Hà Nội: 23°C Hà Nội
Đà Nẵng: 25°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 25°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 26°C Thừa Thiên Huế

Nồi đất Trù Sơn trăm năm mộc mạc

LNV - Không tinh xảo, cầu kỳ, rực rỡ như gốm sứ Bát Tràng hay Phù Lãng, làng nồi đất Trù Sơn (Đô Lương, Nghệ An) mộc mạc như chính tên gọi.


Người dân Trù Sơn đến nay vẫn giữ nghề làm nồi đất và chỉ truyền cho phụ nữ.


Qua trăm năm, dụng cụ làm nghề trong tay người thợ vẫn chỉ một bàn xoay, vài miếng giẻ nhỏ, khoanh nứa mỏng.

Những trưa cháy lửa nung nồi

Quá trưa, trời xứ Nghệ nóng như thiêu, gia đình bà Nguyễn Thị Anh (xóm Trù Sơn, Đô Lương) đội nắng lần lượt xếp những chiếc nồi đất "sống" lên lò nung. Xung quanh đã chuẩn bị sẵn rơm rạ, những cành khô thuộc loại có dầu như thông, vọt, dành dành… và nổi lửa.

Đây là công đoạn quan trọng nhất của quá trình làm nồi đất của làng nghề Trù Sơn. Tất cả người trong nhà được huy động để giữ cho lửa cháy liên tục.

Nhào nặn bằng mồ hôi, nung qua lửa cháy, đất nhọc nhằn nuôi người cơ cực. Giờ đây, những hàn vi đã thành quá vãng, người Trù Sơn vẫn đau đáu giữ tên làng nồi. Để trân quý di sản cha ông và không khỏi tự hào về duy nhất làng nghề nồi đất của xứ Nghệ đã bền bỉ qua thăng trầm.

Mồ hôi ướt đẫm, những gương mặt đỏ bừng và loang lổ vết nhọ, dù đã mặc quần áo dài và đeo khẩu trang che bớt sức nóng đốt bỏng da thịt.

"Nung nồi mất khoảng 4 - 5 tiếng đồng hồ, vì vậy chúng tôi thường bắt đầu vào buổi trưa, đến chiều tối là vừa xong. Nhưng không phải cứ cho chất đốt vào cứ thế nung, mà phải qua nhiều lần trở nồi, nên vô cùng vất vả và cực nhọc", bà Anh nói.

Đầu tiên, những chiếc nồi được xếp ngửa, cái nhỏ nằm trong cái to thành từng chồng, rồi đốt từ dưới lên để khói bao trùm toàn bộ lò nung. Sau khoảng 30 – 40 phút thì dừng lại, hạ nồi, đảo trên xuống dưới và nung tiếp cho đều.

Giai đoạn "hơ nồi" trên lâu công nhất, cho đến khi khói ám đen cả trong lẫn ngoài toàn bộ số nồi thì tắt lửa. Lúc này, những người thợ lấy rơm ướt quấn xung quanh làm lớp vỏ lò, dùng thanh sắt và tận dụng những chiếc nồi hỏng làm vật chèn cố định lại, bắt đầu đốt đợt hai. Cứ cháy hết lớp vỏ này lại bồi thêm lớp khác, bao giờ rơm tàn mà ngọn lửa vẫn bốc lên từ miệng nồi nghĩa là đã chín.

Mỗi lần nung như vậy gồm khoảng từ 250 - 300 chiếc nồi. Nhìn mẻ sản phẩm mới ra lò đã được xếp đặt cẩn thận ở góc nhà, bà Nguyễn Thị Anh hài lòng: "Hầu như không có cái nào nứt vỡ, ngày mai có thể gọi người đến nhập".

Rồi bà nói thêm, nghề này cực, các cụ ngày xưa từng bảo đây là nghề "bán xương nuôi thịt". Làng Trù Sơn chiếm ba phần đồi núi, đất đai cằn cỗi. Mỗi nhà chỉ được vài sào ruộng mà còn phải nhờ trời mưa thuận gió hòa mới có gạo ăn. Không làm thêm nghề phụ thì lấy gì để sống, nuôi con cái lúc nông nhàn, giáp hạt. Thế nên đời ông bà đến con cháu kế tục giữ nghề làm kế sinh nhai đến tận bây giờ.


Công đoạn nung nồi chín vô cùng vất vả, kéo dài từ 4 – 5 tiếng.


Nghề chỉ truyền cho phụ nữ

Chẳng ai nhớ làng nồi Trù Sơn chính xác có từ lúc nào, kể cả những người già cũng chỉ biết từ khi sinh ra, đã thấy ông bà, cha mẹ mình cần mẫn bên gánh đất sét.

Tương truyền, xưa kia nghề nồi đất vốn ở vùng Nghi Lộc (Nghệ An) nhưng chỉ truyền cho con dâu. Về sau, có cô con gái nhà nọ lấy chồng về làng Trù Sơn (Đô Lương), vất vả thiếu thốn nên được mẹ đẻ phá lệ, bí mật truyền nghề. Nhờ vậy bà con nơi đây cũng được học theo.

Lại có truyền thuyết cho rằng, chính công chúa con vua Trần đã dạy cho người dân Trù Sơn làm nồi đất để cuộc sống bớt cơ cực. Nhưng với xuất xứ nào, qua hàng trăm năm, đây là làng nồi duy nhất còn lại của xứ Nghệ.

Một điều thú vị là cho đến giờ, nghề nồi đất Trù Sơn vẫn chỉ truyền cho con gái. Lý do đơn giản vì phụ nữ khéo léo, cẩn thận, nhẹ nhàng hơn. Làm nồi đất, muốn nhanh cũng không được, phải từ từ, nhẫn nại, dùng lực không quá nhẹ cũng không quá mạnh, như vậy nồi mới tròn và có độ dày đều. Bà Nguyễn Thị Anh lại không học nghề từ mẹ mình.

"Mẹ là con gái làng khác, theo bố tôi về Trù Sơn nên không biết làm nồi đất. Tôi lớn lên tầm 8, 9 tuổi bắt đầu đi khắp làng bắt chước các bà, các o. Người dạy nghề chính cho tôi là cụ cố Hường – có tiếng nhất làng ngày xưa. Cụ cho tôi ngồi bên đống đất đã được nhào nhuyễn, bảo "cứ nặn cho quen tay, ra hình gì cũng được, rồi bà sửa cho", bà Anh kể.

Cứ đều đặn như vậy đến năm 14 – 15 tuổi, thì Nguyễn Thị Anh đã tự mình làm được trọn vẹn một cái nồi đất đạt chuẩn. Giờ cụ Hường đã về với tiên tổ, nhưng học trò của cụ cũng đã thành tay thợ lão luyện trong nghề.

Cũng vì phụ nữ là thợ chính, nên nhà nào sinh nhiều con trai lại rơi vào cảnh vất vả, thiếu người. Cụ Nguyễn Thị Hoản (87 tuổi, làng Thượng Giáp, xã Trù Sơn) có 6 người con trai, "không được mụn con gái nào", cụ chép miệng.

Chồng mất sớm, một mình cụ nuôi các con bằng mấy sào ruộng và những ngày còng lưng làm nồi. "Nhà họ đông người, làm được nhiều, đi bán khắp nơi. Còn tôi sức lực có hạn, làm được ít thì đến phiên mang ra chợ Trù ngồi bán, chờ thương lái đến nhập. Sau này, con trai lớn, có con dâu mới thêm người phụ giúp", cụ Hoản nhớ lại thuở còn cơ cực.

Ở làng nồi đất Trù Sơn, đàn ông, trai tráng chỉ đóng vai trò phụ việc. Nói là phụ nhưng toàn việc nặng. Đó là đi đào đất, kéo đất sét từ mạn Nghi Văn (huyện Nghi Lộc) hoặc Sơn Thành (huyện Yên Thành) cách làng 8 – 10km.

Thuở trước, chưa có xe cộ, vai những người đàn ông làng nồi hằn vết chai sần của dây thừng kéo đất. Họ cũng là người dùng đôi tay, bàn chân nhào, giẫm đất cho nhuyễn, loại bỏ từng viên sạn nhỏ.

Là người đi gom lá, cành cây khô về làm củi đốt và cẩn thận xếp hàng trăm chiếc nồi để nung chín trong suốt nửa ngày. Và khi thành phẩm, họ sẽ xếp đủ loại nồi to nhỏ lên xe thồ, cơm đùm cơm nắm, rong ruổi đi bán khắp nơi vào Hà Tĩnh, Quảng Bình hay ra tận Thanh Hóa, Hà Nam.

"Mỗi chuyến đi kéo dài 1 – 2 tuần, bán cho đến khi hết nồi hoặc nếu còn ít thì gửi lại cho các nhà buôn rồi quay về làng, tiếp tục chuẩn bị cho mẻ mới. Tôi cũng từng thồ nồi đất đi bán, nhưng chỉ xuống đến thành phố Vinh rồi quay về vì nhà không có người làm", ông Nguyễn Đình Thảo (xóm 10, xã Trù Sơn) kể lại.

Làng nồi đất Trù Sơn nay còn thành điểm du lịch trải nghiệm cho học sinh.

Thăng trầm làng nghề truyền thống

Bà Nguyễn Thị Hảo (SN 1950, xóm Lưu Mỹ) vẫn không quên những ngày vất vả nhưng cũng hưng thịnh nhất của làng nồi đất Trù Sơn khoảng 20 năm về trước. Khắp xã nhà nào cũng làm nghề. Đầu làng đến cuối làng, những chiếc lò nung luân phiên nổi lửa.

Khói Khói rơm rạ, lá thông, cành cây khô của nhiều năm tháng, nhiều đời người đất phủ lên thâm trầm mái ngói làng nồi, hằn lên nước da đen sạm và lưng áo bạc phếch chẳng biết bởi mồ hôi hay màu đất.

Xã Trù Sơn có khoảng 60 hộ làm nghề gốm, tập trung chủ yếu ở các xóm 10, 11, 12, 13, trước gọi là làng Lưu Mỹ và Thượng Giáp. Mỗi tháng, làng nghề làm ra hàng chục nghìn sản phẩm, cao điểm nhất là vào 3 tháng cuối năm.

Hiện chính quyền địa phương cũng khuyến khích các hộ dân duy trì, phát triển làng nghề nồi đất như một ngành kinh tế đặc biệt. Trong đó, tổ chức các cuộc giao lưu, giới thiệu sản phẩm với địa phương khác, hướng đến hoạt động du lịch trải nghiệm - Chủ tịch UBND xã Trù Sơn Nguyễn Thụy Chính. rơm rạ, lá thông, cành cây khô của nhiều năm tháng, nhiều đời người đất phủ lên thâm trầm mái ngói làng nồi, hằn lên nước da đen sạm và lưng áo bạc phếch chẳng biết bởi mồ hôi hay màu đất.
Xã Trù Sơn có khoảng 60 hộ làm nghề gốm, tập trung chủ yếu ở các xóm 10, 11, 12, 13, trước gọi là làng Lưu Mỹ và Thượng Giáp. Mỗi tháng, làng nghề làm ra hàng chục nghìn sản phẩm, cao điểm nhất là vào 3 tháng cuối năm.

Hiện chính quyền địa phương cũng khuyến khích các hộ dân duy trì, phát triển làng nghề nồi đất như một ngành kinh tế đặc biệt. Trong đó, tổ chức các cuộc giao lưu, giới thiệu sản phẩm với địa phương khác, hướng đến hoạt động du lịch trải nghiệm - Chủ tịch UBND xã Trù Sơn Nguyễn Thụy Chính.

Năm tháng qua đi, thời thế thay đổi, lớp trẻ được học hành, rời quê đi khắp Nam ngoài Bắc. Nghề nồi đất chỉ còn dành cho người từ tuổi trung niên. Nhiều nhà lò nung tắt lửa, nguội khói bỏ không. Gia đình bà Nguyễn Thị Hảo cũng không làm nồi đất từ mấy năm trước.

"Ông nhà sức yếu, con cái đi làm ăn xa, một mình tôi không làm được. Nhưng nhớ nghề, rảnh rỗi, tôi lại đi nặn nồi thuê cho các gia đình khác trong làng. Xưa còn trẻ thì ngày làm được 15 cái nồi, nay già rồi chỉ được hơn chục cái thôi", bà Hảo nói.

Đôi tay của bà Hảo đầy vết chai sần của hơn 50 năm nhẫn nại theo nghề, thuần thục nắm đất thành hình con chạch rồi xoay nặn, tì miết tạo hình.

Dụng cụ làm nghề của người thợ chỉ có một bàn xoay, vài miếng giẻ nhỏ và khoanh nứa mỏng để cắt gọt. Loáng cái, chiếc nồi đất hiện ra, chục cái tròn đều như một dù hoàn toàn thủ công. Bà cẩn thận đặt qua một bên, chờ hong khô, gọt trơn nhẵn rồi mới đem phơi, khi nồi chuyển sang màu trắng bạc mới có thể cho vào lò.

Nồi đất làng Trù Sơn không cầu kỳ nhiều hình dáng, chỉ đơn giản gồm: Nồi nấu cơm, đồ xôi, ngâm giá đỗ, kho cá, sắc thuốc… với kích cỡ to nhỏ khác nhau. Nay có thêm chậu hoa, ống đựng tiền tiết kiệm nhưng số lượng ít.

Cũng vì làm thủ công, không pha trộn nguyên liệu nên nồi đất làng Trù Sơn vẫn mộc mạc với màu vàng đỏ, mỏng nhẹ, độ bền cao, giữ nguyên hương vị thức ăn khi nấu. Có lẽ, tính thông dụng đã làm nên sức sống bền bỉ của nồi đất xứ Nghệ.

Theo người dân Trù Sơn, hiện nay, nhu cầu dùng nồi đất vẫn cao, đặc biệt là các nhà hàng, khách sạn thường chủ động liên hệ đặt mua với số lượng lớn. Giá bán từ 8 – 15 nghìn đồng/nồi tùy kích cỡ to nhỏ.

Giữa ngày mùa bận rộn, chị Nguyễn Thị Tâm (làng Thượng Giáp) vẫn tranh thủ làm những chiếc nồi với đường kính khoảng 20cm theo đơn đặt hàng. Ngoài 40 tuổi, nhưng chị được xem là thợ trẻ của làng nồi Trù Sơn.

Nhờ có chồng hỗ trợ nên cứ khoảng 10 ngày gia đình chị lại đốt lò nung một mẻ. Thỉnh thoảng, cậu con trai đang học đại học ở TP Vinh về phụ giúp mẹ nhào đất. Còn 2 cô con gái không theo nghề mẹ nữa.

Quá trình nồi đất bây giờ đã đỡ vất vả hơn ở khâu lấy nguyên vật liệu, chất đốt, bà con có thể mua và thuê người chở về tận nhà. Nhưng những công đoạn cơ bản vẫn không thể rút gọn hoặc công nghiệp hóa được, từ nhào đất, nặn nồi, phơi, nung chín… Vì vậy, dù sản phẩm không thiếu đầu ra, nhưng lớp trẻ ít ai chọn ở lại với nghề truyền thống, mà tìm công việc khác nhẹ nhàng hơn.

"Chỉ có những người làm nông như chúng tôi, không có nghề phụ nào khác thì tiếp tục làm nồi đất kiếm thêm thu nhập. Hơn nữa, gắn bó từ thuở cha sinh mẹ đẻ, để lò bếp nguội cũng day dứt", chị Nguyễn Thị Tâm chia sẻ.

Qua thăng trầm, người dân Trù Sơn vẫn gắn bó và giữ nghề truyền thống. Cái nghề thủ công nhọc nhằn không thể sản xuất bởi một người, mà là công sức của cả gia đình, làng xã tương hỗ. Chính vì vậy, mà trăm năm trước hay về sau này, nơi đây không có nghệ nhân được nhắc đến riêng biệt, mà tất cả nằm chung trong tên gọi đơn giản - làng nồi đất Trù Sơn.

Theo GiaoDucThoiDai​

Tin liên quan

Tin mới hơn

Những làng dệt thổ cẩm ở Tây Bắc

Những làng dệt thổ cẩm ở Tây Bắc

LNV - Tây Bắc không chỉ cuốn hút du khách bởi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn bởi những nét văn hóa đặc sắc, trong đó nổi bật là nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào dân tộc Mông. Từ Lùng Tám (Hà Giang), Cát Cát (Sapa) đến Sin Suối Hồ (Lai Châu), mỗi bản làng đều lưu giữ và phát triển nghề dệt lanh, nhuộm chàm, thêu sáp ong – tạo nên những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa, được yêu thích bởi cả du khách trong và ngoài nước.
Theo dấu tằm tơ

Theo dấu tằm tơ

LNV - Lụa Việt gắn liền với thời kỳ Nam tiến mở mang bờ cõi của chúa Nguyễn. Thế kỷ 17, đô thị Hội An bên sông Thu Bồn, xưa là đất quận Nhật Nam, nổi tiếng bởi “đàn ông trồng dâu, đàn bà dệt lụa”.
Lan tỏa hương vị bánh gai xứ Dừa

Lan tỏa hương vị bánh gai xứ Dừa

LNV - Khởi nguồn là món ăn dân dã, theo dòng thời gian, bánh gai xứ Dừa, thuộc xã Tường Sơn, huyện Anh Sơn (Nghệ An) trở thành món ăn đặc sản, được đưa đến mọi miền đất nước. Nhờ đó, nghề làm bánh gai đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho nhiều hộ gia đình ở xứ Dừa.
Làng Nghề Truyền Thống Hồi Sinh Nhờ Thương Mại Điện Tử

Làng Nghề Truyền Thống Hồi Sinh Nhờ Thương Mại Điện Tử

LNV - Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, nhiều làng nghề truyền thống của Việt Nam đang tìm thấy cơ hội hồi sinh nhờ ứng dụng thương mại điện tử. Điển hình trong số đó là làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) và các làng nghề tại huyện Phú Xuyên.
Bình Định: Bảo tồn và phát triển Làng nghề dệt thổ cẩm xã Vĩnh Hiệp

Bình Định: Bảo tồn và phát triển Làng nghề dệt thổ cẩm xã Vĩnh Hiệp

LNV - Nghề dệt thổ cẩm làng Hà Ri, Thạnh Quang và Tà Lét ở xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định là nét văn hóa lâu đời của đồng bào Ba Na, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần người dân nơi đây.
Thái Bình: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Thái Bình: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Thái Bình từ lâu đã được biết đến là vùng đất của những làng nghề truyền thống, nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa qua nhiều thế hệ. Trong định hướng phát triển kinh tế nông thôn bền vững, tỉnh chú trọng khôi phục và phát triển các làng nghề. Đây không chỉ là giải pháp tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân mà còn là cách giữ gìn bản sắc quê hương.

Tin khác

Làng gốm Bàu Trúc – Bảo tồn và phát triển di sản gốm Chăm trong thời hiện đại

Làng gốm Bàu Trúc – Bảo tồn và phát triển di sản gốm Chăm trong thời hiện đại

LNV - Tại Ninh Thuận, cộng đồng làng gốm cổ Chăm Bàu Trúc (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước) đang “thổi một luồng gió mới” vào nghệ thuật làm gốm đã được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Người dân nơi đây không chỉ nỗ lực bảo tồn những tinh hoa nghề truyền thống mà còn sáng tạo các dòng sản phẩm gốm mới và đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng.
Bảo tồn và phát triển làng nghề Hà Nam trong xu thế mới

Bảo tồn và phát triển làng nghề Hà Nam trong xu thế mới

LNV - Các làng nghề ở Hà Nam đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ hạn chế, sức cạnh tranh chưa cao. Trước xu thế hội nhập và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các làng nghề cần linh hoạt đổi mới để phát triển bền vững.
Về thăm làng nghề bánh phồng Sơn Đốc hơn trăm năm tuổi

Về thăm làng nghề bánh phồng Sơn Đốc hơn trăm năm tuổi

LNV - Làng nghề bánh phồng Sơn Đốc (ấp Sơn Đốc, xã Hưng Nhượng, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre) có tuổi đời trên trăm năm tuổi, là đặc sản trứ danh của tỉnh Bến Tre. Người dân của làng nghề ngày càng đa dạng hóa sản phẩm để gìn giữ và phát triển nghề truyền thống này.
Phụ nữ Tây Hồ chung tay bảo tồn nghề truyền thống: Hành trình từ những búp sen

Phụ nữ Tây Hồ chung tay bảo tồn nghề truyền thống: Hành trình từ những búp sen

LNV - Với mong muốn bảo tồn nghề truyền thống và xây dựng mô hình kinh tế tập thể do phụ nữ làm chủ, Hợp tác xã Chè Sen Quảng An Hương Thủy đã ra đời. Đây không chỉ là bước đi nhằm gìn giữ giá trị văn hóa, mà còn mở ra cơ hội đưa sản phẩm chè sen Quảng An vươn xa trên thị trường quốc tế.
Làng nghề làm cờ Tổ quốc tất bật trước dịp kỉ niệm ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước

Làng nghề làm cờ Tổ quốc tất bật trước dịp kỉ niệm ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước

LNV - Cận kề dịp lễ 30/4, nhu cầu về cờ Tổ quốc tăng mạnh khiến các cơ sở sản xuất tại làng nghề Từ Vân (huyện Thường Tín - Hà Nội) phải hoạt động hết công suất.
“Mặc áo mới” cho sản phẩm làng nghề gỗ

“Mặc áo mới” cho sản phẩm làng nghề gỗ

LNV - Các làng nghề gỗ truyền thống có danh tiếng lâu đời dường như đang bị chính di sản tinh hoa làng nghề cha ông truyền lại giữ chân trong cuộc đua thích nghi với những biến đổi của thị trường. Do đó, cần "mặc áo mới" cho sản phẩm, phải chuyển đổi nguồn gỗ nguyên liệu từ các loại gỗ rừng quý hiếm, sang các loại gỗ rừng trồng…
Nghệ nhân Trần Văn Việt thổi hồn vào đá

Nghệ nhân Trần Văn Việt thổi hồn vào đá

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại, nhiều người trẻ chọn rời làng nghề, từ bỏ những công việc thủ công cần mẫn để mưu sinh nơi phố thị, khu công nghiệp… Nhưng anh Trần Văn Việt (ở xã Thọ An, huyện Đan Phượng, Hà Nội ) vẫn lặng lẽ bám nghề, “ôm đá” để sống. Với bàn tay khéo léo, sự sáng tạo và tâm huyết với nghề, anh là Trần Văn Việt đã trở thành nghệ nhân, được mệnh danh là “người thổi hồn vào đá quý” và hiện anh trở thành ông chủ của cơ sở điêu khắc chế tác đá mỹ nghệ Việt Trang, khởi nghiệp thành công ngay tại quê nhà.
10 làng nghề lâu đời nổi tiếng ở Bắc Giang

10 làng nghề lâu đời nổi tiếng ở Bắc Giang

LNV - Bắc Giang là tỉnh có nhiều làng nghề, là một trong những cái nôi của các làng nghề thủ công truyền thống ở nước ta. Các làng nghề ở Bắc Giang được hình thành từ xa xưa, xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân với những bí quyết cổ truyền đã được đúc kết qua nhiều thế hệ, sản xuất ra một số sản phẩm nổi tiếng trong khắp cả nước như: rượu làng Vân, bánh đa Thổ Hà, mây tre đan Tăng Tiến, bánh đa Kế, bún Đa Mai, mỳ Chũ Lục Ngạn, Hương ngát Linh Sơn…
Mang du lịch, ẩm thực, làng nghề Việt Nam đến châu Âu

Mang du lịch, ẩm thực, làng nghề Việt Nam đến châu Âu

LNV - Tuần Văn hóa - Du lịch và Chương trình giới thiệu du lịch, ẩm thực, làng nghề Việt Nam, kết nối doanh nghiệp nhân Năm Du lịch quốc gia - Huế 2025 tại thị trường châu Âu sẽ diễn ra từ ngày 3/5 đến 14/5.
5 làng nghề miền Tây có truyền thống lâu đời

5 làng nghề miền Tây có truyền thống lâu đời

LNV - Miền Tây được biết đến với nhiều địa danh nổi tiếng, những món ăn ngon độc đáo, bên cạnh đó Làng nghề thủ công là nét đẹp văn hóa không thể thiếu của người dân nơi đây.
Người đàn ông thổi hồn vào từng thớ gỗ

Người đàn ông thổi hồn vào từng thớ gỗ

LNV - Giữa lòng thành phố tấp nập, những dòng nhạc cụ dân tộc như đàn bầu, đàn kìm, đàn tranh,... vẫn tồn tại len lỏi và vang vọng như một phần nghệ thuật không thể thiếu của mảnh đất trải qua hơn 300 năm lịch sử. Đó là câu chuyện về xưởng chế tác đàn thủ công của ông Huỳnh Văn Sắn, một người thợ đã gắn bó với công việc “thổi hồn” vào từng thớ gỗ, dây đàn truyền thống suốt gần 20 năm.
Nghề làm dưa bồn bồn

Nghề làm dưa bồn bồn

LNV - Chế biến dưa bồn bồn là nghề truyền thống ở Cà Mau, nghề rất phổ biến tại xứ Mũi. Dưa bồn bồn được biết đến như một trong những món ăn dân dã nhưng lại là đặc sản thơm ngon khiến nhiều người yêu thích khi về miền Tây sông nước.
Những người giữ hồn đất nung tại Lò lu Đại Hưng

Những người giữ hồn đất nung tại Lò lu Đại Hưng

LNV - Hơn 160 năm tồn tại, lò lu Đại Hưng (tỉnh Bình Dương) không chỉ là nơi lưu giữ tinh hoa gốm Việt mà còn minh chứng cho bề dày lịch sử và giá trị văn hóa của một làng nghề truyền thống lâu đời. Dưới bàn tay tài hoa và tâm huyết của người thợ lành nghề, từng sản phẩm độc đáo chứa đựng hơi thở của thời gian đã được giới thiệu rộng rãi đến với người yêu gốm sứ.
Làng nghề thúng chai với

Làng nghề thúng chai với 'tuyệt chiêu' chống thấm

LNV - Làng nghề thúng chai Phú Mỹ xã An Dân, huyện Tuy An, (Phú Yên) vẫn còn giữ cách làm truyền thống từ vật liệu thô đến các công đoạn chế tạo. Nhiều khu du lịch, các công ty nước ngoài rất yêu thích mặt hàng này.
Lào Cai: Nghề làm nón lá cọ Bản Liền

Lào Cai: Nghề làm nón lá cọ Bản Liền

LNV - Nón lá cọ (tiếng Tày là chúp cọ) là vật dụng quen thuộc, nét văn hoá độc đáo của người Tày xã Bản Liền, huyện Bắc Hà (Lào Cai). Nón theo chân các bà, các mẹ, các chị em lên nương hái chè, trong những buổi lao động sản xuất. Nón không chỉ là một vật che mưa, che nắng mà đã trở thành nét văn hóa truyền thống của người Tày.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Ba Vì (Hà Nội): Chi hội cựu Công an xã Phú Đông góp phần xây dựng nông thôn mới

Ba Vì (Hà Nội): Chi hội cựu Công an xã Phú Đông góp phần xây dựng nông thôn mới

LNV - Thực hiện chỉ đạo của Hội Cựu CAND thành phố Hà Nội và Hội Cựu CAND huyện Ba Vì, tháng 03/2024 Chi hội cựu CAND xã Phú Đông chính thức được thành lập và đi vào hoạt động. Chi Hội gồm có 14 hội viên là các cán bộ, chiến sĩ CAND và CBCS lực lượng CA bán chuyên trách đã nghỉ hưu tại địa phương.
Diễu hành xe đạp làng nghề

Diễu hành xe đạp làng nghề

LNV - Nằm trong chuỗi chương trình "Di sản dành cho cuộc sống", sáng 3/5, tại Không gian làng nghề truyền thống, Bến xe Đồng Gừng, Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, xã Ninh Hải (thành phố Hoa Lư), gần 100 đại biểu và lực lượng đoàn viên, thanh niên đã tham gia chương trình Diễu hành xe đạp làng nghề.
Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

Hà Nội: Thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề vốn gần 370 tỷ đồng

LNV - Thành phố Hà Nội quyết định thành lập 2 cụm công nghiệp làng nghề, vốn gần 370 tại huyện Thạch Thất và huyện Phú Xuyên...
Thành phố biển Quy Nhơn rực rỡ sắc vàng hoa lim xẹt

Thành phố biển Quy Nhơn rực rỡ sắc vàng hoa lim xẹt

LNV - Hoa lim xẹt hay còn gọi là hoa điệp vàng, hoa phượng vàng, muồng kim phượng, lim sét...Đây là loài hoa có màu vàng rực rỡ được nở rộ từ tháng 3 đến tháng 5, tạo nên bức tranh mùa hạ với cảnh sắc tuyệt đẹp cho thành phố biển Quy Nhơn hiền hòa, mến kh
Những làng dệt thổ cẩm ở Tây Bắc

Những làng dệt thổ cẩm ở Tây Bắc

LNV - Tây Bắc không chỉ cuốn hút du khách bởi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn bởi những nét văn hóa đặc sắc, trong đó nổi bật là nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào dân tộc Mông. Từ Lùng Tám (Hà Giang), Cát Cát (Sapa) đến Sin Suối Hồ (Lai Châu), mỗi bản làng đều lưu giữ và phát triển nghề dệt lanh, nhuộm chàm, thêu sáp ong – tạo nên những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa, được yêu thích bởi cả du khách trong và ngoài nước.
Giao diện di động