Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 25°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 27°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 26°C Thừa Thiên Huế

Nồi đất Trù Sơn trăm năm mộc mạc

LNV - Không tinh xảo, cầu kỳ, rực rỡ như gốm sứ Bát Tràng hay Phù Lãng, làng nồi đất Trù Sơn (Đô Lương, Nghệ An) mộc mạc như chính tên gọi.


Người dân Trù Sơn đến nay vẫn giữ nghề làm nồi đất và chỉ truyền cho phụ nữ.


Qua trăm năm, dụng cụ làm nghề trong tay người thợ vẫn chỉ một bàn xoay, vài miếng giẻ nhỏ, khoanh nứa mỏng.

Những trưa cháy lửa nung nồi

Quá trưa, trời xứ Nghệ nóng như thiêu, gia đình bà Nguyễn Thị Anh (xóm Trù Sơn, Đô Lương) đội nắng lần lượt xếp những chiếc nồi đất "sống" lên lò nung. Xung quanh đã chuẩn bị sẵn rơm rạ, những cành khô thuộc loại có dầu như thông, vọt, dành dành… và nổi lửa.

Đây là công đoạn quan trọng nhất của quá trình làm nồi đất của làng nghề Trù Sơn. Tất cả người trong nhà được huy động để giữ cho lửa cháy liên tục.

Nhào nặn bằng mồ hôi, nung qua lửa cháy, đất nhọc nhằn nuôi người cơ cực. Giờ đây, những hàn vi đã thành quá vãng, người Trù Sơn vẫn đau đáu giữ tên làng nồi. Để trân quý di sản cha ông và không khỏi tự hào về duy nhất làng nghề nồi đất của xứ Nghệ đã bền bỉ qua thăng trầm.

Mồ hôi ướt đẫm, những gương mặt đỏ bừng và loang lổ vết nhọ, dù đã mặc quần áo dài và đeo khẩu trang che bớt sức nóng đốt bỏng da thịt.

"Nung nồi mất khoảng 4 - 5 tiếng đồng hồ, vì vậy chúng tôi thường bắt đầu vào buổi trưa, đến chiều tối là vừa xong. Nhưng không phải cứ cho chất đốt vào cứ thế nung, mà phải qua nhiều lần trở nồi, nên vô cùng vất vả và cực nhọc", bà Anh nói.

Đầu tiên, những chiếc nồi được xếp ngửa, cái nhỏ nằm trong cái to thành từng chồng, rồi đốt từ dưới lên để khói bao trùm toàn bộ lò nung. Sau khoảng 30 – 40 phút thì dừng lại, hạ nồi, đảo trên xuống dưới và nung tiếp cho đều.

Giai đoạn "hơ nồi" trên lâu công nhất, cho đến khi khói ám đen cả trong lẫn ngoài toàn bộ số nồi thì tắt lửa. Lúc này, những người thợ lấy rơm ướt quấn xung quanh làm lớp vỏ lò, dùng thanh sắt và tận dụng những chiếc nồi hỏng làm vật chèn cố định lại, bắt đầu đốt đợt hai. Cứ cháy hết lớp vỏ này lại bồi thêm lớp khác, bao giờ rơm tàn mà ngọn lửa vẫn bốc lên từ miệng nồi nghĩa là đã chín.

Mỗi lần nung như vậy gồm khoảng từ 250 - 300 chiếc nồi. Nhìn mẻ sản phẩm mới ra lò đã được xếp đặt cẩn thận ở góc nhà, bà Nguyễn Thị Anh hài lòng: "Hầu như không có cái nào nứt vỡ, ngày mai có thể gọi người đến nhập".

Rồi bà nói thêm, nghề này cực, các cụ ngày xưa từng bảo đây là nghề "bán xương nuôi thịt". Làng Trù Sơn chiếm ba phần đồi núi, đất đai cằn cỗi. Mỗi nhà chỉ được vài sào ruộng mà còn phải nhờ trời mưa thuận gió hòa mới có gạo ăn. Không làm thêm nghề phụ thì lấy gì để sống, nuôi con cái lúc nông nhàn, giáp hạt. Thế nên đời ông bà đến con cháu kế tục giữ nghề làm kế sinh nhai đến tận bây giờ.


Công đoạn nung nồi chín vô cùng vất vả, kéo dài từ 4 – 5 tiếng.


Nghề chỉ truyền cho phụ nữ

Chẳng ai nhớ làng nồi Trù Sơn chính xác có từ lúc nào, kể cả những người già cũng chỉ biết từ khi sinh ra, đã thấy ông bà, cha mẹ mình cần mẫn bên gánh đất sét.

Tương truyền, xưa kia nghề nồi đất vốn ở vùng Nghi Lộc (Nghệ An) nhưng chỉ truyền cho con dâu. Về sau, có cô con gái nhà nọ lấy chồng về làng Trù Sơn (Đô Lương), vất vả thiếu thốn nên được mẹ đẻ phá lệ, bí mật truyền nghề. Nhờ vậy bà con nơi đây cũng được học theo.

Lại có truyền thuyết cho rằng, chính công chúa con vua Trần đã dạy cho người dân Trù Sơn làm nồi đất để cuộc sống bớt cơ cực. Nhưng với xuất xứ nào, qua hàng trăm năm, đây là làng nồi duy nhất còn lại của xứ Nghệ.

Một điều thú vị là cho đến giờ, nghề nồi đất Trù Sơn vẫn chỉ truyền cho con gái. Lý do đơn giản vì phụ nữ khéo léo, cẩn thận, nhẹ nhàng hơn. Làm nồi đất, muốn nhanh cũng không được, phải từ từ, nhẫn nại, dùng lực không quá nhẹ cũng không quá mạnh, như vậy nồi mới tròn và có độ dày đều. Bà Nguyễn Thị Anh lại không học nghề từ mẹ mình.

"Mẹ là con gái làng khác, theo bố tôi về Trù Sơn nên không biết làm nồi đất. Tôi lớn lên tầm 8, 9 tuổi bắt đầu đi khắp làng bắt chước các bà, các o. Người dạy nghề chính cho tôi là cụ cố Hường – có tiếng nhất làng ngày xưa. Cụ cho tôi ngồi bên đống đất đã được nhào nhuyễn, bảo "cứ nặn cho quen tay, ra hình gì cũng được, rồi bà sửa cho", bà Anh kể.

Cứ đều đặn như vậy đến năm 14 – 15 tuổi, thì Nguyễn Thị Anh đã tự mình làm được trọn vẹn một cái nồi đất đạt chuẩn. Giờ cụ Hường đã về với tiên tổ, nhưng học trò của cụ cũng đã thành tay thợ lão luyện trong nghề.

Cũng vì phụ nữ là thợ chính, nên nhà nào sinh nhiều con trai lại rơi vào cảnh vất vả, thiếu người. Cụ Nguyễn Thị Hoản (87 tuổi, làng Thượng Giáp, xã Trù Sơn) có 6 người con trai, "không được mụn con gái nào", cụ chép miệng.

Chồng mất sớm, một mình cụ nuôi các con bằng mấy sào ruộng và những ngày còng lưng làm nồi. "Nhà họ đông người, làm được nhiều, đi bán khắp nơi. Còn tôi sức lực có hạn, làm được ít thì đến phiên mang ra chợ Trù ngồi bán, chờ thương lái đến nhập. Sau này, con trai lớn, có con dâu mới thêm người phụ giúp", cụ Hoản nhớ lại thuở còn cơ cực.

Ở làng nồi đất Trù Sơn, đàn ông, trai tráng chỉ đóng vai trò phụ việc. Nói là phụ nhưng toàn việc nặng. Đó là đi đào đất, kéo đất sét từ mạn Nghi Văn (huyện Nghi Lộc) hoặc Sơn Thành (huyện Yên Thành) cách làng 8 – 10km.

Thuở trước, chưa có xe cộ, vai những người đàn ông làng nồi hằn vết chai sần của dây thừng kéo đất. Họ cũng là người dùng đôi tay, bàn chân nhào, giẫm đất cho nhuyễn, loại bỏ từng viên sạn nhỏ.

Là người đi gom lá, cành cây khô về làm củi đốt và cẩn thận xếp hàng trăm chiếc nồi để nung chín trong suốt nửa ngày. Và khi thành phẩm, họ sẽ xếp đủ loại nồi to nhỏ lên xe thồ, cơm đùm cơm nắm, rong ruổi đi bán khắp nơi vào Hà Tĩnh, Quảng Bình hay ra tận Thanh Hóa, Hà Nam.

"Mỗi chuyến đi kéo dài 1 – 2 tuần, bán cho đến khi hết nồi hoặc nếu còn ít thì gửi lại cho các nhà buôn rồi quay về làng, tiếp tục chuẩn bị cho mẻ mới. Tôi cũng từng thồ nồi đất đi bán, nhưng chỉ xuống đến thành phố Vinh rồi quay về vì nhà không có người làm", ông Nguyễn Đình Thảo (xóm 10, xã Trù Sơn) kể lại.

Làng nồi đất Trù Sơn nay còn thành điểm du lịch trải nghiệm cho học sinh.

Thăng trầm làng nghề truyền thống

Bà Nguyễn Thị Hảo (SN 1950, xóm Lưu Mỹ) vẫn không quên những ngày vất vả nhưng cũng hưng thịnh nhất của làng nồi đất Trù Sơn khoảng 20 năm về trước. Khắp xã nhà nào cũng làm nghề. Đầu làng đến cuối làng, những chiếc lò nung luân phiên nổi lửa.

Khói Khói rơm rạ, lá thông, cành cây khô của nhiều năm tháng, nhiều đời người đất phủ lên thâm trầm mái ngói làng nồi, hằn lên nước da đen sạm và lưng áo bạc phếch chẳng biết bởi mồ hôi hay màu đất.

Xã Trù Sơn có khoảng 60 hộ làm nghề gốm, tập trung chủ yếu ở các xóm 10, 11, 12, 13, trước gọi là làng Lưu Mỹ và Thượng Giáp. Mỗi tháng, làng nghề làm ra hàng chục nghìn sản phẩm, cao điểm nhất là vào 3 tháng cuối năm.

Hiện chính quyền địa phương cũng khuyến khích các hộ dân duy trì, phát triển làng nghề nồi đất như một ngành kinh tế đặc biệt. Trong đó, tổ chức các cuộc giao lưu, giới thiệu sản phẩm với địa phương khác, hướng đến hoạt động du lịch trải nghiệm - Chủ tịch UBND xã Trù Sơn Nguyễn Thụy Chính. rơm rạ, lá thông, cành cây khô của nhiều năm tháng, nhiều đời người đất phủ lên thâm trầm mái ngói làng nồi, hằn lên nước da đen sạm và lưng áo bạc phếch chẳng biết bởi mồ hôi hay màu đất.
Xã Trù Sơn có khoảng 60 hộ làm nghề gốm, tập trung chủ yếu ở các xóm 10, 11, 12, 13, trước gọi là làng Lưu Mỹ và Thượng Giáp. Mỗi tháng, làng nghề làm ra hàng chục nghìn sản phẩm, cao điểm nhất là vào 3 tháng cuối năm.

Hiện chính quyền địa phương cũng khuyến khích các hộ dân duy trì, phát triển làng nghề nồi đất như một ngành kinh tế đặc biệt. Trong đó, tổ chức các cuộc giao lưu, giới thiệu sản phẩm với địa phương khác, hướng đến hoạt động du lịch trải nghiệm - Chủ tịch UBND xã Trù Sơn Nguyễn Thụy Chính.

Năm tháng qua đi, thời thế thay đổi, lớp trẻ được học hành, rời quê đi khắp Nam ngoài Bắc. Nghề nồi đất chỉ còn dành cho người từ tuổi trung niên. Nhiều nhà lò nung tắt lửa, nguội khói bỏ không. Gia đình bà Nguyễn Thị Hảo cũng không làm nồi đất từ mấy năm trước.

"Ông nhà sức yếu, con cái đi làm ăn xa, một mình tôi không làm được. Nhưng nhớ nghề, rảnh rỗi, tôi lại đi nặn nồi thuê cho các gia đình khác trong làng. Xưa còn trẻ thì ngày làm được 15 cái nồi, nay già rồi chỉ được hơn chục cái thôi", bà Hảo nói.

Đôi tay của bà Hảo đầy vết chai sần của hơn 50 năm nhẫn nại theo nghề, thuần thục nắm đất thành hình con chạch rồi xoay nặn, tì miết tạo hình.

Dụng cụ làm nghề của người thợ chỉ có một bàn xoay, vài miếng giẻ nhỏ và khoanh nứa mỏng để cắt gọt. Loáng cái, chiếc nồi đất hiện ra, chục cái tròn đều như một dù hoàn toàn thủ công. Bà cẩn thận đặt qua một bên, chờ hong khô, gọt trơn nhẵn rồi mới đem phơi, khi nồi chuyển sang màu trắng bạc mới có thể cho vào lò.

Nồi đất làng Trù Sơn không cầu kỳ nhiều hình dáng, chỉ đơn giản gồm: Nồi nấu cơm, đồ xôi, ngâm giá đỗ, kho cá, sắc thuốc… với kích cỡ to nhỏ khác nhau. Nay có thêm chậu hoa, ống đựng tiền tiết kiệm nhưng số lượng ít.

Cũng vì làm thủ công, không pha trộn nguyên liệu nên nồi đất làng Trù Sơn vẫn mộc mạc với màu vàng đỏ, mỏng nhẹ, độ bền cao, giữ nguyên hương vị thức ăn khi nấu. Có lẽ, tính thông dụng đã làm nên sức sống bền bỉ của nồi đất xứ Nghệ.

Theo người dân Trù Sơn, hiện nay, nhu cầu dùng nồi đất vẫn cao, đặc biệt là các nhà hàng, khách sạn thường chủ động liên hệ đặt mua với số lượng lớn. Giá bán từ 8 – 15 nghìn đồng/nồi tùy kích cỡ to nhỏ.

Giữa ngày mùa bận rộn, chị Nguyễn Thị Tâm (làng Thượng Giáp) vẫn tranh thủ làm những chiếc nồi với đường kính khoảng 20cm theo đơn đặt hàng. Ngoài 40 tuổi, nhưng chị được xem là thợ trẻ của làng nồi Trù Sơn.

Nhờ có chồng hỗ trợ nên cứ khoảng 10 ngày gia đình chị lại đốt lò nung một mẻ. Thỉnh thoảng, cậu con trai đang học đại học ở TP Vinh về phụ giúp mẹ nhào đất. Còn 2 cô con gái không theo nghề mẹ nữa.

Quá trình nồi đất bây giờ đã đỡ vất vả hơn ở khâu lấy nguyên vật liệu, chất đốt, bà con có thể mua và thuê người chở về tận nhà. Nhưng những công đoạn cơ bản vẫn không thể rút gọn hoặc công nghiệp hóa được, từ nhào đất, nặn nồi, phơi, nung chín… Vì vậy, dù sản phẩm không thiếu đầu ra, nhưng lớp trẻ ít ai chọn ở lại với nghề truyền thống, mà tìm công việc khác nhẹ nhàng hơn.

"Chỉ có những người làm nông như chúng tôi, không có nghề phụ nào khác thì tiếp tục làm nồi đất kiếm thêm thu nhập. Hơn nữa, gắn bó từ thuở cha sinh mẹ đẻ, để lò bếp nguội cũng day dứt", chị Nguyễn Thị Tâm chia sẻ.

Qua thăng trầm, người dân Trù Sơn vẫn gắn bó và giữ nghề truyền thống. Cái nghề thủ công nhọc nhằn không thể sản xuất bởi một người, mà là công sức của cả gia đình, làng xã tương hỗ. Chính vì vậy, mà trăm năm trước hay về sau này, nơi đây không có nghệ nhân được nhắc đến riêng biệt, mà tất cả nằm chung trong tên gọi đơn giản - làng nồi đất Trù Sơn.

Theo GiaoDucThoiDai​

Tin liên quan

Tin mới hơn

Làn gió mới cho vùng chè Thái Nguyên

Làn gió mới cho vùng chè Thái Nguyên

LNV - Với định hướng và mong muốn phát triển dài hạn tại Việt Nam, thương hiệu trà sữa CHAGEE xem việc đồng hành giúp bà con nông dân xây dựng mô hình vùng nguyên liệu thí điểm là hành động cần thiết để góp phần thúc đẩy nông nghiệp bền vững, minh bạch và gắn kết với cộng đồng địa phương.
Chuẩn bị cho Festival Quốc tế 2025: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Chuẩn bị cho Festival Quốc tế 2025: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Sáng 3/7, UBND thành phố Hà Nội tổ chức Hội nghị về việc tổ chức Festival Bảo tồn và Phát triển làng nghề quốc tế năm 2025. Đồng chí Nguyễn Mạnh Quyền, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và đồng chí Võ Văn Hưng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì hội nghị.
"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

LNV - Nếu phải xác định một điểm khởi đầu cho hành trình chuyển đổi số tại huyện Phú Xuyên, thì đó không phải là hạ tầng, công nghệ hay những con số đầu tư hàng chục tỷ đồng, mà chính là yếu tố con người - những người dám nghĩ, dám làm, dám tiên phong.
Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ

Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ

LNV - Giữa dòng chảy hiện đại hóa, những nghề truyền thống như dệt thổ cẩm và đan lát của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi) vẫn được gìn giữ bền bỉ qua nhiều thế hệ. Không chỉ mang giá trị thẩm mỹ cao, các sản phẩm thủ công còn là biểu tượng văn hóa độc đáo, gắn liền với đời sống núi rừng và tâm hồn người Hrê. Nhờ đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân, những nghề xưa không chỉ sống lại mà còn trở thành điểm nhấn trong phát triển du lịch cộng đồng địa phương.
Mùa sen ở hồ Tây

Mùa sen ở hồ Tây

LNV - Vào dịp tháng 6 này, trên khắp các ao, đầm trồng sen ở khu vực hồ Tây (quận Tây Hồ) rộn ràng không khí thu hoạch, chụp ảnh với hoa. Sen trồng ở đây là sen bách diệp với bông to có 100 cánh, mùi thơm đượm mang một nét đặc trưng riêng của hồ Tây mà không nơi nào có được.
Nghề Đúc Đồng Đại Bái: Tinh Hoa Văn Hóa Bắc Ninh

Nghề Đúc Đồng Đại Bái: Tinh Hoa Văn Hóa Bắc Ninh

LNV - Bắc Ninh là một tỉnh nổi tiếng với nhiều làng nghề truyền thống, trong đó phải kể đến làng nghề đúc đồng Đại Bái, trước đây gọi là làng Văn Lãng (hay còn gọi là làng Bưởi Nồi), thuộc xã Đại Bái, huyện Gia Bình. Từ lâu, làng đã nổi danh với nghề đúc đồng, chuyên sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo.

Tin khác

Đưa sản phẩm làng nghề lên sách, tăng cơ hội xuất khẩu

Đưa sản phẩm làng nghề lên sách, tăng cơ hội xuất khẩu

LNV - Việc đưa các sản phẩm làng nghề lồng ghép trong các cuốn sách là cách thức hiệu quả để quảng bá thương hiệu, tăng cơ hội xuất khẩu.
Bảo tồn văn hóa làng nghề qua sản phẩm OCOP của Hà Nội

Bảo tồn văn hóa làng nghề qua sản phẩm OCOP của Hà Nội

LNV - Hà Nội là mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc, nơi lưu giữ hơn 1.350 làng nghề và làng có nghề truyền thống. Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, việc bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề đang đứng trước nhiều thách thức. Chương trình 'Mỗi xã một sản phẩm' (OCOP) được xác định là một trong những giải pháp chiến lược giúp Hà Nội bảo tồn văn hóa làng nghề một cách hiệu quả và bền vững.
Gia Lâm: Địa danh “Dương Xá” được bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm nông sản chế biến

Gia Lâm: Địa danh “Dương Xá” được bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm nông sản chế biến

LNV - Theo UBND huyện Gia Lâm, UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành Quyết định số 2738/QĐ-UBND, cho phép Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp xã Dương Xá sử dụng địa danh “Dương Xá” để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể “Nông sản chế biến Dương Xá”.
Gìn giữ tinh hoa làng nghề xứ Quảng

Gìn giữ tinh hoa làng nghề xứ Quảng

LNV - Trong số sáu cá nhân vừa được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân” vì những cống hiến đặc biệt trong gìn giữ và phát huy di sản nghề thủ công mỹ nghệ, tỉnh Quảng Nam vinh dự có hai đại diện: Ông Lê Đức Hạ (nghệ nhân gốm ở TX Điện Bàn) và ông Huỳnh Sướng (nghệ nhân mộc tại TP Hội An).
Chuyện của “Vua gỗ lũa Trai Vàng”

Chuyện của “Vua gỗ lũa Trai Vàng”

LNV - ’’Nơi tôi sinh: Làng Phùng Xá- Huyện Thạch Thất gần Chùa Thầy- một làng quê nghèo nhưng dân quê tôi thật thà lắm… “ Một câu nói cũng rất thật thà chân chất đến từ người đàn ông có ánh mắt kiên định, khuôn mặt sáng có chút lãng tử như một hoạ sĩ. Đó là anh Chu Văn Ân, nghệ nhân gỗ lũa Trai Vàng.
Nghệ nhân sinh vật cảnh năng động, sáng tạo

Nghệ nhân sinh vật cảnh năng động, sáng tạo

LNV - Nói đến "Bắc lan" hay "Bắc hồ câu", "Bất động sản Phương Bắc" ở Suối Hai thì người dân huyện Ba Vì (Hà Nội) và các địa phương lân cận ai cũng biết đó là tên thường gọi của doanh nhân Lê Đức Bắc. Anh Bắc không những thành đạt trong lĩnh vực vận tải, xây dựng, kinh doanh bất động sản mà còn là một nghệ nhân sinh vật cảnh và làm vườn (SVC & LV).
Làng nghề xứ Thanh – Nơi kết tinh tinh hoa văn hóa cha ông

Làng nghề xứ Thanh – Nơi kết tinh tinh hoa văn hóa cha ông

LNV - Xứ Thanh nổi tiếng là vùng đất của những làng nghề truyền thống lâu đời, nơi lưu giữ trọn vẹn giá trị văn hóa, tinh thần và bàn tay tài hoa của bao thế hệ. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, mỗi làng nghề không chỉ là kế sinh nhai của người dân mà còn là “bảo tàng sống” của tinh hoa văn hóa đất Việt, ngày càng được phát huy mạnh mẽ trong đời sống hiện đại.
Giữ lửa nghề bánh tráng Thuận Hưng

Giữ lửa nghề bánh tráng Thuận Hưng

LNV - Nằm ven dòng sông Hậu hiền hòa, làng nghề bánh tráng Thuận Hưng (xã Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ) là một trong những làng nghề truyền thống lâu đời, nổi tiếng miền Tây Nam Bộ. Ngày nay, những người dân nơi đây vẫn miệt mài đỏ lửa, tráng bánh nhằm gìn giữ và phát triển làng nghề địa phương.
Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

LNV - Với đường bờ biển dài, điều kiện tự nhiên thuận lợi và nguồn lợi thủy sản phong phú, Việt Nam sở hữu lợi thế lớn về nghề nuôi biển. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm tháo gỡ những nút thắt, phát huy tối đa tiềm năng, hướng tới mục tiêu phát triển nghề nuôi biển hiện đại, bền vững.
Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá

Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá

LNV - Lên Cao nguyên đá, nhiều du khách sẽ tìm đến với Làng nghề dệt vải lanh Lùng Tám, xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ. Nơi đây nổi tiếng với việc gìn giữ, phát huy hiệu quả nghề truyền thống của Hợp tác xã lanh Lùng Tám, với 100% thành viên là phụ nữ người Mông. Sự cần cù, sáng tạo từ những sợi lanh đã cho ra đời nhiều sản phẩm thủ công rất đẹp, mang đậm bản sắc truyền thống. Chính điều này đã giúp cho Làng nghề dệt vải lanh Lùng Tám trở thành một điểm du lịch trải nghiệm cực kỳ hấp dẫn và thu hút rất đông du khách.
Nghệ nhân “hồi sinh” các con giống bột cổ

Nghệ nhân “hồi sinh” các con giống bột cổ

LNV - Từ năm 2012 đến nay, nghệ nhân Đặng Văn Hậu (làng Xuân La, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội) đã lần lượt tái hiện lại hàng loạt con giống độc đáo: Lục súc tranh công, Tứ linh, Tam sư, Nghê hý châu, Ngũ hổ thần quan… Đặc biệt, các họa tiết truyền thống vân mây từ tranh Hàng Trống được đưa vào con giống bột, tạo nên sự giao thoa giữa mỹ thuật dân gian và hơi thở hiện đại.
Phú Yên công nhận 11 nghề truyền thống năm 2025

Phú Yên công nhận 11 nghề truyền thống năm 2025

LNV - UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành Quyết định công nhận 11 nghề truyền thống năm 2025 cho các địa phương trên địa bàn tỉnh.
Người âm thầm dùng cây kim, sợi chỉ lưu giữ hồn cốt văn hóa Việt

Người âm thầm dùng cây kim, sợi chỉ lưu giữ hồn cốt văn hóa Việt

LNV - Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến việc sử dụng máy móc thay cho lao động chân tay, máy thêu ra đời và công nghệ thêu cũng phát triển theo đó. Mặt khác, trước sự tác động của kinh tế thị trường trong những năm gần đây, nhiều nghề thủ công có nguy cơ mai một, trong đó có nghề tranh thêu tay truyền thống.
Văn hoá Bắc Bộ qua các làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Hà Nội

Văn hoá Bắc Bộ qua các làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Hà Nội

LNV - Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, biến cố, các làng nghề ở Hà Nội vẫn giữ được nét đẹp riêng, góp phần làm nên vẻ đẹp của mảnh đất ngàn năm văn hiến. Những làng nghề truyền thống ấy nổi tiếng là điểm đến thú vị cho bạn trong những chuyến đi cuối tuần khám phá Thủ đô.
Chủ tịch nước Lương Cường gặp mặt nghệ nhân làng nghề tiêu biểu toàn quốc

Chủ tịch nước Lương Cường gặp mặt nghệ nhân làng nghề tiêu biểu toàn quốc

LNV - Nhân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, chiều 10/6, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Lương Cường gặp mặt các nghệ nhân làng nghề tiêu biểu toàn quốc và lãnh đạo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam

Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam

LNV - Trong tiến trình lịch sử dân tộc, các tôn giáo không chỉ đóng vai trò tín ngưỡng mà còn là những trụ cột tinh thần, tham gia vào việc ổn định xã hội, điều tiết đời sống văn hóa và phản ánh tâm thế con người trước các biến động lịch sử. Cuốn sách “Qu
Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam

Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam

LNV - Trong hệ thống thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt, những công trình như đình, chùa, đền, miếu đã được nghiên cứu sâu rộng và trở thành biểu tượng quen thuộc trong tâm thức cộng đồng. Tuy nhiên, các quán Đạo giáo, nơi thờ phụng các vị thần
Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị

Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị

LNV - Khi các thiết chế tôn giáo quen thuộc như đình, chùa, đền, miếu đã khẳng định vị thế vững chắc trong nhận thức cộng đồng và chính sách bảo tồn di sản, thì quán Đạo giáo là một loại hình di tích gắn liền với sự du nhập và bản địa hóa của Đạo giáo ở V
Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước

Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước

LNV - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn kiện pháp lý có giá trị cao nhất, phản ánh ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đồng thời là nền tảng chính trị, pháp lý cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP

Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP

OVN - Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến tháng 6-2025, cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm) đạt 3 sao trở lên, tăng 12.056 sản phẩm so với năm 2020. Trong đó, có 73,2% sản phẩm 3 sao, 26,4% sản phẩm 4 sao, 79 sản
Giao diện di động