Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 27°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 23°C Thừa Thiên Huế

Chấn hưng Làng nghề Việt Nam và vai trò của Hiệp hội

LNV - Do đó sự phát triển của làng nghề gắn với sự lớn mạnh của Hiệp hội như là một hiện tượng “cộng sinh tất yếu” sự hình thành làng nghề là điều kiện tiền đề cho sự ra đời của Hiệp hội và ngược lại, sự ra đời của Hiệp hội là tác nhân thúc đẩy làng nghề phát triển. Hiệp hội gắn với Làng nghề như là một cặp đôi tương thích xã hội có tính quy luật.
Chặng đường từ khởi sắc đến chấn hưng Làng nghề Việt Nam

So với lịch sử phát triển hàng ngàn năm của làng nghề thì 15 năm hoạt động của Hiệp hội chỉ là một dấu chấm. Dấu chấm son của quá trình hình thành, phục hồi, phát triển…. Thực ra khi có nghề, những người thợ ở làng nghề cũng đã phải liên kết với nhau đề tồn tại theo phương châm “Buôn có bạn, bán có phường”. Phường hội là tổ chức của thợ thủ công cùng nghề hoặc của nhà buôn cùng buôn một thứ hàng trong xã hội từ xa xưa. Các dạng sớm nhất của phường hội được hình thành là các hiệp hội thương nhân.

Lịch sử Làng nghề gắn với dân tộc, không gian làng nghề bảo tồn các giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc. Làng nghề là cộng đồng kinh tế-xã hội bền vững gắn với từng mảnh đất địa linh, nhân kiệt nhất định trường tồn theo thời gian. Ngành, nghề nào đó có thể mai một, thất truyền nhưng giá trị văn hóa phi vật thể còn lưu lại mãi mãi với lịch sử - “lịch sử như lò thuốc súng đôi khi nó mạnh hơn người làm ra nó.” (Lê-ô-nôp - Đại văn hào Nga)

Làng nghề Việt Nam đã hình thành và phát triển hàng ngàn năm nay như là một khu vực không thể thiếu của lịch sử dân tộc Việt Nam và cũng thăng trầm theo thời gian. Dù có suy vi do thời thế nhưng Làng nghề vẫn tồn tại vì đây là cội rễ kết tinh có tầm văn hóa, là xu thế ngày càng được nhiều nước coi trọng bảo tồn, phát triển, chấn hưng.


TSKH Nguyễn Vi Khải


Theo thống kê của Courrier du Vietnam 17/3/2003, ở nước ta có hơn 2000 làng nghề, miền Bắc có 1594 làng nghề (79%), miền Trung có 312 làng nghề (15,5%) và miền Nam có 111 làng nghề (5,5%). Ở miền Bắc các làng nghề lại tập trung hơn ở một số địa phương thuộc đồng bằng Bắc bộ như Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hà Nam…

Đặc biệt, trong 3 thập niên gần đây làng nghề Việt Nam đã khởi sắc. Với số lượng “cả nước có 5.411 làng nghề... trong đó có 1.864 làng nghề truyền thống (115 nghề truyền thống) thu hút khoảng 11 triệu lao động...bao gồm 12 nhóm nghề gốm sứ, mây tre đan , gỗ, đồng, đệt thổ cẩm...Riêng hàng thủ công mỹ nghệ đã có 2000 doanh nghiệp và cơ sở tham gia xuất khẩu đạt kim ngạch tới 2 tỷ USD. Thị trường Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng tới 40% ..tiếp theo là Đức và Nhật Bản” (Báo cáo Tổng kết - Lưu Duy Dần Chủ tich Hiệp hội Làng nghề Việt Nam…” Kỷ yếu Đại hội đại biểu toàn quốc” tr.7)

Như vậy có thể thấy khoảng 10 - 15 năm qua số lượng làng nghề đã tăng đáng kể, đây cũng là thời gian Hiệp hội Làng nghề Việt Nam được thành lập và hoạt động của Hiệp hội chắc chắn đã có vai trò nhất định trong sự phát triển của làng nghề, như cặp đôi tương thích mà xã hội đã khẳng định.

Nói một cách khác, tạo lập không gian và khẳng định hành trình di sản văn hóa làng nghề không thể thiếu sự hiện diện của Hiệp hội Làng nghề.


Kinh tế người dân tại làng nghề chắc chắc cao hơn sản xuất thuần nông và có cơ hội làm giàu. Khi phát triển với số lượng ngày càng nhiều thì xuât hiện sự cạnh tranh về chất lượng sản phẩm là lẽ tự nhiên của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh này tất yêu dẫn đến hàng loat các hoạt động: Cải tiến mẫu mã, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm, tăng cường năng lực marketing, nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, đổi mới kỹ thuật, công nghệ… các hoạt động này mang tính chuyên nghiệp và cũng như sự tương thích xã hội, hoạt động này đòi hỏi sự hình thành các tổ chức hội, hiệp hội, trung tâm tư vấn, viện nghiên cứu, đào tạo.v.v. Đây là các hoạt động dân sự hình thành các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Hiệp hội làng nghề cấp Trung ương và các thành viên xuất hiên, trưởng thành trong lẽ tự nhiên ấy. Hiện nay Hiệp hội có tới 13.113 hội viên (trong đó 32% là hội viên tổ chức), số hội viên đã có tại 61/63 tỉnh thành.

Tuy nhiên nhìn tổng thể, đối với khu vực làng nghề những rào cản về quan điểm, nhận thức nổi lên phổ biến là sự quan tâm chưa đầy đủ hoạt động sản xuất của làng nghề, mọi sự cố về ô nhiễm môi trường cho rằng tại làng nghề, hoặc chỉ coi trọng về ý nghĩa kinh tế của làng nghề, thậm chí coi làng nghề là kinh tế hộ gia đình - cá thể, không quan trọng bằng kinh tế nhà nước, điều đó thể hiện rõ khi ưu tiên quá nhiều cho các doanh nghiệp Nhà nước mà quên lãng khu vực sản xuất nhỏ và vừa của làng nghề… Mặc dù vậy, làng nghề và hoạt động của Hiệp hội vẫn vượt qua nhiều rào cản để khởi sắc và phát triển, chấn hưng. Hình ảnh so sánh làng nghề như những con tem nhiều màu sắc lấp lánh trên lưng con voi kinh tế Việt Nam đang từng bước chuyển xoay là bức tranh toàn cảnh rất có ấn tượng.

Trước các thách thức để chấn hưng

Thách thức trước nhu cầu của xã hội - khi phải vượt qua ngưỡng của sự phát triển trung bình thấp, hiện nay thu nhập đầu người Việt Nam mới dừng lại ở mức 2.750 USD/ người. Đây cũng chỉ là mức trung bình thấp, còn thua xa các nước láng giềng trong khu vực như Thái Lan 7.187 USD, Malaixia 10.942 USD, Singapore 64.041USD (theo IMF 2019)

Thách thức trước sự hội nhập, khi các hiệp định thương mại EVFTA, CPTPP… Gần 20 hiệp đinh đã có hiệu lực, chúng ta sẽ giao lưu thương mại với số dân không dưới 4 tỷ người, với các nền kinh té phát triển, nhu cầu về hàng hóa và sức mua rất lớn, sản phẩm các loại hàng hóa khác nói chung và của làng nghề nói riêng có cơ hội rất lớn để chấn hưng thực sự. Nhưng cũng là thách thức rất lớn bởi quy chuẩn các hiệp định về chất lượng hàng hóa, nhãn mác, bao bì, nguồn gốc xuất xứ ... đòi hỏi ở mức độ rất cao.

Thách thức từ trong bản thân làng nghề đang còn nhiều khó khăn yếu kém. Hầu hết là quy mô sản xuất nhỏ, vốn ít, mặt bằng hạn hẹp, vấn nạn ô nhiễm môi trường chưa có giải pháp căn cơ, nhân lực đào tạo chưa bài bản, thiếu tính hệ thống, hành lang pháp lý chưa đồng bộ… Đặc biệt trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều vấn đề đặt ra cho làng nghề những thách thức mới không dễ vượt qua, thậm chí phải là thay đổi chiến lược sản xuất với hàng loạt nội dung: Money (tiền, vốn), Manpower (nhân lực), Mechanism (cơ chế), Materials (nguyên liệu) và Marketing (tiếp thị), Marchine (máy móc công cụ) Management (quản lý) và gần đây là nhân tố Method (phương pháp) và Measurement (Kiểm tra, đo lường). Đó là 9 chữ M cần có trong quá trình phát triển, chấn hưng.

Với hoạt động của Hiệp hội, thách thức cũng không nhỏ khi hành lang pháp lý còn nhiều chồng chéo, bất cập, Luật về quyền lập hội trải qua hàng chục lần dự thảo chưa biết đến bao giờ công bố. Là tổ chức xã hội mang tính chất tự nguyện- tự quản- tự chủ - tự trang trải. Hiệp hội gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, về cơ chế quản lý của Nhà nước… Không phải ngẫu nhiên Đảng cũng thừa nhận: “Nội dung, phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với NNPQ , Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội... thẩm quyền và trách nhiệm giữa Đảng lãnh đạo với Nhà nước quản lý còn có những điểm chưa được luận giải thấu đáo” (ĐCSVN . BCHTW – Báo cáo Tổng kết “30 năm đổi mới”, Nhà xuát bản Chính trị Quốc gia- Sự thật Hà Nội 2015, trang. 146.) Tất nhiên hoạt động của Hiệp hội cũng còn những tồn tại nhất định. Tổng kết của Ban chấp hành Hiệp hội đã nói rõ vấn đề này.

Những đặc trưng của Làng nghề và hoạt động của Hiệp hội

Đặc trưng về lịch sử, truyền thống văn hóa xã hội con người: Mỗi làng nghề là một môi trường văn hóa, kinh tế - xã hội và kỹ thuật truyền thống lâu đời. Là nơi bảo tồn những tinh hoa nghệ thuật, kỹ thuật sản xuất từ đời này sang đời khác đúc kết ở những nghệ nhân tài hoa. Bên trong các làng nghề thường chứa đựng những nét văn hóa thuần Việt với không gian văn hóa nông nghiệp: Cây đa, giếng nước, sân đình, hoặc là những miệt vườn với cánh cò trắng, lũy tre xanh, những làn điệu dân ca

Mỗi làng nghề đó có các hoạt động dân sự như xây dựng hương ước, hình thành phường hội tổ chức lễ hội trong cộng đồng…Hoạt động dân sự trong cộng đồng làng nghề là hình thức sinh động, hiệu quả. Tại những kỳ hội chợ, nhiều làng nghề đã có cơ hội ký hợp đồng xuất khẩu tại chỗ, mang lại giá trị hàng tỷ đồng mỗi năm. Phần lớn làng nghề truyền thống gắn với một vùng sông nước nằm trên trục giao thông thuận lợi, cả đường bộ lẫn đường sông nên thuận tiện để xây dựng các chương trình du lịch kết hợp.

Sản phẩm của làng nghề là loại đặc biệt: Ngoài giá trị sử dụng, giá trị trao đổi…còn những giá trị phi hữu hình khác như giá tri văn hóa nhân văn, giá trị thẩm mỹ, ý nghĩa tâm linh… Nếu một số sản phẩm công nghệ sản xuất bằng máy hàng loạt có vòng đời ngắn luôn thay đổi thì phần lớn sản phẩm từ làng nghè, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ lại có vòng đời rất lâu và vĩnh viễn, càng lâu càng có giá. Các hoạt động này được Hiệp hội chỉ đạo kết hợp với các đơn vị, các tổ chức xã hội, các cơ quan quản lý của Nhà nước, thu hút các nhà khoa học, các nhà tài trơ,…

Khẳng định giá trị văn hóa – nhân văn từ sản phẩm làng nghề: Khu vực làng nghề không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, là nơi thu hút nhiều lao động… mà sự tồn tại và phát triển của làng nghề còn khẳng định giá trị văn hóa – nhân văn từ sản phẩm làng nghề đã làm cho hình ảnh của Việt Nam sinh động, đa dạng. Hiệp hội coi trọng điều này vì quá trình hoạt động – thông qua các hội nghị ,hội thảo diễn đàn…Tầm của vấn đề đã được khẳng định: Sự tồn tại của làng nghề gắn với sự tồn tại của Nhà nước của dân tộc chính là do kết tinh của bản sắc văn hóa trường tồn, sự hiện diện của các sản phẩm tinh xảo độc đáo, những bí quyết gia truyền, sự phong phú của các lễ hội, đặc biệt sự tiếp nối của các thế hệ nghệ nhân của nhiều làng nghề có lịch sử lâu đời. Chứng minh điều đó, quốc gia quốc thổ có thể bị đô hộ hàng ngàn năm nhưng bản sắc văn hóa Quốc Tổ ấy như một nguồn năng lượng vĩnh cửu đã trỗi dạy mỗi khi bị xâm lăng áp đặt.

Không phải ngẫu nhiên, Chủ tịch Uỷ ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh: Khu vực làng nghề không chỉ gắn bó với sản xuất nông nghiệp, tạo ra giá trị kinh tế, bảo vệ môi trường và gắn với phát triển nghề truyền thống, làng nghề còn góp phần tạo ra yếu tố văn hóa, gắn với lịch sử vì vậy bảo vệ làng nghề cũng là bảo vệ văn hóa dân tộc.

Có thể nói, Hiệp hội và các tổ chức thành viên đã thực hiện tốt các chức năng và vai trong của mình trong 15 năm đầy thách thức khó khăn.

Là tổ chức xã hội nghề nghiệp, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hiệp hội Làng nghề đã thực sự là người đại diện cho khối tích hợp các Làng nghề trên phạm vi toàn quốc. Hiệp hội có vai trò rất quan trọng trong hệ thống cộng đồng xã hội đông đảo của Nhà nước CHXHCNVN hiện nay.

Có thể nói dưới hình thức các “phường hội” giản đơn nhất từ khi có làng nghề, hiệp hội làng nghề có quá trình phát triển lâu đời nhất, do nhu cầu “Buôn có bạn, bán có phường” từ xa xưa… nguồn gốc lịch sử 36 phố phường Hà Nội chứng minh điều đó. Hiệp hội thực sự là trợ thủ có tầm khi định hướng sản xuất làng nghề nhận thức sâu sắc chuỗi giá trị của sản phẩm, trong đó giá trị văn hóa phi vật thể là mẫu số chung của mới thời kỳ phát triển, là thước đo tiêu chí hàng đầu cho thương hiệu.

Chức năng của Hiệp hội không chỉ là người đại diện bảo về quyền lợi cho hàng chục triệu lao động của làng nghề mà hơn thế nữa Hiệp hội còn là cầu nối đa chiều kết dính các mối quan hệ giữa người lao động (dân) với Nhà nước, giữa các thành viên trong cộng đồng, giữa người sản xuất với người tiêu dùng, đặc biệt định hướng du lịch làng nghề trong thời hội nhâp sâu rộng…đã là sự quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới.

Với chức năng giám sát và phản biện xã hội, hiệp hội đã và đang góp phần chuyển tải nguyện vọng của Dân vào quá trình hoạch định chinh sách, hoàn thiện luật pháp…tuy nhiên Hiệp hội cũng như các hội thành viên hoạt động trong điều kiện nhiều khó khăn, cơ sở vật chất nghéo nàn, chưa được quan tâm đúng mức, hành lang pháp lý chưa thông thoáng…nên hiệu quả còn hạn chế.

Hiệp hội Làng nghề Việt Nam hiện nay với hành trình 15 năm không nhiều lắm nhưng hoạt động liên tục, bền bỉ đã thực sự là một dấu son dáng ghi nhận. Ngoài các tổ chức thành viên, Hiệp hội có cả một mạng lưới của hội chuyên nghề (hơn 50 nhóm nghề), Hiệp hội làng nghề ở các tỉnh thành. Đây là nơi tập hợp đông đảo đội ngũ nghệ nhân, là cơ sở đặc biệt cho sự bảo tồn và phát triển làng nghề trong hội nhập. Một mạng lưới làng nghề, tổ chức hội nghề nghiệp, các thế hệ nghệ nhân, thợ giỏi tâm huyết của làng nghề, vì làng nghề, do làng nghề, với hàng chục triệu lao động tại nơi gọi là quê hương thanh bình ấy là một khối tài sản vô giá của đất nước.

Chỉ riêng việc tôn vinh nghệ nhân như những bảo vật sống quốc gia, thành lập hơn 30 bảo tàng sản phẩm thủ công mỹ nghệ… trong khi đang trình diễn “xã hội 5.0” hiện đại người Nhật đã cho chúng ta thấy những bài học vô giá. Việt Nam có hơn 5000 làng nghề với nền tảng băn sắc văn hóa độc đáo rất nên làm, xứng đáng được làm những việc tương tụ như thế. Hiệp hội và các ngành hữu quan đang làm và có thể làm tốt hơn nữa nếu gắn kết được với sự quan tâm thích đángvà tinh thần trách nhiệm của các ngành, các cấp có thẩm quyền. Nhiệm vụ này không chỉ là của riêng Hiệp hội làng nghề mà phải là của cộng đồng, của tổ chức Nhà nước có tầm cao hơn nữa. Kinh nghiệm của các nước bạn như Thái Lan, Nhật Bản, In-đô-nê-xia… cho thấy điều đó.

TSKH Nguyễn Vi Khải
Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

Làn gió mới cho vùng chè Thái Nguyên

Làn gió mới cho vùng chè Thái Nguyên

LNV - Với định hướng và mong muốn phát triển dài hạn tại Việt Nam, thương hiệu trà sữa CHAGEE xem việc đồng hành giúp bà con nông dân xây dựng mô hình vùng nguyên liệu thí điểm là hành động cần thiết để góp phần thúc đẩy nông nghiệp bền vững, minh bạch và gắn kết với cộng đồng địa phương.
Chuẩn bị cho Festival Quốc tế 2025: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Chuẩn bị cho Festival Quốc tế 2025: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Sáng 3/7, UBND thành phố Hà Nội tổ chức Hội nghị về việc tổ chức Festival Bảo tồn và Phát triển làng nghề quốc tế năm 2025. Đồng chí Nguyễn Mạnh Quyền, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và đồng chí Võ Văn Hưng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì hội nghị.
"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

LNV - Nếu phải xác định một điểm khởi đầu cho hành trình chuyển đổi số tại huyện Phú Xuyên, thì đó không phải là hạ tầng, công nghệ hay những con số đầu tư hàng chục tỷ đồng, mà chính là yếu tố con người - những người dám nghĩ, dám làm, dám tiên phong.
Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ

Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ

LNV - Giữa dòng chảy hiện đại hóa, những nghề truyền thống như dệt thổ cẩm và đan lát của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi) vẫn được gìn giữ bền bỉ qua nhiều thế hệ. Không chỉ mang giá trị thẩm mỹ cao, các sản phẩm thủ công còn là biểu tượng văn hóa độc đáo, gắn liền với đời sống núi rừng và tâm hồn người Hrê. Nhờ đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân, những nghề xưa không chỉ sống lại mà còn trở thành điểm nhấn trong phát triển du lịch cộng đồng địa phương.
Mùa sen ở hồ Tây

Mùa sen ở hồ Tây

LNV - Vào dịp tháng 6 này, trên khắp các ao, đầm trồng sen ở khu vực hồ Tây (quận Tây Hồ) rộn ràng không khí thu hoạch, chụp ảnh với hoa. Sen trồng ở đây là sen bách diệp với bông to có 100 cánh, mùi thơm đượm mang một nét đặc trưng riêng của hồ Tây mà không nơi nào có được.
Nghề Đúc Đồng Đại Bái: Tinh Hoa Văn Hóa Bắc Ninh

Nghề Đúc Đồng Đại Bái: Tinh Hoa Văn Hóa Bắc Ninh

LNV - Bắc Ninh là một tỉnh nổi tiếng với nhiều làng nghề truyền thống, trong đó phải kể đến làng nghề đúc đồng Đại Bái, trước đây gọi là làng Văn Lãng (hay còn gọi là làng Bưởi Nồi), thuộc xã Đại Bái, huyện Gia Bình. Từ lâu, làng đã nổi danh với nghề đúc đồng, chuyên sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo.

Tin khác

Đưa sản phẩm làng nghề lên sách, tăng cơ hội xuất khẩu

Đưa sản phẩm làng nghề lên sách, tăng cơ hội xuất khẩu

LNV - Việc đưa các sản phẩm làng nghề lồng ghép trong các cuốn sách là cách thức hiệu quả để quảng bá thương hiệu, tăng cơ hội xuất khẩu.
Bảo tồn văn hóa làng nghề qua sản phẩm OCOP của Hà Nội

Bảo tồn văn hóa làng nghề qua sản phẩm OCOP của Hà Nội

LNV - Hà Nội là mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc, nơi lưu giữ hơn 1.350 làng nghề và làng có nghề truyền thống. Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, việc bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề đang đứng trước nhiều thách thức. Chương trình 'Mỗi xã một sản phẩm' (OCOP) được xác định là một trong những giải pháp chiến lược giúp Hà Nội bảo tồn văn hóa làng nghề một cách hiệu quả và bền vững.
Gia Lâm: Địa danh “Dương Xá” được bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm nông sản chế biến

Gia Lâm: Địa danh “Dương Xá” được bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm nông sản chế biến

LNV - Theo UBND huyện Gia Lâm, UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành Quyết định số 2738/QĐ-UBND, cho phép Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp xã Dương Xá sử dụng địa danh “Dương Xá” để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể “Nông sản chế biến Dương Xá”.
Gìn giữ tinh hoa làng nghề xứ Quảng

Gìn giữ tinh hoa làng nghề xứ Quảng

LNV - Trong số sáu cá nhân vừa được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân” vì những cống hiến đặc biệt trong gìn giữ và phát huy di sản nghề thủ công mỹ nghệ, tỉnh Quảng Nam vinh dự có hai đại diện: Ông Lê Đức Hạ (nghệ nhân gốm ở TX Điện Bàn) và ông Huỳnh Sướng (nghệ nhân mộc tại TP Hội An).
Chuyện của “Vua gỗ lũa Trai Vàng”

Chuyện của “Vua gỗ lũa Trai Vàng”

LNV - ’’Nơi tôi sinh: Làng Phùng Xá- Huyện Thạch Thất gần Chùa Thầy- một làng quê nghèo nhưng dân quê tôi thật thà lắm… “ Một câu nói cũng rất thật thà chân chất đến từ người đàn ông có ánh mắt kiên định, khuôn mặt sáng có chút lãng tử như một hoạ sĩ. Đó là anh Chu Văn Ân, nghệ nhân gỗ lũa Trai Vàng.
Nghệ nhân sinh vật cảnh năng động, sáng tạo

Nghệ nhân sinh vật cảnh năng động, sáng tạo

LNV - Nói đến "Bắc lan" hay "Bắc hồ câu", "Bất động sản Phương Bắc" ở Suối Hai thì người dân huyện Ba Vì (Hà Nội) và các địa phương lân cận ai cũng biết đó là tên thường gọi của doanh nhân Lê Đức Bắc. Anh Bắc không những thành đạt trong lĩnh vực vận tải, xây dựng, kinh doanh bất động sản mà còn là một nghệ nhân sinh vật cảnh và làm vườn (SVC & LV).
Làng nghề xứ Thanh – Nơi kết tinh tinh hoa văn hóa cha ông

Làng nghề xứ Thanh – Nơi kết tinh tinh hoa văn hóa cha ông

LNV - Xứ Thanh nổi tiếng là vùng đất của những làng nghề truyền thống lâu đời, nơi lưu giữ trọn vẹn giá trị văn hóa, tinh thần và bàn tay tài hoa của bao thế hệ. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, mỗi làng nghề không chỉ là kế sinh nhai của người dân mà còn là “bảo tàng sống” của tinh hoa văn hóa đất Việt, ngày càng được phát huy mạnh mẽ trong đời sống hiện đại.
Giữ lửa nghề bánh tráng Thuận Hưng

Giữ lửa nghề bánh tráng Thuận Hưng

LNV - Nằm ven dòng sông Hậu hiền hòa, làng nghề bánh tráng Thuận Hưng (xã Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ) là một trong những làng nghề truyền thống lâu đời, nổi tiếng miền Tây Nam Bộ. Ngày nay, những người dân nơi đây vẫn miệt mài đỏ lửa, tráng bánh nhằm gìn giữ và phát triển làng nghề địa phương.
Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

LNV - Với đường bờ biển dài, điều kiện tự nhiên thuận lợi và nguồn lợi thủy sản phong phú, Việt Nam sở hữu lợi thế lớn về nghề nuôi biển. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm tháo gỡ những nút thắt, phát huy tối đa tiềm năng, hướng tới mục tiêu phát triển nghề nuôi biển hiện đại, bền vững.
Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá

Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá

LNV - Lên Cao nguyên đá, nhiều du khách sẽ tìm đến với Làng nghề dệt vải lanh Lùng Tám, xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ. Nơi đây nổi tiếng với việc gìn giữ, phát huy hiệu quả nghề truyền thống của Hợp tác xã lanh Lùng Tám, với 100% thành viên là phụ nữ người Mông. Sự cần cù, sáng tạo từ những sợi lanh đã cho ra đời nhiều sản phẩm thủ công rất đẹp, mang đậm bản sắc truyền thống. Chính điều này đã giúp cho Làng nghề dệt vải lanh Lùng Tám trở thành một điểm du lịch trải nghiệm cực kỳ hấp dẫn và thu hút rất đông du khách.
Nghệ nhân “hồi sinh” các con giống bột cổ

Nghệ nhân “hồi sinh” các con giống bột cổ

LNV - Từ năm 2012 đến nay, nghệ nhân Đặng Văn Hậu (làng Xuân La, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội) đã lần lượt tái hiện lại hàng loạt con giống độc đáo: Lục súc tranh công, Tứ linh, Tam sư, Nghê hý châu, Ngũ hổ thần quan… Đặc biệt, các họa tiết truyền thống vân mây từ tranh Hàng Trống được đưa vào con giống bột, tạo nên sự giao thoa giữa mỹ thuật dân gian và hơi thở hiện đại.
Phú Yên công nhận 11 nghề truyền thống năm 2025

Phú Yên công nhận 11 nghề truyền thống năm 2025

LNV - UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành Quyết định công nhận 11 nghề truyền thống năm 2025 cho các địa phương trên địa bàn tỉnh.
Người âm thầm dùng cây kim, sợi chỉ lưu giữ hồn cốt văn hóa Việt

Người âm thầm dùng cây kim, sợi chỉ lưu giữ hồn cốt văn hóa Việt

LNV - Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến việc sử dụng máy móc thay cho lao động chân tay, máy thêu ra đời và công nghệ thêu cũng phát triển theo đó. Mặt khác, trước sự tác động của kinh tế thị trường trong những năm gần đây, nhiều nghề thủ công có nguy cơ mai một, trong đó có nghề tranh thêu tay truyền thống.
Văn hoá Bắc Bộ qua các làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Hà Nội

Văn hoá Bắc Bộ qua các làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Hà Nội

LNV - Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, biến cố, các làng nghề ở Hà Nội vẫn giữ được nét đẹp riêng, góp phần làm nên vẻ đẹp của mảnh đất ngàn năm văn hiến. Những làng nghề truyền thống ấy nổi tiếng là điểm đến thú vị cho bạn trong những chuyến đi cuối tuần khám phá Thủ đô.
Chủ tịch nước Lương Cường gặp mặt nghệ nhân làng nghề tiêu biểu toàn quốc

Chủ tịch nước Lương Cường gặp mặt nghệ nhân làng nghề tiêu biểu toàn quốc

LNV - Nhân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, chiều 10/6, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Lương Cường gặp mặt các nghệ nhân làng nghề tiêu biểu toàn quốc và lãnh đạo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam

Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam

LNV - Trong tiến trình lịch sử dân tộc, các tôn giáo không chỉ đóng vai trò tín ngưỡng mà còn là những trụ cột tinh thần, tham gia vào việc ổn định xã hội, điều tiết đời sống văn hóa và phản ánh tâm thế con người trước các biến động lịch sử. Cuốn sách “Qu
Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam

Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam

LNV - Trong hệ thống thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt, những công trình như đình, chùa, đền, miếu đã được nghiên cứu sâu rộng và trở thành biểu tượng quen thuộc trong tâm thức cộng đồng. Tuy nhiên, các quán Đạo giáo, nơi thờ phụng các vị thần
Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị

Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị

LNV - Khi các thiết chế tôn giáo quen thuộc như đình, chùa, đền, miếu đã khẳng định vị thế vững chắc trong nhận thức cộng đồng và chính sách bảo tồn di sản, thì quán Đạo giáo là một loại hình di tích gắn liền với sự du nhập và bản địa hóa của Đạo giáo ở V
Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước

Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước

LNV - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn kiện pháp lý có giá trị cao nhất, phản ánh ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đồng thời là nền tảng chính trị, pháp lý cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP

Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP

OVN - Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến tháng 6-2025, cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm) đạt 3 sao trở lên, tăng 12.056 sản phẩm so với năm 2020. Trong đó, có 73,2% sản phẩm 3 sao, 26,4% sản phẩm 4 sao, 79 sản
Giao diện di động