản phẩm thủ công mỹ nghệ… trong khi đang trình diễn “xã hội 5.0” hiện đại người Nhật đã cho chúng ta thấy những bài học vô giá. Việt Nam có hơn 5000 làng nghề với nền tảng băn sắc văn hóa độc đáo rất nên làm, xứng đáng được làm những việc tương tụ như thế. Hiệp hội và các ngành hữu quan đang làm và có thể làm tốt hơn nữa nếu gắn kết được với sự quan tâm thích đángvà tinh thần trách nhiệm của các ngành, các cấp có thẩm quyền. Nhiệm vụ này không chỉ là của riêng Hiệp hội làng nghề mà phải là của cộng đồng, của tổ chức Nhà nước có tầm cao hơn nữa. Kinh nghiệm của các nước bạn như Thái Lan, Nhật Bản, In-đô-nê-xia… cho thấy điều đó.

TSKH Nguyễn Vi Khải
Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Hơn 300 năm giữ lửa truyền thống ở làng nghề chiếu cói Hoài Nhơn

Hơn 300 năm giữ lửa truyền thống ở làng nghề chiếu cói Hoài Nhơn

LNV - Làng nghề chiếu cói Hoài Nhơn (phường Hoài Nhơn Bắc, tỉnh Gia Lai) có lịch sử hình thành và phát triển hơn 300 năm, gắn liền với truyền thống văn hóa của vùng đất Bình Định xưa. Từ đôi bàn tay khéo léo của bao thế hệ, những tấm chiếu cói mộc mạc đã trở thành sản phẩm đặc trưng, lan tỏa khắp các vùng miền trong cả nước, đặc biệt là Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

LNV - Xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) – “thủ phủ” gốm sứ của cả nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới khi mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Với lợi thế truyền thống nghề gốm hàng trăm năm, địa phương đã và đang triển khai nhiều giải pháp nhằm phát triển làng nghề gắn với du lịch, nâng cao thu nhập cho người dân và khẳng định vị thế thương hiệu gốm Bát Tràng trên bản đồ thủ công mỹ nghệ thế giới.
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm - Người giữ hồn diều sáo làng Bá

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm - Người giữ hồn diều sáo làng Bá

LNV - Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa dân gian của làng Bá Dương (nay thuộc xã Ô Diên, TP. Hà Nội), nghệ nhân nhân dân Nguyễn Hữu Kiêm đã dành cả cuộc đời để gìn giữ và lan tỏa nét đẹp diều sáo truyền thống. Từ những cánh diều tuổi thơ, ông đã đưa tình yêu ấy bay cao, bay xa đến với bạn bè khắp mọi nơi.
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm gốm độc bản, vừa nuôi sống gia đình vừa giữ gìn hồn quê qua bao thế hệ.
Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

LNV - Trong nhịp sống sôi động của kinh tế thị trường, không ít làng nghề truyền thống đứng trước nguy cơ bị lãng quên. Thế nhưng, nhờ sự đồng hành của cộng đồng, chính quyền địa phương và sự sáng tạo của người dân, nhiều nghề cổ truyền không chỉ được gìn giữ mà còn trở thành bệ phóng phát triển kinh tế, góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững.
Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

LNV - Nghệ thuật gốm đã in sâu vào bản sắc văn hóa Việt Nam từ hàng nghìn năm trước, là một phần không thể thiếu trong đời sống, tín ngưỡng và thẩm mỹ của người Việt. Từ những chiếc bình gốm Phùng Nguyên, trống đồng Đông Sơn cho đến những chiếc bình gốm hoa lam tinh xảo của Chu Đậu hay bát đĩa gốm Bát Tràng quen thuộc, gốm sứ không chỉ là vật dụng mà còn là biểu tượng của sự khéo léo, óc sáng tạo và tinh thần lao động bền bỉ của người Việt Nam.

Tin khác

Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

LNV - Làng hoa Vạn Thành được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XX bởi người dân từ Hà Nam di cư vào Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Nhờ điều kiện khí hậu mát mẻ và đất đai màu mỡ, Làng hoa Vạn Thành đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong trung tâm sản xuất hoa lớn tại Đà Lạt.
Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

LNV - Đắk Lắk phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm, mở rộng quy mô sản xuất, hướng đến việc kết hợp phát triển du lịch cộng đồng và trải nghiệm, giúp du khách có thể khám phá quy trình làm muối truyền thống.
Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

LNV - Gắn bó với nghề nuôi ong đã gần 10 năm, bắt đầu từ vài chục tổ ong ban đầu, đến nay anh Trần Văn Sửu đã mở rộng lên khoảng 500 tổ, mỗi năm mang lại thu nhập ổn định khoảng 200 triệu đồng – con số không nhỏ đối với một hộ dân vùng ven biển.
Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

LNV - Nhiều du khách trong và ngoài nước thích thú trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu tại chợ nổi Cái Răng.
Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

LNV - Thành phố Hà Nội hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 337 nghề truyền thống đã được công nhận. Các làng nghề đã giúp nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động. Việc phát triển làng nghề không chỉ giữ gìn bản sắc truyền thống, mà còn tạo đòn bẩy trong xây dựng nông thôn mới.
15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

LNV - Trong 2 ngày 9 và 10-9, Đoàn thẩm định của Hội đồng thành phố Hà Nội về xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ năm 2025 đã tổ chức thẩm định thực tế tại cơ sở các cá nhân có hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội năm 2025 tại xã Bát Tràng.
Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

LNV - Trung thu không chỉ là Tết của thiếu nhi, mà còn là ký ức văn hóa của nhiều thế hệ người Việt. Khi đèn lồng nhựa và ánh sáng điện tử ngày càng phổ biến, những giá trị xưa dần phai nhạt. Triển lãm “Lãm” xuất hiện như một nhịp cầu, đưa con người trở về với mùa trăng cổ tích bằng những chiếc đèn giấy dó mộc mạc, bền vững và thấm đẫm hồn Việt.
Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

LNV - Nằm ở phía Tây Nam Hà Nội, xã Bình Minh đang nổi lên như một điểm sáng về phát triển nông nghiệp sinh thái kết hợp với làng nghề truyền thống.
Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

LNV - Tại xã Gia Thuận, tỉnh Đồng Tháp, bên cạnh những cánh đồng lúa xanh bát ngát và những chuyến tàu đánh bắt hải sản tất bật, làng nghề chế biến cá khô đã hình thành và phát triển từ nhiều năm nay, trở thành một trong những ngành nghề mũi nhọn góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. Không chỉ là nét văn hóa truyền thống, nghề chế biến cá khô còn đang mở ra những cơ hội mới về việc làm, nâng cao thu nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng.
Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

LNV - Trong ngôi nhà sàn ba gian giữa núi rừng, già Bhling Bloó (70 tuổi, thôn Bhơ Hôồng, xã Sông Kôn, TP Đà Nẵng) vẫn cần mẫn bên bó tre, mây. Với ông, đan lát không chỉ là kế sinh nhai mà còn là cách để giữ lấy “cái gốc” của người Cơ Tu giữa nhịp sống hiện đại.
Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại của thành phố biển Đà Nẵng, làng cổ Nam Ô vẫn lặng lẽ giữ trong mình những giá trị văn hóa và nghề truyền thống hơn 700 năm tuổi. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, những dấu tích lịch sử gắn với công chúa Huyền Trân, mà còn được biết đến là cái nôi của nghề làm nước mắm – một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, niềm tự hào của cư dân miền biển.
Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

LNV - Trong bối cảnh đô thị hóa và hội nhập, Tây Phương đang từng bước đổi mới, phát huy thế mạnh làng nghề gắn với phát triển du lịch, đồng thời mở rộng không gian công nghiệp và dịch vụ, hướng tới trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng của Thủ đô.
Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

LNV - Nằm ven sông Cầu hiền hòa, làng Thổ Hà (phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh) từ lâu đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước với nghề làm bánh đa nem. Nghề đã tồn tại hàng trăm năm, trở thành nét văn hóa đặc trưng và là niềm tự hào của người dân địa phương.
Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

LNV - Thủ công mỹ nghệ từ lâu được coi là một trong những ngành nghề truyền thống đặc sắc nhất của Thủ đô Hà Nội. Không chỉ mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử, sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn góp phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông thôn và xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường quốc tế nhiều biến động, nhu cầu tiêu dùng trong nước đang trở thành một “nguồn lực mềm” mạnh mẽ, mở ra sức sống mới cho ngành thủ công mỹ nghệ Thủ đô.
An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

LNV - Suốt hàng chục năm qua, nghề chẻ đá tại ấp Hòn Sóc, xã Hòn Đất vẫn được người dân nơi đây duy trì như một phần không thể thiếu trong cuộc sống mưu sinh. Mỗi buổi sáng, cả bãi đá rộng lớn vang lên âm thanh đặc trưng của làng nghề: tiếng máy cắt xèng xèng, tiếng búa tạ nện vào nêm thép cắc cắc, hòa quyện thành nhịp điệu lao động cần cù.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Vĩnh Long: Khởi nghiệp tuổi xế chiều, người đàn ông U80 thành công với sản phẩm OCOP

Vĩnh Long: Khởi nghiệp tuổi xế chiều, người đàn ông U80 thành công với sản phẩm OCOP

OVN – Tuổi xế chiều, thời điểm nhiều người chọn nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già bên gia đình, con cháu, ông Nguyễn Công Trí (SN 1953), ngụ tại tỉnh Bến Tre
Từ trái sim rừng đến đặc sản đạt chất lượng OCOP

Từ trái sim rừng đến đặc sản đạt chất lượng OCOP

OVN - Từ những trái sim rừng mọng chín, chị Đỗ Thị Thu Thảo (xã An Hòa, Gia Lai) đã xây dựng thương hiệu rượu SimMo8, kết hợp giữa tri thức bản địa và công nghệ hiện đại. Không chỉ dừng lại ở một sản phẩm OCOP tiêu biểu, SimMo8 còn kể câu chuyện về ký ức,
Thị trưởng Khu Trung tâm Tài chính London có chuyến thăm cấp cao tới Việt Nam

Thị trưởng Khu Trung tâm Tài chính London có chuyến thăm cấp cao tới Việt Nam

Ngày 15/9 vừa qua, Thị trưởng Khu Trung tâm Tài chính London - ông Alastair King đã có chuyến thăm cấp cao tới Việt Nam. Chuyến thăm do Đại sứ quán Anh tại
Công nhận làng Việt Hải là điểm du lịch cộng đồng

Công nhận làng Việt Hải là điểm du lịch cộng đồng

LNV - UBND TP Hải Phòng vừa chính thức công nhận làng Việt Hải (đặc khu Cát Hải) là Điểm du lịch cộng đồng. Đây được xem là bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng, gắn với định hướng chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.
Người lính năm xưa trở thành nông dân điển hình hôm nay

Người lính năm xưa trở thành nông dân điển hình hôm nay

LNV - Trở về sau những năm tháng quân ngũ, cựu chiến binh Dương Đình Tuấn (xã Quỳnh Văn, Nghệ An) vẫn miệt mài gắn bó với ruộng đồng, chuồng trại. Với sự cần cù và tinh thần học hỏi, ông đã trở thành tấm gương điển hình trong phát triển nông nghiệp, góp p
Giao diện di động